Lâm Thị Mỹ Dạ:
Như nước mắt lặn sâu vào đời...
Gặp nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ vài lần đầu, thấy chị luôn cười hiền
dịu, quan tâm đến mọi người, lại xinh đẹp, trắng trẻo, nhiều người cứ tưởng nhà
thơ nữ này sống trong nhung lụa từ nhỏ. Hoàn toàn không phải vậy.
Tuổi thơ của Mỹ Dạ là tuổi thơ đầy buồn đau và nước mắt, Dạ
lúc nào cũng mang cảm giác mình là đứa trẻ “tội lỗi”... Mọi duyên cớ bắt đầu từ
chuyện nặng nề của một thời đã qua. Ba của Mỹ Dạ là ông Lâm Thanh, một người gốc
Hoa từng tham gia Việt Minh ở Huyện đội Lệ Thủy (Quảng Bình) thời chống Pháp.
Cuối năm 1949, ông đưa bố mẹ mình vào Sài Gòn làm ăn. Khi sắp xếp nơi ở cho bố
mẹ yên ổn, năm 1954, ông ra đón mẹ con Mỹ Dạ. Ông đã mua vé cho cả ba người,
nhưng đến phút cuối cùng bà Lý Thị Đấu, mẹ Dạ, không đi vì không thể bỏ lại người
mẹ già và đứa em gái bơ vơ.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ
Vào Sài Gòn ông Thanh buôn bán làm ăn đủ sống và tham gia
giúp đỡ cách mạng, cho đến khi hai tai bị điếc không nghe được nữa mới thôi.
Sau ngày 30-4-1975, những người cùng hoạt động nội thành đã xác nhận để ông
Thanh được tặng Bằng khen Chính phủ vì đã có công với cách mạng thời chống Mỹ.
Bằng khen do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký. Tất cả bốn người con ông ở Sài Gòn đều
làm nghề dạy học... Và may mắn thay, nhờ đất nước thống nhất, ông đã gặp người
con gái ở Lệ Thủy của mình. Ông càng bất ngờ và sung sướng khi biết con mình,
khi xa nó còn đỏ hỏn ấy, bây giờ đã trở thành một nhà thơ nổi tiếng!
Thế nhưng ông không biết rằng trong bao nhiêu năm, Lâm Thị Mỹ
Dạ phải chịu một lúc hai nỗi đau cực lớn: tuổi thơ thiếu vắng tình thương của
cha. Suốt ngày Dạ chỉ lui cui bên mẹ bán quán ở chợ Tuy Lộc. Những năm ấy tâm
trạng của Dạ luôn hoang mang và buồn tủi. Mẹ của Dạ là người vùng An Cựu, Huế.
Mới 10 tuổi Mỹ Dạ đã làm cả tập thơ buồn 32 bài, chép trong cuốn vở học trò. Cuốn
vở ấy nay đã bị thất lạc và Dạ chỉ nhớ được mấy câu trong bài thơ có tựa đề
Dòng sông đen: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng
sông đen...
Cái lớp cấp III của tôi thời đó đứa nào cũng tìm đến thơ như
một cứu cánh. Năm lớp 10, Mỹ Dạ, tôi và Hải Kỳ được trường chọn đi thi học sinh
giỏi văn toàn quốc. Mỹ Dạ đẹp, giỏi văn, lại hát hay, giọng ngâm thơ tốt, nên
đã trở thành nhân vật chính trên sân khấu trường tôi thời ấy. Tôi nhớ mỗi lần Dạ
mặc bộ áo lụa đen bước ra sân khấu, nghiêng chào rồi cất tiếng giới thiệu
chương trình văn nghệ, là tiếng vỗ tay nổi lên rào rào...
Khi học xong cấp III (do chiến tranh, trường tôi sơ tán ở Ngư
Hóa, miền tây Quảng Bình) năm 1968, tôi được ủy ban xã ký hồ sơ cho đi học đại
học thương mại, Đỗ Hoàng và Hải Kỳ đi sư phạm “10+3” (tức lớp 10 học sư phạm 3
tháng ở vùng núi Troóc, nơi Trường Sư phạm Quảng Bình sơ tán, để ra dạy cấp
II); còn Mỹ Dạ thì vì lý lịch không được đi học đâu cả. Dạ cùng thằng Ngò, hai
đứa cuối cùng rời làng rừng Ngư Hóa, lủi thủi vừa khóc vừa đi bộ vượt bom đạn Mỹ
150km từ núi rừng Tuyên Hóa về Lệ Thủy với mẹ...
May mà một ngày nọ, vào khoảng năm 1970, nhà thơ Hải Bằng, một
nhà thơ hoàng tộc Huế do dính líu vào vụ Nhân Văn - Giai Phẩm ở Hà Nội, bị
“phát vãng” về Quảng Bình làm nghề bán sách, lên Lệ Thủy. Nghe người ta đồn ở
thôn Tuy Lộc có bé Dạ làm thơ hay lắm, Hải Bằng hăm hở tìm đến.
Đọc thơ Dạ ông thấy đây là một tài thơ đích thực nên nhờ nhà
thơ Xuân Hoàng, nhà văn Trần Công Tấn đưa Mỹ Dạ về cơ quan Hội Văn nghệ Quảng
Bình. Chính trái tim thương tổn đã đưa Dạ đến với thơ... Mãi đến mười năm sau,
năm 1978, khi đất nước thanh bình, khi đã trở thành nhà văn Việt Nam, Mỹ Dạ được
Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên giới thiệu đi học Trường Viết văn Nguyễn Du và sau
đó, năm 1988, đi học khóa cao học ba tháng tại Học viện Gorki (Liên Xô cũ)...
Và Mỹ Dạ đã trọn đời sống với thơ bằng trái tim thương tổn
không thành sẹo ấy. Nói cách khác, nhịp đập trái tim đã thành âm hưởng chủ đạo,
thành nỗi đau trường cửu trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ:... Mẹ sinh em ngày này/ Mưa dột bầm mái tóc/ Gió tê buốt hai tay/ Mẹ không có cửa nhà/ Em - đứa trẻ
vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa.../ Nỗi mình biết ngỏ ai
hay/ Bao đêm nước mắt vơi đầy, mẹ ơi!. Ngay đến những năm gần đây, khi đã
tuổi hưu, thơ Lâm Thị Mỹ Dạ vẫn không thoát được sự ám ảnh về nỗi đau thời thiếu
nữ: Em có nỗi buồn như tro/ Hoang lạnh cả một thời thiếu nữ (Anh đã nhìn
thấy em); hay Em tựa vào em - đơn độc quen rồi / Em tựa vào em - gắng vững giữa
đời (Cho anh tựa vào em)...
Ngày 13-2-2007, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam đã ký quyết định tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật cho nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ - 1988), Trái tim sinh nở (tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983).
Trái tim thương tổn đã cho Lâm Thị Mỹ Dạ độ nhạy cảm, sẻ chia
trước thân phận những người khốn khổ vì chiến tranh, nghèo đói và sự bạc bẽo của
nhân tình, tạo nên trực cảm thơ lâu bền của chị. Dạ luôn trân trọng, chăm chút
từng biểu hiện nhỏ của tình cảm cuộc sống: bạn bè đau ốm mới vô viện chị đã sốt
sắng đi thăm; con bạn học xong chưa xin được việc làm cũng khiến Dạ băn khoăn
thao thức; thấy hoàn cảnh ai đau thương thì rưng rưng nước mắt.
Bạn đến nhà mùa hạ thì que kem, đĩa bánh nậm, mùa đông thì cốc
rượu, đĩa đậu phộng rang. Khi không có đủ tiền để lo những thứ đó, tôi thấy Dạ
thường đi vào đi ra không yên. Viết về một người lính Mỹ bị chết ở chiến trường
Việt Nam, Lâm Thị Mỹ Dạ cũng có cái nhìn rất độ lượng: Rồi có lúc cuối đường tôi
gục ngã/ Viên đạn ai găm khuôn ngực máu đầy/ Xin hãy giở dưới làn da chó sói/ Trái tim nai đỏ thắm thơ ngây! Sang thăm nước Mỹ, đến trước bức tường
đen ở Washington D.C, nơi khắc tên 58.000 lính Mỹ tử trận trong cuộc chiến Việt Nam,
Dạ cảm thấy mình đang đau nỗi đau của những bà mẹ Mỹ: Khuôn ngực đã cất giấu/ Một trái tim/ Nặng hơn quả đất... Hãy nhìn xem/ Những tên người đang chảy
máu/ Và bức tường đen như một vết thương/... không bao giờ thành sẹo (Bức
tường đen). Chỉ có trái tim của con người nhân loại mới biết đồng cảm, sẻ
chia bao la như thế!
Có lần Mỹ Dạ thổ lộ về mình trong thơ: Tóc điểm bạc mà hồn
còn trẻ nít. Nghĩa là còn biết ngạc nhiên trước mỗi sự thay đổi nhỏ của sự sống
quanh mình. Nhờ sự “ngây thơ” đó, Dạ đã phát hiện những hình tượng thơ lạ, rất
gợi cảm ngay trong cuộc sống thường nhật để viết nên những bài thơ sâu sắc như
Trái tim sinh nở, Anh đừng khen em, Tôi về với tôi, Anh đã nhìn thấy em, Đề tặng
một giấc mơ...
Bạn yêu thơ cả nước đã thuộc nhiều câu thơ rất hay của Lâm Thị
Mỹ Dạ trong các tập thơ trước, như: Nhìn lá/ cứ ngỡ là lá ngọt.../ Nếu
được vẽ chiếc hôn dưới mặt trời/ Tôi sẽ vẽ chiếc hôn như lá... Hay Em
nằm dưới đất sâu/ Như khoảng trời đã nằm yên trong đất.../ Cái chết em xanh
khoảng trời con gái/ Tôi soi mình trong cuộc sống của em... Hay Đêm
qua/ Tôi mơ thành tôi/ Tôi mơ thành chim/ Tôi mơ thành giấc mơ...
Trong tập bản thảo thơ mới nhất, dự kiến đặt tên là Hồn đầy
hoa cúc dại, tập hợp những bài viết từ đầu thế kỷ 21 đến nay, Mỹ Dạ cũng có nhiều
hình tượng thơ hay và lạ như thời còn trẻ: Em quặn mình như rễ giữa đất im (Cho
anh tựa vào em); Nếu được lạc cùng sông/ Xin lạc mãi/ Để hồn trôi êm ái
khúc du ca (Đi cùng sông Hương); Vì hương ta mãi lòng vòng/ Làm sao
cầm được có - không mà về... (Đi qua một làn hương)... Nhờ trực cảm mạnh, thơ Mỹ
Dạ là thơ thốt lên sự buốt nhói của con tim, chứ không phải “chuyện đời lựa lời
mà viết” như nhiều người khác. Thơ ấy luôn chân thật mà mới mẻ, xúc động lòng
người.
Cái “trực cảm thơ” ấy do số phận và sự từng trải của nhà thơ
tạo nên, không thể học ở sách vở hay trường lớp nào mà có được. Bởi thế, “trái
tim thương tổn luôn đau đớn” đã trở thành hình tượng đậm nét nhất trong thơ Lâm
Thị Mỹ Dạ: Dẫu khi tắt nghỉ cuộc đời/ Trái tim mẹ giữa đất trời con yêu (Trái
tim sinh nở); Hỡi người bán quạt giờ thiên cổ/ Sao gió trong tôi cứ thổi
hoài (Chợ tuổi thơ); Khi tay chạm trống đồng ngân/ Sững sờ tôi ngỡ
mình thành người xưa... (Tiếng trống đồng). Bài thơ Nói với trái tim là
tuyên ngôn về trái tim thương tổn của Lâm Thị Mỹ Dạ:
Ôi trái tim
Sao em lại mang dáng lưỡi cày
Để suốt đời không bao giờ yên ổn
Để suốt đời cày lên
Cày lên
Đớn đau và hạnh phúc...
Cứ ngỡ trái tim tổn thương ấy về cuối đời sẽ yên ổn hơn, bớt đau đớn hơn. Hóa
ra không phải. Ngày 14-6-1998, trong lúc Mỹ Dạ đang ở Hà Nội, chuẩn bị ngày mai
lên máy bay đi dự tọa đàm thơ ở Mỹ thì chồng chị, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường,
bị tai biến mạch máu não, hôn mê ở Đà Nẵng hai tháng ròng. Dạ phải hủy chuyến
đi Mỹ, bay về Đà Nẵng ngay. Từ đó đến nay, đã chín năm rồi, nữ thi sĩ của chúng
ta luôn ở bên chồng.
Chị như “người mẹ” bao dung, săn sóc, đút mớm cơm cháo, thuốc
men, xoa bóp, tắm rửa, vệ sinh cho chồng. Trái tim nhân hậu ấy thêm một lần “rớm
máu”. Trăm nghìn thứ việc chưa từng có đè lên vai người phụ nữ làm thơ xinh đẹp
ấy. Tuổi ngày càng cao, Mỹ Dạ càng bị nhiều thứ bệnh tật hành hạ, viêm khớp,
viêm xoang, nhức đầu... Thế mà chị vẫn lo liệu, tổ chức đưa chồng đi chữa bệnh
Hà Nội, Đà Nẵng, Khe Sanh, Long An, TP.HCM đến sáu chuyến liền.
Nghe ai nói thuốc gì hay, thầy nào giỏi, dù xa xôi, tốn kém đến
đâu, chị vẫn đưa chồng đến cho bằng được. Bàn tay nâng em thành bảo mẫu/
Nước mắt lặn vào trong cho anh thấy nụ cười/ Bệnh tật lo toan giấu vào đêm trắng/ Giữa tháng ngày trĩu nặng/ Em đứng thẳng người/ Cho anh tựa vào em! (Cho
anh tựa vào em).
Có lẽ vì những vết thương tim suốt đời không thành sẹo ấy,
nên dù Lâm Thị Mỹ Dạ đã “Giơ cao lá cờ trắng/ Trước thơ”, nghĩa là
xin đầu hàng thơ, thơ vẫn đến với chị nồng nàn, chân chất. Vì thơ như nước mắt
đã lặn sâu vào đời chị...
20/10/2011
Ngô
Minh
Theo https://baoquangbinh.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét