Một số nhận định về
Nền Âm nhạc Việt Nam trong thế kỷ XX là một nền âm nhạc không
cân đối. Nó rất mạnh về hoạt động ca khúc phổ thông nhưng rất yếu về hoạt động
khí nhạc và ca khúc nghệ thuật.
Trong thực tế, cả hai thể loại này đều cần thiết. Một loại nhắm
đến việc phục vụ những nhu cầu hàng ngày, còn một loại nhắm đến việc nâng cao
và cách tân nghệ thuật.
Âm nhạc phổ thông (Popular music) là gì?
Đó là tên gọi của các ca khúc mà chúng ta hát, chúng ta nghe
hàng ngày. Là loại âm nhạc không đòi hỏi người sáng tác phải nỗ lực đưa ra những
phát kiến mới về kỹ thuật và mỹ thuật âm nhạc. Trong nhạc phổ thông, người sáng
tác có thể thoải mái sử dụng những yếu tố kỹ thuật và mỹ thuật âm nhạc sẵn có từ
trước và được quần chúng yêu thích. Xét về bản chất, âm nhạc phổ thông cũng giống
như văn chương phổ thông, chủ yếu nhắm đến những mục đích mang tính xã hội,
chính trị hoặc thương mại thay vì nhắm đến mục đích thuần túy nghệ thuật. Khi
nghe một bản nhạc phổ thông, đọc một bài thơ bình dân, một tiểu thuyết phổ
thông hay xem một bức tranh bình dân thì người nghe, người đọc hoặc người xem
không cần phải được trang bị vững vàng về vốn liếng kiến thức, cũng không cần
phải vận dụng trí năng để hiểu và cảm thụ tác phẩm. Nói tóm lại, một tác phẩm
phổ thông, dù là nhạc, văn, thơ hay họa, cũng đều là việc sử dụng những công thức,
những nguyên tắc sẵn có. Do đó, nó dễ hiểu và dễ cảm thụ. Hay nói cách khác, nó
dễ sáng tác và dễ tiêu thụ.
Âm nhạc nghệ thuật (Art music) là gì?
Là tên gọi chung của các tác phẩm giao hưởng, concerto, những
bài độc tấu, song tấu, tam tấu, hợp xướng… dành để biểu diễn cho các loại nhạc
cụ như guitar, piano, violon…
Một tác phẩm âm nhạc nghệ thuật đích thực thì đầy tính sáng tạo,
mới lạ và khó khăn. Âm nhạc nghệ thuật là một thử thách to lớn về nhiều phương
diện đối với người sáng tác lẫn người nghe. Nó đòi hỏi nơi khán thính giả sự tập
trung lắng nghe; đồng thời, cũng phải có kiến thức về âm nhạc, bao gồm cả ký âm
pháp.
Hiện tượng ca khúc phổ thông đầu tiên xuất hiện ở nước ta vào
những năm 1930 với một số ca khúc mới được sáng tác và ghi lại theo ký âm pháp
Tây phương. Trong những ngày đầu, hầu hết những người sáng tác ca khúc đều tự học
hoặc chỉ có trình độ nhạc học căn bản. Các tác phẩm của họ chịu ảnh hưởng nặng
nề của chủ nghĩa lãng mạn Pháp cuối mùa về lời ca và không khí phòng trà bên trời
Tây về âm nhạc. Rồi các nhạc sĩ có thể pha thêm vào tác phẩm của họ một chút
thang âm ngũ-cung bình-quân-luật trong giai điệu và ít nhiều tính cách dân tộc
chủ nghĩa trong lời ca. Nhưng đối nghịch với những đặc trưng của dân ca cổ truyền,
đặc trưng của ca khúc phổ thông Việt Nam là việc các nhạc sĩ ấy đã sử dụng các
yếu tố nhạc tính Tây phương trong hòa âm, trong thang-âm bình-quân-luật, trong
bố cục theo dạng A-B-A, trong việc sử dụng nhóm nhạc nhẹ để đệm cho giọng hát
và trong việc xây dựng tiết tấu trên sườn của các điệu khiêu vũ phổ thông như
tango, cha cha cha, rumba, slow…
Trong giai đoạn này, có thể những nhạc sĩ đầu tiên của nền
Tân nhạc không nhắm vào mục đích thương mại. Nhưng do vốn liếng âm nhạc của họ
bị hạn chế, nên giá trị tác phẩm của họ chỉ ngang với, hoặc kém hơn các các ca
khúc phổ thông ở Tây phương thời bấy giờ. Qua một giai đoạn tình ca, ca khúc phổ
thông được sử dụng để tác động vào tinh thần kháng chiến chống thực dân, đế quốc.
Sau thời kỳ đó, nó lại quay về với những cảm nghĩ bình thường, trở thành một
món giải trí hàng ngày cũng như đã nhanh chóng trở thành một hiện tương giống hệt
như hiện tượng ca khúc thương mại ở Tây phương và đạt đến đỉnh điểm trong hậu
bán thế kỷ XX.
Như thế, sự ra đời của ca khúc phổ thông chính là sự ra đời của
nền Tân nhạc Việt Nam. Ngay từ đầu, nó đã nhanh chóng nắm vai trò thống lĩnh
trong hoạt động âm nhạc ở nước ta và vẫn còn giữ vị trí ấy cho đến ngày nay. Quả
thực, khán thính giả Việt Nam đã bị choáng ngợp bởi hiện tượng này đến độ, đối
với đại đa số người, khái niệm “âm nhạc” hoàn toàn đồng nghĩa với khái niệm “ca
khúc phổ thông”. “Nhạc” chỉ còn có nghĩa là “bài hát”.
Nếu xét trên ba phương diện: tổng thể âm thanh, thái độ trình
diễn, thưởng ngoạn và ý niệm về vai trò của âm nhạc, ta có thể thấy những điều
sau đây:
- Về tổng thể âm thanh, ngay từ đầu ca khúc phổ thông đã mang
nặng vẻ Âu hóa. Và đến nay, gần như hoàn toàn Âu hóa, chỉ còn mơ hồ những nét
giả Đông phương trong những thang âm ngũ cung bình quân luật.
- Thái độ trình diễn và thưởng ngoạn cũng bị Âu hóa ở mức độ
đó! Việc kết hợp ca khúc với ban nhạc nhẹ và sinh hoạt khiêu vũ là một bằng chứng
rõ ràng. Ca khúc phổ thông cũng mang một ý niệm về vai trò của âm nhạc: hầu như
hoàn toàn xa rời với truyền thống ca hát dân gian ngày xưa. Trong khi truyền thống
ca hát dân gian bao gồm những bài hát trong lao động, hát ru con, hát lễ bái,
hát giao duyên…thì ca khúc phổ thông hôm nay chỉ chủ yếu là sinh hoạt giải trí
và mang tính tiêu dùng.
Khi nghe ca khúc phổ thông, hầu hết đa số chúng ta không “lắng
nghe” phần nhạc mà chủ yếu là theo dõi bằng lời. Về phần nhạc, khán thính giả
chỉ nghe một cách dễ dãi, nhàn tản. Hơn nữa, do không có kiến thức âm nhạc nên
không nhận ra hay không quan tâm đến tính cách Âu hóa nặng nề của phần nhạc.
Trong khi đó, ngay từ đầu người viết ca khúc phổ thông cũng
không nhắm đến việc tạo nên những tác phẩm âm nhạc nghệ thuật, một loại âm nhạc
đòi hỏi nơi khán giả sự tập trung lắng nghe và phải có kiến thức về âm nhạc. Thực
tế cho thấy, một số ca khúc được viết với chủ ý nghiêm túc về nghệ thuật âm nhạc
và giá trị văn học trong ca từ đã không thể trở thành phổ thông. Để tác phẩm được
phổ thông, tác giả chỉ cần nhắm tới việc sáng tác ra những lời hát chuyên chở
những tâm tình mà khán thính giả muốn và dễ dàng thu nhận. Những bài hát này, tốt
nhất nên được đặt vào những mô thức giai điệu đơn giản và dễ nhớ. Chính điều
này, đã đẩy phần âm nhạc trong ca khúc phổ thông xuống hàng thứ yếu.
Đối với các nhạc sĩ viết ca khúc nghệ thuật, phần nhạc đệm
đóng vai trò rất quan trọng. Trong khi đó, các nhạc sĩ viết ca khúc phổ thông hầu
như không bao giờ có ý niệm gì về nhạc đệm. Để rồi khi hát lên, người hát thường
chỉ hát trên nền nhạc ứng diễn của ban nhạc nhẹ, hoặc nền nhạc được phối
khí, mà người phối khí thường không phải là tác giả. Bản phối khí ấy thường rập
khuôn theo các công thức thịnh hành và hầu như lệ thuộc hoàn toàn theo thẩm mỹ
chủ quan của người phối khí, thậm chí trái ngược với quan điểm mỹ học của tác
giả. Nói cách khác, mỗi ca khúc có thể được trình diễn trên vô số nền nhạc khác
nhau, thậm chí hoàn toàn tương phản nhau trên nhiều phương diện.
Thực tế cho thấy, phần lời quan trọng đến độ có nhiều nhạc sĩ
đã phân loại ca khúc của chính mình căn cứ theo chủ đề của phần lời chứ không
phải theo cấu trúc của phần nhạc. Tất nhiên, nếu chỉ căn cứ theo phần nhạc,
chúng ta sẽ thấy giữa các “thể loại” ca khúc của họ không có sự dị biệt nào
đáng lưu ý trong âm nhạc. Sự đối nghịch giữa phần ý và phần lời trong ca khúc
phổ thông Việt Nam đã có từ lâu, nhưng do phần lớn khán thính giả Việt Nam chỉ
tập trung chú ý vào phần lời nên không nhận ra sự đối nghịch này! Hơn nữa,
không chỉ khán thính giả, mà phần lớn các nhạc sĩ sáng tác ca khúc cũng chỉ chủ
yếu tập trung vào phần lời. Phần nhạc chủ yếu chỉ được dùng như phương tiện để
chuyên chở phần lời.
Sự quan trọng của phần lời còn dẫn đến một số hiện tượng đáng
lưu ý.
Một là, xảy ra hiện tương bình luận ca khúc như bình thơ; trong đó, người bình luận chỉ hoàn toàn bàn về phần lời và gạt bỏ phần nhạc, hay cùng lắm là phát biểu vài ý nghĩ đầy cảm tính và hoàn toàn phi nhạc học.
Hai là, hiện tượng xuất bản những tuyển tập lời ca thuần túy không có dòng nhạc.
Và ba là, hiện tượng lời ca tạo ảnh hưởng đến văn học. Qua đó, chúng ta có thể thấyrất nhiều tác phẩm thơ và văn chương trích dẫn hay vay mượn lời ca. Tuy nhiên, cho dù lời ca đóng vai trò quan trọng như thế nào, giá trị văn học của lời ca thường kém hẳn về phẩm chất nghệ thuật nếu so với thơ. Tính cách hấp dẫn của lời ca đối với quần chúng không chủ yếu nằm trong nghệ thuật, tạo nên cái mới lạ như thơ mà ngược lại, nằm trong sự truyền cảm trực tiếp qua trung gian cái quen thuộc và đầy khuôn sáo của lời ca cộng với sự hỗ trợ của những giai điệu dễ nhớ. Điều này, có thể giúp chúng ta hiểu tại sao một dân tộc có truyền thống thơ lâu dài như Việt Nam, đến hôm nay lại bị quyến rũ bởi lời ca phổ thông hơn là thơ. Chính cái quen thuộc và đầy khuôn sáo mới là cái chuyên chở những cảm nghĩ gần gũi nhất đối với con người bình thường. Do đó, họ yêu và cần chúng! Thế nhưng, không nhất thiết ai cũng yêu ca khúc phổ thông chủ yếu vì phần lời. Ta có thể nhìn thấy những con người không cần lưu ý đến cả phần lời, mà chỉ cần một thứ âm thanh và vài ngôn từ nào đó, nhẹ nhàng hay kích động để được thoải mái mơ màng hay chuyển động gân bắp theo điệu khiêu vũ.
Một là, xảy ra hiện tương bình luận ca khúc như bình thơ; trong đó, người bình luận chỉ hoàn toàn bàn về phần lời và gạt bỏ phần nhạc, hay cùng lắm là phát biểu vài ý nghĩ đầy cảm tính và hoàn toàn phi nhạc học.
Hai là, hiện tượng xuất bản những tuyển tập lời ca thuần túy không có dòng nhạc.
Và ba là, hiện tượng lời ca tạo ảnh hưởng đến văn học. Qua đó, chúng ta có thể thấyrất nhiều tác phẩm thơ và văn chương trích dẫn hay vay mượn lời ca. Tuy nhiên, cho dù lời ca đóng vai trò quan trọng như thế nào, giá trị văn học của lời ca thường kém hẳn về phẩm chất nghệ thuật nếu so với thơ. Tính cách hấp dẫn của lời ca đối với quần chúng không chủ yếu nằm trong nghệ thuật, tạo nên cái mới lạ như thơ mà ngược lại, nằm trong sự truyền cảm trực tiếp qua trung gian cái quen thuộc và đầy khuôn sáo của lời ca cộng với sự hỗ trợ của những giai điệu dễ nhớ. Điều này, có thể giúp chúng ta hiểu tại sao một dân tộc có truyền thống thơ lâu dài như Việt Nam, đến hôm nay lại bị quyến rũ bởi lời ca phổ thông hơn là thơ. Chính cái quen thuộc và đầy khuôn sáo mới là cái chuyên chở những cảm nghĩ gần gũi nhất đối với con người bình thường. Do đó, họ yêu và cần chúng! Thế nhưng, không nhất thiết ai cũng yêu ca khúc phổ thông chủ yếu vì phần lời. Ta có thể nhìn thấy những con người không cần lưu ý đến cả phần lời, mà chỉ cần một thứ âm thanh và vài ngôn từ nào đó, nhẹ nhàng hay kích động để được thoải mái mơ màng hay chuyển động gân bắp theo điệu khiêu vũ.
Được xem là một loại hình chủ đạo ở Việt Nam, ca khúc phổ
thông đã có những thành tựu đáng kể. Trong đó, thành tựu đầu tiên là thành tựu
về phương diện âm nhạc. Nhờ sự ra đời của nó, chúng ta mới có ý niệm về nhạc sĩ
(composer). Trước đây, âm nhạc cổ truyền Việt Nam tồn tại chủ yếu nhờ truyền khẩu,
bởi ký âm pháp quá thô sơ nên không thể ghi chép chính xác âm nhạc. Do không
ghi âm lại cũng như không chép xuống giấy được, nên chúng ta vừa không có nhạc
sĩ, vừa phải chịu nạn thất truyền. Cả những sườn giai điệu đơn giản cũng phải bị
mất mát hết vì ký ức con người có hạn!
Nhưng dẫu sao, việc thu nhận ký âm pháp Tây phương để sáng
tác ca khúc phổ thông cũng là một bước tiến quan trọng, tạo tiền đề cho ý thức
sáng tạo âm nhạc và là nhịp cầu để chúng ta hiểu biết âm nhạc thế giới, để những
yếu tố văn hóa đặc thù Việt Nam không hiện trên bề mặt nông cạn theo kiểu bày
hàng quảng cáo mà tiềm ẩn bên dưới những cấu trúc hình tượng, ý tưởng hết sức
phức tạp và trừu tượng. Đó là những tác phẩm nghệ thuật đương đại mang tính quốc
tế, nghệ thuật của “một” thế giới “đa” văn hóa. Trong đó, tính cách Việt Nam
đan quyện vào những tính cách khác một cách hết sức tinh tế và sinh động. Chúng
ta cũng nhất định phải biết ơn những nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên đã mạnh dạn bước
ra khỏi nền Âm nhạc Dân tộc Cổ truyền để bước vào nền Tân nhạc.
Đức Dậu (trống), Bích Ngọc, Mạnh Hùng (đàn đáy)
Danh ca TP Huế: Vân Khánh và dàn nhạc cổ Huế
Nhạc sĩ Lương Tín Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét