Ngày xuân đọc lại “Xứ Trầm
hương”(1)
Sinh ra và lớn lên ở Bình Định,
nhưng người thi sĩ của MỘT TẤM LÒNG, của MÙA CỔ ĐIỂN lại có hơn nửa đời người gắn
bó với Nha Trang, Khánh Hòa, vùng đất mà ông “kính yêu như bà Nghĩa mẫu” (2),
vùng đất mà ông đã trải tấm tình “thiết tha, thành thực” (3) trong rất nhiều
sáng tác của mình. Và không chỉ trong thơ. Cái tên XỨ TRẦM HƯƠNG thi vị hóa từ
nguồn lợi lâm sản nổi tiếng bao đời nay của Khánh Hòa còn là nhan đề một tập
văn xuôi đặc sắc của ông, xuất bản lần đầu tiên tại Sài Gòn năm 1969, đến nay
đã gần 40 năm vẫn được đông đảo bạn đọc xa gần mến mộ.
Tuy nơi LỜI THƯA đầu sách,
tác giả đã dè dặt minh xác rằng mình không có tham vọng viết một quyển địa
phương chí, mà chỉ làm công việc “ghi chép lại những gì đã thấy, đã nghe, đã cảm
trong mấy mươi năm sống cùng non nước Khánh Hòa”(4), nhưng suốt cả gần 500
trang giấy, ngòi bút tài hoa, lịch lãm của ông đã đóng trọn vai người hướng đạo
nhiệt thành đưa ta đi thăm thú, tìm hiểu hầu khắp mọi mặt của địa phương, từ địa
lý, lịch sử, kinh tế, văn hóa đến phong tục, vật sản, các thắng cảnh cổ tích,
các nhân vật hữu danh v.v... Như vậy, theo cách hiểu thông thường, vẫn có thể
coi XỨ TRẦM HƯƠNG là một quyển địa phương chí về đất nước, con người Khánh Hòa,
nhưng ở đây còn với cái nhìn và bút pháp thể hiện của một nhà thơ giàu xúc cảm
và tâm huyết.
Giá trị của XỨ TRẦM HƯƠNG có
lẽ không phải là ở những tài liệu về dân số, về độ cao của núi non, chiều dài của
sông suối, sản lượng khai thác các nguồn lợi kinh tế trong tỉnh... mặc dù tất cả
những điều này đều được tác giả ghi chép công phu, cặn kẽ.
Với ý đồ giữ gìn tư liệu
truyền thống, ghi chép sự tích cha ông, tôn vinh những giá trị tốt đẹp của quê
hương, con người nghiên cứu của Quách Tấn dường như đã chọn cho mình một cách
tiếp cận từ giác độ văn hóa dân gian. Ông tìm về những gì có thể chúng ta đã
lãng quên, mất mát, những dấu tích, những vang bóng một thời. Mỗi trang sách
như mở ra một đoạn đường, một mảnh đất, một khoảng trời quê hương tươi đẹp, nơi
hiện thực và huyền thoại đan dệt vào nhau tưởng chừng, nói như một nhà văn, “chỗ
nào ta cũng thấy phảng phất hình ảnh của người xưa, văng vẳng tiếng nói của người
xưa”.
Hãy đọc XỨ TRẦM HƯƠNG để được
cùng thi sĩ lên tận thượng nguồn nghiêng mình trước vẻ đẹp trầm hùng, dữ dội của
những thác Hòm, thác Võng, thác Dằng Xay, thác Nhét... rồi trở về xuôi theo
dòng sông Nha Trang chảy thanh thản giữa đồng bằng xanh mát mà cái tên sông nhắc
nhớ ta “xưa kia hai bên bờ ngút ngàn lau lách mọc đầy” (5).
Hãy đọc XỨ TRẦM HƯƠNG để được
cùng thi sĩ dạo khắp dãy quần sơn hiểm trở của Khánh Hòa, từ trên chon von đỉnh
đèo Đại Lãnh nghe câu hát của khách đa tình buổi trước:
“Bước chân lên đèo Cả/
Trông
sang Vạn Giã/
Ngó lại Tu Bông...” (6)
đến vẻ thâm nghiêm, huyền bí của dãy
hòn Bà (tương truyền là nơi Hành cung của nữ thần Thiên Y A Na) quanh năm chìm
ngập trong biển mây trắng xóa (7).
Hãy đọc XỨ TRẦM HƯƠNG để được
cùng thi sĩ “đến Trường Bơi ăn cá, lên rượng mà ca rình xem voi, xuống hồ Đá Xẻ
thưởng thức chà khé”(8), để được tận hưởng cái thú uống nước dừa mà theo tác giả
“cũng giống như uống trà uống rượu, phải biết cách uống mới thưởng thức trọn vẹn
chân vị chân hương”(9), để biết mở lòng ra đón cái “gió Khánh Hòa mùa nào cũng
có hương trầm ẩn hiện. Người thức khuya thường hay bắt gặp lúc trời trong” (10),
và cũng để đừng trở thành kẻ bàng quang, bất kính trước những đình đền am miếu,
những cổ tự danh lam, với thời gian đang ngày càng thâm u, hoang phế.
Hãy đọc XỨ TRẦM HƯƠNG để biết
rằng ngay giữa lòng thành phố Nha Trang tòa ngang dãy dọc hiện giờ, xưa kia đã
từng có một rừng mai Phước Hải, “mùa xuân hoa nở ánh cả vùng”(11), và bên cạnh
rừng mai, còn có rừng dương liễu mơ màng buông lục để từ đấy Nha Trang còn nổi
danh là một miền “thùy dương cát trắng”(12).
Hãy đọc XỨ TRẦM HƯƠNG để hiểu
thêm về cuộc đất đại địa của Nha Trang, nơi sông biển bốn bề bao bọc, và đây đó
“bốn hòn núi tượng hình bốn con thú tự họp lại để giữ gìn anh khí”(13) cho
cuộc sống con người.
Hãy đọc XỨ TRẦM HƯƠNG để giữ
mãi trong tâm tưởng một đêm giao thừa ở Tháp Bà, vào cái thời khắc đất trời
giao cảm ấy “núi non trông biếc thêm, sông biển trông trong thêm. Và những chòm
cây muồng hòe ở hai bên đường, những khóm lau khóm dứa ở nơi bãi vắng, đầy đặc
cả đom đóm”, tựa hồ “bao nhiêu sao trên trời đều sa xuống đọng nơi cây cối”
(14).
Giữa bao nhiêu biến thiên,
thay đổi của cuộc đời, Quách Tấn giữ lại cho ta hình ảnh một Nha Trang “đồng
hóa cùng lá cây và dính liền với làng quê đồng ruộng, những cao ốc biệt thự phố
xá chỉ còn là những vết trắng, vệt xám, vệt đỏ thấp thoáng trong sắc xanh của
cây của núi của trời”(15), một Nha Trang của “lá me, lá chành ruột lác đác bay.
Chiều chiều chim én lượn từng bầy đớp chuồn chuồn trong sương mỏng” (16), Nha
Trang của “những áo xiêm... lần lượt biến thành năm sắc mây bay chờn vờn trên
ngàn cây cổ thụ”(17), Nha Trang của “mùi hương rừng bay theo gió, có đó rồi
không” (18).
Một dải non sông gấm vóc từ
đèo Cả đến Cam Ranh, tưởng chừng nơi đâu cũng gặp những cảnh quan thiên nhiên kỳ
thú, những di tích lịch sử, những dấu vết của một nền văn hóa xa xăm, những câu
ca, điệu hò, chuyện kể dân gian đượm màu huyền hoặc, những ngóc ngách của con
người, làng xóm, tập tục, sinh hoạt... tất cả, dưới ngòi bút tinh tế và tâm hồn
nhạy cảm của nhà thơ đều hiện lên sinh động, tươi rói như một bức tranh khảm
nhiều màu sắc.
Cổ nhân từng phân biệt hai
hình thức văn chương: văn chương trước thuật và văn chương cảm hứng. Văn chương
trước thuật vốn là sở trường của nhà học giả, còn văn chương cảm hứng là của
văn gia, thi sĩ. Lại thấy người ta thường nói, hễ làm thơ hay thì viết văn
không hay. Điều này chắc là không đúng, lại càng không đúng với trường hợp
Quách Tấn. Từ NƯỚC NON BÌNH ĐỊNH đến XỨ TRẦM HƯƠNG, hai tác phẩm có tính chất
biên khảo này của một người lúc sinh thời từng được coi là “cây cổ thụ hiếm hoi
còn lại trong cánh rừng đại ngàn thơ Việt”(19) đã chứng tỏ ông chẳng những
có tài về thơ mà còn có tài về văn nữa.
(1) Quách Tấn, XỨ TRẦM
HƯƠNG, Hội VHNT K Hòa tái bản, 2002.
(2) Từ (2) đến (18) đều
trích dẫn ở XỨ TRẦM HƯƠNG, sách đã dẫn ở mục (1).
(19) Thế Vũ, CON RÙA
VÀNG CỦA THƠ VIỆT HIỆN ĐẠI, tạp chí Văn hóa & đời sống, tháng 9/1992, trang
58.
Nguyễn Man Nhiên
Nguồn: http://www.vanchuongviet.org/
Trả lờiXóavé máy bay eva giá rẻ
vé máy bay từ sài gòn đi mỹ
korean airlines
mua vé máy bay đi mỹ hãng nào rẻ
vé máy bay đi canada giá bao nhiêu
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Tri Thức Du Lịch