Ca khúc của Trịnh Công Sơn
là một trong những hiện tượng đặc biệt của nền âm nhạc Việt Nam. Từ ca khúc đầu
tay có tên Ướt mi xuất hiện đến nay, hàng trăm tác phẩm của Trịnh Công Sơn đã
như một miền gió hiền làm mát lành khí quyển âm nhạc của nước nhà suốt mấy chục
năm qua. Những ca khúc ấy đã có sức mê hoặc lòng người đến kì lạ! Nó không chỉ
hấp dẫn người ta khi thưởng thức, chiêm ngưỡng mà còn cuốn hút người ta tìm hiểu,
khám phá. Nhiều người đã đến với ca khúc của Trịnh Công Sơn ở lĩnh vực thứ hai,
trong đó có cả người nước ngoài và đã gặt hái những kết quả đáng ghi nhận.
Khi nghiên cứu ca khúc Trịnh
Công Sơn, thường người ta nặng về phân tích các yếu tố âm nhạc như giai điệu,
tiết tấu, phong cách…cũng như sức phổ biến rộng lớn của nó trong khán thính giả
mà chưa quan tâm đúng mức đến một lĩnh vực không kém phần nổi trội đó là ca
từ. Ca từ, nói một cách dễ hiểu là phần lời trong ca khúc của Trịnh
Công Sơn, nếu được bóc tách khỏi phần nhạc và được xem xét với tư cách là ngôn
từ của văn chương, không hoặc ít bị tác động, câu thúc bởi giai điệu, tiết tấu…sẽ
đem đến cho người đọc những khám phá bất ngờ, thú vị.
Tôi gọi phần ca từ ấy là những thi
phẩm và Trịnh Công Sơn là người phổ nhạc chính những bài thơ của mình. Hơn
thế, đó là những bài thơ hay, có thể tuyển in thành một (nhiều) tập thơ độc
đáo, có giá trị nghệ thuật không kém bất cứ một tập danh thi nào trong nền thơ
hiện đại Việt Nam !
Trước hết, xét về mặt bố
cục, hầu hết phần ca từ trong các ca khúc của Trịnh Công Sơn đều là những bài
thơ chặt chẽ, súc tích; thường được chia thành từng khổ gồm 3; 4 hoặc 5 dòng
thơ, có bài dài trên 10 khổ nhưng cũng có bài gọn ghẽ chỉ 4 khổ; mỗi khổ thơ nhằm
diễn đạt trọn vẹn một ý tưởng nào đó dệt thành qũi đạo bay quanh tứ thơ được
tác giả nêu lên như một biểu tượng (ấn tượng) trong từng bài.
Để thể hiện thật rõ cái tứ :
tình yêu - lời ru, Trịnh Công Sơn đã viết đến 10 khổ thơ đầy ắp hình ảnh đẹp, sống
động như:
“Ru em đầu con gió
Em hong tóc bên hồ
Khi sen hồng mới nở
Nụ đời ôi thơm quá!
Ru em tình khi nhớ
Ru em tình lúc xa
Ru cho bầy lá nhỏ
Rụng đầy một mùa thu”
(Ru
tình)
Hoặc để diễn đạt tứ thơ: sự
lãng quên đồng nghĩa với sự lụi tàn, sự kết thúc, tác giả viết :
“Mười năm chân bước trên đường
dài
Gặp nhau không nói, không nụ
cười
Chút tình dường như hiu hắt
bay.
Mười năm khi phố, khi vùng đồi
Nhìn nhau ôi cũng như mọi
người
Có một dòng sông đã qua đời”
Bố cục chỉ là một trong những
ưu điểm của thơ Trịnh Công Sơn, bởi nói đến thi phẩm của
ông, có lẽ điều cần quan tâm nhất phải là các yếu tố vần điệu, từ ngữ,
hình ảnh, biện pháp tu từ…mới mẻ, độc đáo. Sở dĩ ca khúc của Trịnh Công Sơn được
yêu thích đặc biệt, một phần không nhỏ là nhờ sự tác động trực tiếp của các yếu
tố trên.
Trước hết, thử tìm hiểu vài
nét về cách gieo vần trong thi phẩm của Trịnh Công Sơn. Nói
đến thơ, dù cách tân táo bạo đến đâu, người ta cũng không bao giờ dám phủ nhận
sạch trơn yếu tố vần điệu. Vần như là một trong những đặc trưng cơ bản nhất của
thơ; bởi chỉ trừ thơ tự do (với nghĩa rộng nhất), còn lại, bất cứ thể thơ nào
trong thi ca tiếng Việt cũng có vần và tồn tại nhờ vần. Vần là cứu cánh của lục
bát, của song thất lục bát… Vần là một trong những nguyên tắc thi pháp cơ bản của
Đường thi…Nhưng đó là thơ, còn với ca từ trong ca khúc, người ta có thể khước từ
vần nhờ sự che chở và chắp cánh của các yếu tố khác thuộc lĩnh vực âm nhạc. Nhiều
nhạc sĩ đã không mấy chú ý đến thao tác gieo vần trong ca từ mà ca khúc của họ
vẫn đứng vững đấy thôi!
Vậy mà Trịnh Công Sơn thì
khác: vần là một đặc điểm nổi trội trong ca từ của ông, bởi theo
tôi, tất cả đều được viết ra trước hết với tư cách là những bài thơ. Cách gieo
vần của Trịnh Công Sơn không những phong phú mà còn sáng tạo. Nhìn chung, trong
những thi phẩm của ông, vần chân là chủ đạo. Tuy nhiên, trên cơ sở
cách gieo vần ấy, tác giả đã đưa ra những biến thể kiểu vần chân - vần
lưng – vần chân khá thuần thục, mang tính nhạc cao (đương nhiên !):
“Em đi qua chốn này ôi a vui
như ngày hội
Tôi xin làm quán đợi buồn
chân em ghé chơi
Em đi qua chốn này ôi a sao
em đành vội
Tôi xin làm đá cuội và
lăn theo gót hài”
(Biết
đâu nguồn cội)
Hoặc:
“Hai mươi năm em trả lại rồi
Trả nợ một đời tay
vắng vòng tay
Hai mươi năm vơi cạn lại đầy
Trả nợ một thời môi
vắng vần môi”
(Xin
trả nợ người)
Cách sử dụng từ ngữ trong thơ của
Trịnh Công Sơn cũng là một miền nghệ thuật cần khám phá. Đó là một hệ thống từ
ngữ có chọn lọc, gợi tả, gợi cảm nhưng rất dung dị và đầy mới lạ. Có những từ
ngữ ngỡ như Trịnh Công Sơn là người đầu tiên nói ra : con trăng(em đi qua
chuyến đò thấy con trăng đang nằm ngủ); nắng khuya (có khi nắng khuya
chưa lên mà một loài hoa chợt tím); giọt chiều (giọt chiều trên lá
như mắt người cười giữa chiều phai); đá lên (người lặng nghe đá lên
trong mình); tôi xin làm đá cuội (tôi xin làm đá cuội và lăn theo gót hài); áo
xưa dù nhàu (áo xưa dù nhàu; cũng xin bạc đầu; gọi mãi tên nhau); từng
ngón xuân nồng (ru mãi ngàn năm từng ngón xuân nồng)… Có những từ ngữ
được Trịnh Công Sơn sáng tạo để đặt tên cho tác phẩm của mình và dường như đã
trở thành những cụm từ cố định trong giao tiếp của không ít người như: Diễm
xưa; cát bụi; hạ trắng; mưa hồng; biển nhớ; phôi pha; ở trọ…
Thơ Trịnh Công Sơn bao
giờ cũng đầy ắp những hình ảnh đẹp và thật sự mới mẻ, tạo nên nét mĩ cảm độc
đáo cho người thưởng thức, tìm hiểu. Tính hình tượng là một trong những đặc điểm
quan trọng của thơ. Tính hình tượng của thơ chủ yếu thể hiện bởi các hình ảnh thơ.
Nhưng không phải bài thơ nào, không phải thơ của ai cũng giàu có hình ảnh. Ca từ
trong ca khúc lại không yêu cầu cao về điều này. Có không ít ca khúc mà phần lời
chỉ là những lời tường thuật khô, mộc, nếu tách khỏi nhạc thì không thể nào coi
đó là một sản phẩm văn học nghệ thuật.
Trịnh Công Sơn, như đã nói,
với tư cách một thi sĩ chân chính đã không như thế. Ông đã làm thơ trước làm nhạc,
hay nói đúng hơn ông đã phổ nhạc cho thơ mình nên ngôn ngữ của ông có khả năng
công phá mãnh liệt bởi hệ thống hình ảnh phong phú, sáng tạo. Đó là hình ảnh nhỏ
bé của những hạt mưa – phận người (tôi thu tôi bé lại làm mưa tan giữa trời)
hay hình ảnh của mặt trời – biểu tượng tuần hoàn của thời gian (mặt trời lấp
lánh trên cao vừa xa vừa gần). Đó là hình ảnh con sông quê và mảnh vườn xưa
nhân hậu (có con sông vạm vỡ, có bóng cây vườn cũ) hay hình ảnh ngọn núi lặng
gió nên thơ (cuồng phong cánh mỏi về bên núi đợi)…Và đôi khi, đó là những hình ảnh
lạ lẫm, bất ngờ, khiến người ta ngỡ ngàng thán phục vì không hiểu sao tác giả lại
có đủ bản lĩnh để dựng nên một hình ảnh táo bạo đến thế:
“Đàn bò vào thành phố
Đêm buồn vắng buồn hơn…
Đàn bò bỗng thấy buồn
Rồi một hôm đứng mơ mây
ngàn”
(Du
mục)
Chính nhờ ngôn ngữ Trịnh
Công Sơn giàu có hình ảnh nên nhiều tác phẩm của ông có tính hình tượng cao, có
tính biểu tượng rõ nét. Các tác phẩm : Cát bụi; Hạ trắng; Biển nhớ; Ở trọ;
Bốn mùa thay lá; Hoa vàng mấy độ; Một cõi đi về…là những ví dụ tiêu
biểu.
Nổi bật nhất trong thơ Trịnh
Công Sơn là tần số xuất hiện cao của hệ thống các biện pháp tu từ tiếng Việt và
hiệu qủa đạt được khi sử dụng chúng. Ta bắt gặp thường xuyên trong thơ ông lối ẩn
dụ, so sánh, nhân hóa, cường điệu…được dùng một cách mới lạ, sáng tạo. Đây
chính là một trong những nét khu biệt làm nên sự độc đáo của ca từ Trịnh Công
Sơn. Ta nói ca từ của ông rất thơ cũng vì điều đó ! Dường như phẩm chất giao tiếp
của Trịnh Công Sơn là luôn luôn làm lạ hóa ngôn ngữ, luôn luôn sáng tạo
để làm giàu có thêm vốn tiếng mẹ đẻ vốn đã rất giàu có!
Không thế sao Trịnh Công Sơn
có được những ẩn dụ sau:
Nụ mầm mới và nụ
cười là cái đẹp vĩnh hằng của tình yêu và sức sống bất diệt của cuộc đời
trước thời gian vô tận:
“Bên trời xanh mãi những nụ
mầm mới
Để lại trong cõi thiên thu
hình dáng nụ cười”
(Bốn
mùa thay lá)
Nhưng thời gian vô tận trôi
đi và lòng người cũng như chiếc lá thu phai thì lau trắng trong tay
chính là dòng tóc dài của người quá vãng:
“Chiều hôm thức dậy ngồi ôm
tóc dài
Chập chờn lau trắng trong
tay”
(Chiếc
lá thu phai)
Không thế sao Trịnh Công Sơn
có được hàng loạt những so sánh sau:
- Con sông là quán trọ và
trăng tên lãng du.
- Con sông là thuyền, mây xa
là buồm.
- Chợt một chiều tóc trắng
như vôi.
- Chiều đi như nắng vẫn cho
đời lửa bếp hồng khơi.
- Có người lòng như khăn mới
thêu.
- Có người lòng như nắng qua
đèo.
- Thấy đời mình là những
chuyến xe
(đám
đông; quán không…)
- Mặt trời như trái cây tuyệt
vọng.
- Môi em là đốm lửa
hoặc:
Đôi môi
em là đốm lửa hồng.
- Bàn chân ai rất nhẹ
Tựa hồn những năm xưa.
- Vai em gầy guộc nhỏ
Như cánh vạc về chốn xa xôi.
- Đóa hoa vàng mỏng manh cuối
trời
Như một lời chia tay.…
Sau cùng, xin nói đôi điều về
sự phong phú các thể thơ mà Trịnh Công Sơn đã chọn làm nên ca từ của
mình. Như đã nói ở trên, Trịnh Công Sơn đã làm thơ trước khi phổ nhạc chính những
bài thơ đó cho nên ông rất có ý thức lựa chọn thể thơ phù hợp với nội dung mình
diễn đạt.
Có khi đó là những dòng lục
bát nhẹ nhàng, lãng đãng:
“Sương kia ở trọ miền xa
Cơn gió ở trọ bao la đất trời”
Có khi là dòng thơ thuộc thể
bốn chữ nhịp nhàng, thanh thoát:
“Tìm em tôi tìm
Mình hạc sương mai
Tìm trên non ngàn
Một cành hoa khôi”
(Đóa
hoa vô thường)
hay thể thất ngôn rõ ràng,
nhấn nhá:
“Tôi vẫn nhìn thấy em
Giữa đám đông xa lạ
Vì em như hoa lá
Giữa thiên nhiên hiền hòa”
(Em
đến từ nghìn xưa)
hoặc sự kết hợp giữa bốn chữ
và năm chữ:
“Tôi ru em ngủ
Một sớm mùa xuân
Em hôn một nụ hồng
Hỏi thăm về giọt nắng”
(Tôi
ru em ngủ)
Có khi dó là những dòng thơ
lục ngôn, thất ngôn hoặc dài hơn và sự phối hợp giữa chúng nhằm diễn tả sự đan
xen, thấm đẫm nhiều ý tưởng, nhiều cung bậc tình cảm:
“Trời ươm nắng cho mây hồng
Mây qua mau em nghiêng sầu”
(Mưa
hồng)
“Ôi mênh mang những chiều
gió lên
Tình như lá bỗng vàng bỗng
xanh”
(Tạ
ơn)
“Đừng tuyệt vọng, tôi ơi, đừng
tuyệt vọng
Lá mùa thu rơi rụng giữa mùa
đông”
(Tôi
ơi, đừng tuyệt vọng)
“Em đi qua chuyến đò thấy
con trăng đang nằm ngủ
Trăng muôn đời thiếu nợ mà
sông không nhớ ra”
(Biết
đâu nguồn cội)…
Trên đây là vài nét phác thảo
về thơ Trịnh Công Sơn xét trên bình diện nghệ thuật. Những gì
thuộc về bình diện nội dung như các vấn đề nhân sinh nói chung, về thân phận
con người, về tình yêu lứa đôi, về chống chiến tranh phi nghĩa… người nghe ít
nhiều cũng đã cảm nhận được qua việc thưởng thức tác phẩm của Trịnh Công Sơn với
tư cách là những ca khúc phổ biến rộng rãi. Bài viết này không nhắm vào điều
đó.
Để kết luận, rất chủ quan,
tôi xin được gọi Trịnh Công Sơn là một nhà thơ tài hoa.
Thai Sắc
Nguồn: http://www.vanchuongviet.org/
Trả lờiXóaeva air việt nam
giá vé máy bay đi mỹ hãng eva
hang hang khong korean air tai tphcm
vé máy bay đi mỹ khoảng bao nhiêu
săn vé máy bay giá rẻ đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich