Vào khoảng đầu năm 1973, Bùi
Giáng dọn về ở luôn trên lầu 3, thuộc khu nội xá Viện đại học Vạn Hạnh ở đường
Trương Minh Giảng. Dù đã đến Sài Gòn trước đó nhiều năm, nhưng chỉ khi được ở gần
Bùi Giáng thì tôi mới có dịp biết nhiều hơn về những con đường phố ở Sài Gòn.
Có lẽ, cũng như hầu hết những
người trẻ tuổi thời bấy giờ, Sài Gòn đối với tôi có sức quyến rũ lạ thường. Dường
như chính từ thành phố ấy, mà tuổi trẻ của tôi mới cảm nhận được một cách mông
lung rằng, có một mùa xuân tràn đầy hương sắc trên cuộc đời này, mà tuổi trẻ của
tôi vẫn muốn đưa tay vói bắt, nhưng chưa được, hay có lẽ sẽ chẳng bao giờ được.
Vì có bao giờ ta đưa tay bắt được một tia nắng mong manh trong buổi chiều xuân
bao giờ đâu?
Chạy đi em! Và bắt vội giùm cho
Ta em nhé, ta chờ tay em bắt
Giùm chút nắng chiều ngọn cây lay lắt
Nắm và cầm đưa lại giúp cho ta
(Mưa nguồn)
Ta em nhé, ta chờ tay em bắt
Giùm chút nắng chiều ngọn cây lay lắt
Nắm và cầm đưa lại giúp cho ta
(Mưa nguồn)
Bài Những nhành mai của Bùi
Giáng là bài mà dạo đó tôi đã đọc một cách say sưa, vì đã khơi dậy được tất cả
những hoài vọng triền miên của tuổi trẻ tôi:
Buồn phố thị cũng xa bay như gió
Cộ xe nhiều cũng nhảy bổng như hươu
Bờ cõi dựng xuân xanh em còn đó
Bến đào nguyên anh khoác áo khinh cừu
(Mưa nguồn)
Cộ xe nhiều cũng nhảy bổng như hươu
Bờ cõi dựng xuân xanh em còn đó
Bến đào nguyên anh khoác áo khinh cừu
(Mưa nguồn)
Nhưng Sài Gòn mà tôi thường đi
lang thang với Bùi Giáng lại không phải là Sài Gòn dưới cái nhìn của đám đông
thiên hạ, nghĩa là với những thị dân lúc nào cũng ăn mặc chải chuốt, tập trung ở
các nhà hàng, hoặc nối đuôi nhau đứng đợi mua cho được một vé ciné, mà Sài Gòn ở
đây là, tại các hẻm hay những góc phố vắng người. Tại những nơi ấy có các quán
cóc bán café và các thức ăn rẻ tiền mà chỉ có giới đạp xích lô hay những người
lao động chân tay là thường lui tới. Bùi Giáng hay đến ngồi những quán này, vì
người lao động chân tay ít biết đến ông, vì ông cũng lam lũ như chính họ. Nhưng
điều quan trọng nhất đối với Bùi Giáng vẫn là, những người lao động họ ít khi
nói về họ. Tôi biết chắc rằng, Bùi Giáng rất khó chịu khi phải ngồi nói chuyện
với những người mà từ lời nói đến cử chỉ lúc nào cũng đạo mạo, lúc nào cũng chứng
tỏ cho mọi người biết mình là thế này, mình là thế kia.
Dường như mỗi người trong
chúng ta, không nhiều thì ít, đều thích khoác cho mình một chiếc áo thật đẹp,
hay tự sửa soạn cho mình một chiếc ghế thật lộng lẫy, để rồi tự cảm thấy thỏa
mãn khi ngồi vào chỗ ngồi ấy?
Còn thi nhân? Chẳng phải thi
nhân là kẻ đã can đảm phá tan tành những công ước giả tạo ấy, để chỉ cho con
người thấy được vẻ đẹp mênh mông của cuộc đời đó sao?
Nhưng ta có nên đem chuyện
riêng tư của một người cô độc để nói ra đây không? Theo tôi, thì chẳng hề có gì
là riêng tư đối với Bùi Giáng. Tất cả những gì có thể gọi là riêng tư, thật ra
chỉ có cái đẫy trên vai, trong đó đựng xấp giấy, quyển vở và mấy cây bút để làm
thơ trên bước đường lang thang phiêu bạt mà thôi.
Có lẽ ít có nhà thơ nào của Việt
Nam (trừ Hàn Mặc Tử) đã sống hết mình, sống tận cùng với cát bụi và thơ như Bùi
Giáng đã dám sống một cách trọn vẹn như vậy.
Và có thể nói rằng, chính từ đời
sống như vậy, mà tiếng thơ Bùi Giáng đã ra đời. Qua tiếng thơ đó, Bùi Giáng có
quyền khẳng định với chúng ta rằng, không phải cuộc đời này chỉ có thống khổ và
bóng tối vây phủ không thôi, mà vẫn còn có bầu trời cao rộng nữa, nếu chúng ta
còn biết ngẩng mặt lên để mà nhìn:
Trần gian hỡi! Tôi đã về đây để sống
Tôi đã tìm đâu ý nghĩa của lầm than
Tôi ngẩng mặt ngó ngàn mây cao rộng
Tôi cúi đầu nhìn mặt đất thấp đen
(Mưa nguồn)
Tôi đã tìm đâu ý nghĩa của lầm than
Tôi ngẩng mặt ngó ngàn mây cao rộng
Tôi cúi đầu nhìn mặt đất thấp đen
(Mưa nguồn)
Và cuộc đời, với hầu hết chúng
ta là săn đuổi để bắt cho được cái mà chúng ta thường gọi là hạnh phúc. Nhưng
chúng ta tìm hạnh phúc ở đâu? Hạnh phúc trong sự tích luỹ cho thật nhiều của cải?
Hạnh phúc có nghĩa là có nhiều tiện nghi vật chất cho đời sống? Hay cao
hơn một mức nữa là, phải đấu tranh hay nhiều khi phải sát phạt lẫn nhau để có một
địa vị nào đó trong xã hội? Nhưng chắc chắn rằng, những thứ này đều không đem lại
hạnh phúc lâu dài, vì một ngày nào đó không xa, nó sẽ tuột khỏi tầm tay, và sự
thống khổ cùng thất vọng sẽ lập tức đến ngay với chúng ta.
Nhưng điều tác hại nguy hiểm
nhất, theo tôi vẫn là, vì suốt đời ta cứ chạy theo những hình ma bóng quế này,
mà trái tim của ta dễ bị bại liệt. Khi trái tim đã bị bại liệt rồi, thì chúng
ta sẽ không còn biết rung động trước mọi vẻ đẹp của cuộc đời nữa. Và phải chăng
khi con người không còn rung động trước cái đẹp, thì con người sẽ chỉ sống trong
ích kỷ, từ ích kỷ đưa đến tàn bạo sẽ không xa mấy?
Còn thi nhân thì ngược lại, mỗi
một giây phút sống trên đời này, đều là mỗi giây phút thiêng liêng. Vạn vật đối
với họ như có linh hồn, và đang cùng với trái tim của họ rung lên bao nỗi chờ
mong:
Tôi đã gởi hồn tôi biết mấy bận
Cho mây xa cho tơ liễu ở gần
Tôi đã đặt trong bàn tay vạn vật
Quả tim mình nóng hổi những chờ mong
(Mưa nguồn)
Cho mây xa cho tơ liễu ở gần
Tôi đã đặt trong bàn tay vạn vật
Quả tim mình nóng hổi những chờ mong
(Mưa nguồn)
Và theo tôi, sở dĩ người thi
sĩ ấy tự chọn cho mình một đời sống lao đao lận đận như vậy, cũng chẳng có mục
đích nào khác hơn là, muốn chia sẻ với con người một chút đau khổ giữa cái khổ
lớn lao mà con người đang phải gánh chịu, với hy vọng sẽ đốt lên được ngọn lửa
yêu thương mà vốn dĩ đã quá nguội lạnh trên cuộc đời này, như thi nhân đã một lần
phát lên đại nguyện:
Xin mãi yêu và yêu nhau mãi
Trần gian ơi! Cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hương cỏ dại
Con vi trùng sâu bọ cũng yêu luôn
(Mưa nguồn)
Xin mãi yêu và yêu nhau mãi
Trần gian ơi! Cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hương cỏ dại
Con vi trùng sâu bọ cũng yêu luôn
(Mưa nguồn)
Tình yêu ấy sẽ vượt thắng tất
cả. Kẻ nào đã từng cưu mang tình yêu đó trong trái tim mình, thì mai này dù biết
rằng mình sẽ chết đi, nhưng tình yêu ấy vẫn còn nguyên vẹn:
Còn ở lại một ngày còn yêu mãi
Còn một đêm còn thở dưới trăng sao
Thì cánh mộng còn tung lên không ngại
Nếu trời xanh tay vói kiễng chân cao
(Mưa nguồn)
Còn một đêm còn thở dưới trăng sao
Thì cánh mộng còn tung lên không ngại
Nếu trời xanh tay vói kiễng chân cao
(Mưa nguồn)
Và khi một kẻ đã sống vì sự
đau khổ của con người thì đời sống của họ cũng rất giản dị. Họ sống hòa đồng với
những sự vật vô danh và im lặng giữa đất trời. Những sự vật mà chúng ta đã vô
tình đánh mất giữa đời sống thường nhật. Sở dĩ chúng ta đánh mất, có lẽ tại vì
chúng ta cứ nghĩ rằng nó chẳng giúp ích gì cho đời sống quá thực dụng của chúng
ta. Nhưng với thi nhân, thì tất cả đều là thơ, và tất cả đều là mộng:
Đường cong có cỏ mọc ven bờ
Cây đứng trong vườn lá chuối tơ
Chó sủa sớm chiều đi qua ngõ
Gà con mất mẹ chạy bâng quơ
(Mưa nguồn)
Cây đứng trong vườn lá chuối tơ
Chó sủa sớm chiều đi qua ngõ
Gà con mất mẹ chạy bâng quơ
(Mưa nguồn)
Đời sống thì giản dị như vậy,
nhưng hoài vọng của thi nhân cho cuộc đời thì lại mãnh liệt vô cùng:
Sầu một thuở đất mòn không tiếng nói
Một ngàn năm trăng giải tuyết băng buông
Anh gởi đi ngàn sóng cuộn thác nguồn
Để thấy mãi rằng thơ không đủ gọi
Một ngàn năm trăng giải tuyết băng buông
Anh gởi đi ngàn sóng cuộn thác nguồn
Để thấy mãi rằng thơ không đủ gọi
Vào một buổi trưa hè nóng bức,
cũng tại một quán cóc trên vỉa hè gần chợ Trương Minh Giảng của Sài Gòn thời
đó. Bùi Giáng đang ăn tô mì Quảng (món ăn đặc sản Quảng Nam, cũng là quê của
ông). Còn tôi thì ngồi nhìn qua lại trên đường phố. Đang ăn, bỗng Bùi Giáng ngừng
lại và nói với tôi:
"Ta ăn hai ngàn tô mì Quảng
nữa ta chết".
Câu nói chỉ là nói đùa, nhưng
đối với tôi thì không đùa tí nào, vì tôi nghĩ rằng, câu nói ấy đã vô tình thể
hiện tất cả nỗi ưu tư dằn vặt của Bùi Giáng về cái chết của chính ông và của tất
cả chúng ta, những người đang sống trên mặt đất phù du này nữa.
Đã gần 20 năm trôi qua rồi, vậy
mà từ giọng nói đến cái nhìn thật xa xôi của Bùi Giáng vào buổi trưa hè năm ấy
đến nay vẫn còn đọng lại trong hồn tôi. Những khi ngồi nhớ lại những năm tháng
đã sống bên Bùi Giáng, cùng với hàng ngàn bài thơ mà ông đã làm trên bước đường
lang thang phiêu bạt đó, thì bài thơ đã tác động mãnh liệt nhất đối với tôi, có
lẽ vẫn là bài Bùi Giáng viết về cái chết.
Có lẽ tôi nghĩ, chúng ta phải
tập lân la trú ngụ với cái chết, thì may ra mới thấy được thế nào là sự thiêng
liêng của cái sống chăng:
Rồi mai đi về xứ nào chẳng biết
Đỗ Quang ơi và có lẽ Quyên ơi
Đi lìa xa xứ sở của mặt trời
Thì chuyện cũ cũng như từng chưa biết
Tôi chẳng rõ cội nguồn tôi ly biệt Dấu tiên sa và ngấn tích tiên nga
Bờ giạt bèo hay bến lạnh trôi hoa
Ngày ngóng mộng hay đêm ngờ máu chảy
Xuân thơ dại hay Đông tàn Thu gãy
Chút tình xưa Đông Á mất đâu rồi
Rồi mai đi về xứ nào chẳng biết
Những người em hãy ở lại bên đời
Nô hay đùa xin cứ mỉm hai môi
(Sa mạc thác tiết)
Đỗ Quang ơi và có lẽ Quyên ơi
Đi lìa xa xứ sở của mặt trời
Thì chuyện cũ cũng như từng chưa biết
Tôi chẳng rõ cội nguồn tôi ly biệt Dấu tiên sa và ngấn tích tiên nga
Bờ giạt bèo hay bến lạnh trôi hoa
Ngày ngóng mộng hay đêm ngờ máu chảy
Xuân thơ dại hay Đông tàn Thu gãy
Chút tình xưa Đông Á mất đâu rồi
Rồi mai đi về xứ nào chẳng biết
Những người em hãy ở lại bên đời
Nô hay đùa xin cứ mỉm hai môi
(Sa mạc thác tiết)
Và đâu phải vì cái chết, mà
chúng ta không còn hy vọng vào cuộc đời. Vì sao? Đây có lẽ là thông điệp mà Bùi
Giáng muốn gởi đến cho những người trẻ tuổi hôm nay chăng?
Em bảo rằng,
Đừng tuyệt vọng nghe không
Còn trang thơ thắm lại với trời hồng
(Mưa nguồn)
Đừng tuyệt vọng nghe không
Còn trang thơ thắm lại với trời hồng
(Mưa nguồn)
Nha Trang, 1997
Phước An
đại lý vé eva air
đại lý bán vé máy bay đi mỹ
korean air vn
mua vé máy bay đi mỹ hãng nào rẻ
đặt vé máy bay đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Du Lich Tu Tuc
Tri Thức Du Lịch