Cao nguyên Lang Biang và huyền thoại
Vừa đến cửa ngõ vào thành phố Đà Lạt, du
khách sẽ thấy nổi bật trước mắt về phía chân trời hướng Bắc là dãy núi Lang
Biang (Lâm Viên). Hai đỉnh núi cao sừng sững hiện ra, tạo hậu cảnh cho thành
phố với đường nét vừa sắc sảo vừa hài hòa cân đối. Những ngày mà trời quang mây
tạnh, người ta có thể nhìn thấy hai đỉnh núi cao này từ cách xa hàng trăm cây
số. Dưới chân núi là xã Lát và huyện lỵ huyện Lạc Dương.
Hai ngọn Lang Biang như bộ ngực tràn căng
sức sống của một cô thiếu nữ xinh đẹp khỏa thân nằm ngửa hướng lên trời xanh
trong những ngày nắng hanh vàng. Nhìn từ Đà Lạt, du khách ngỡ rằng hai đỉnh núi
liền nhau và có thể đi từ đỉnh này sang đỉnh kia. Nhưng sự thật hai đỉnh núi
được đi tới bằng hai con đường khác nhau: một theo hướng Lạc Dương, một theo
ngả Thái Phiên. Hồi trước, nối liền hai đỉnh núi này có một con đường mòn quanh
co qua một thung lũng, nhưng về sau này cây rừng đã che mất.
Năm 1899
bác sĩ ÉTIENNE TARDIF đã lên Đà Lạt và mô tả thành phố này với Lang Biang lúc
bấy giờ:
“Đà
Lạt nằm trên cao nguyên Lang Biang trên độ cao ít nhất là 1.500m. Đồn lính nằm
trên lưng chừng đồi của một thung lũng rộng, nhìn xuống một vùng đất dốc thoai
thoải ven bìa rừng thông. Một dòng suối có lưu lượng rất cao chảy dưới thung
lũng. Nước suối trong mát, dễ uống và không có mùi vị. Đồn lính Đà Lạt còn rất
thô sơ. Trong đồn chỉ có vài người lính và thợ mộc.
...Đăng Kia ở phía bắc Đà Lạt nằm trên độ cao 1.400m có 2 người Âu, khoảng 50
người Kinh và Thượng. Cách đó không xa là buôn Thượng với 40-50 gia đình. Ông
Canivey và Missigbrott mỗi người ở trong một túp lều tranh cách nhau 800m. Họ
lấy nước từ một con suối chảy vào sông Đồng Nai ở chân đồi.”
“Về phương diện thẩm mỹ, Đà
Lạt nằm ở một vị trí rất tuyệt diệu, chân trời lui về phía xa, tận dãy núi Lang
Biang.”
“Cao nguyên Lang Biang là
một vùng rộng lớn trải ra xung quanh giao điểm của 106 o kinh đông và 12 o vĩ
bắc, có hình dáng một hình en-líp mà đường trục lớn Bắc-Nam dài 18km và đường trục nhỏ Đông-Tây dài từ 10km đến 12km. Độ
cao thay đổi từ 1.300m đến 1.550m và 1.600m.
Đỉnh núi cao nhất của dãy Lang Biang có độ cao 2.200m án ngữ cao nguyên Lang
Biang về hướng Bắc. Về các hướng khác, những chỏm núi dài và cao bao bọc cao
nguyên Lang Biang.
Khi
nhìn thấy cao nguyên Lang Biang, điều đập mạnh vào mắt tôi trước tiên là địa
hình. Cả một vùng rộng lớn gồm nhiều ngọn đồi nằm kề bên nhau, nối tiếp nhau,
chế ngự lẫn nhau, sườn đồi này dốc thẳng đứng, sườn đồi kia nằm
thoai thoải trên mặt đất. Những thung lũng rộng và sâu nhiều hay ít chia cắt
núi đồi dợn sóng, len vào giữa là con đường nối liền Đăng Kia (Dankia) với Đà
Lạt. Cả vùng đồi núi này đều phủ một lớp cỏ ngắn vào mùa khô, cao và dày vào
mùa mưa. Trong thung lũng mọc nhiều loài thực vật khác nhau, lau sậy và trên
vài sườn đồi có những đám thông và tùng.
Dòng nước chảy theo nhiều lối, có khi là những dòng suối nước chảy xiết, có khi
là những ao hồ sâu ẩn mình dưới một lớp thảo mộc rậm rạp.
Hình dáng mấp mô của cao nguyên thật là lạ lùng! Tôi leo lên một trong năm đỉnh
núi. Một quang cảnh kỳ diệu hiện ra trước mắt tôi. 150 đồi núi xanh rờn giống
như một thúng cam khổng lồ. Trong vùng núi đồi trùng điệp có vài làng mạc ở phía
Nam Đà Lạt; hơi chếch về hướng Tây là Đăng Kia và Ăn Krô ét (Ankroet) ở dưới
chân núi Bờ Nơ (Beneur). Xa xa, về hướng Đông là dãy núi Nha Trang; về phía
Nam, hoành sơn của thung lũng sông Đồng Nai; về phía Tây và Tây Nam, những đỉnh
núi cao của Căm-pu-chia và Lào”.
...
“Tôi nhận thấy gió trên cao nguyên thổi vào tháng 6 từ Bắc sang Đông và thổi dữ
dội từ Đông sang Tây vào tháng 11, trong mùa lạnh.
Vào
những năm đầu thế kỷ 20, Đà Lạt vẫn còn rất hoang vắng. Năm 1905, trong một dịp
lên cao nguyên Lang Biang để thay đổi không khí, bà GABRIELLE M. VASSAL đã viết
lại những nhận xét của mình:
“Vào khoảng giữa trưa, tôi thấy cao nguyên lần đầu tiên. Thật là một sự phát
hiện bất ngờ, khác với những gì trước đây tôi đã từng nghĩ! Trên một vùng đất
rộng là những ngọn đồi tròn, nhỏ, trơ trụi, mọc đầy cỏ thấp, cùng hình dáng và
độ cao, quang cảnh giống như một vùng biển gợn sóng xanh. Ở giữa, những đỉnh
núi Lang Biang cao vòi vọi như hòn đảo đá. Đăng Kia (Dankia) nằm ở dưới chân
núi Lang Biang, ở phía bên kia cao nguyên. Cao nguyên bình yên và êm dịu quá!
Chỉ có thông mọc trong những thung lũng giữa các ngọn đồi. Xa xa, những mái nhà
gỗ ở Đà Lạt nằm cách xa nhau trên đỉnh hay lưng chừng đồi lấp lánh dưới ánh mặt
trời.”
Năm
1908, P. DUCLAUX đi ngựa từ Hà Nội vào Sài Gòn. Trên đường đi, ông rẽ từ Phan
Rang lên Đà Lạt và đưa ra nhận xét:
“Đà
Lạt! Tám hay mười mái nhà tranh của người Việt, một nhà sàn bằng ván thô sơ
dành cho lữ khách, một vòi nước, quảng trường chợ, một nhà bưu điện đơn sơ. Trên
một ngọn đồi, sau hàng rào và giữa rặng thông xanh, vài căn nhà gạch của trung
tâm hành chánh Đà Lạt, vì chế độ cai trị ở đây thật đặc biệt: có một hội đồng
và cả một viên thị trưởng. Ông Champoudry - Thị trưởng Đà Lạt - nguyên Cố vấn
Hội đồng thành phố Paris bị thất cử được Doumer đem sang đây và coi như người
sáng lập Đà Lạt.
Còn cư
dân? Vài chục người Việt bị đày, vài khách người Âu đi công tác hay trắc địa,
những người thợ săn hay lữ khách hiếm hoi cùng đoàn tùy tùng. Tài nguyên? Gần
như không có gì hết; không có một khoản ngân sách đáng kể, không có một sự trợ
giúp nào cả. Vốn là dược sĩ chuyên trách về vấn đề vệ sinh thành phố Paris, ông
thích thú thiết kế hệ thống thoát nước trong thành phố tương lai dựng lên trên
sa mạc này và chờ đợi...
Trung tâm hành chánh của Đà Lạt không được nới rộng thêm chút nào, vẫn thuộc về
tỉnh Phan Rang. Để tránh những sự tranh chấp về quyền hạn, ông Canivey - đại
diện của Công sứ - sống với gia đình và thuộc hạ cách xa 3km, ngoài phạm vi của
Champoudry. Nơi đây, ông đích thực là chủ nhân, cai quản một vùng Thượng rộng
lớn, để lại cho đối thủ bất hạnh của ông vài chục người Việt thường ra vào
trong một làng nhỏ.
Tôi
mang đến cho ông Canivey một lá thư gửi từ Phan Rang và ông giữ tôi lại ăn cơm
tối. Không những là một người am hiểu miền
Thượng, ông còn là một tay thiện xạ có lẽ một phần vì ham thích nhưng chắc chắn
vì hoàn cảnh bắt buộc. Ở đây không có thịt nào khác ngoài
thịt rừng; về rau, chỉ có vài loại rau do người Thượng mang đến hay những người
lính tự trồng trọt.”
…
“Tất nhiên, Đà Lạt thiếu những trò giải trí quyến rũ. Ở trong nhà gỗ và ngủ
trên giường gỗ không hấp dẫn du khách chút nào! Không có cỏ cho ngựa và cám bán
với giá cắt cổ.”
Từ năm 1915, đã có du khách lái xe từ Sài Gòn lên Đà Lạt. Hãng ô tô Lang Biang
- chi nhánh của Công quản đường sắt miền Nam - tổ chức những chuyến viếng thăm
Đà Lạt. LE CHEMINEAU có dịp lên Đà Lạt vào năm 1916 bằng xe hơi đã ghi lại
chuyến đi:
“Xe men theo sườn đồi, chúng
tôi lúc nhìn về hướng Nam, lúc nhìn về hướng Bắc. Một đoạn đèo hiện ra, chúng
tôi tưởng là đoạn đèo cuối cùng, nhưng sau đó xe lại tiếp tục lên dốc.
Mọi
người reo lên khi từ trên đỉnh đồi nhìn thấy những căn nhà gỗ nằm rải rác trên
cao nguyên. Dưới thung lũng là căn nhà gỗ trước đây nhân viên của các phái đoàn
nghiên cứu đã trú ngụ hiện dùng làm khách sạn. Xa xa, toà công sứ nằm chơ vơ
trên đỉnh đồi cao nhất, bên cạnh đó và thấp hơn là căn nhà gỗ của viên chưởng
lý theo đúng tôn ti trật tự. Bên phải chúng tôi là căn nhà của công chánh và bên
trái là toà thị chính.
Trừ
hướng Tây Bắc, cao nguyên Lang Biang ở độ cao trung bình 1.500m trải dài hàng
trăm cây số vuông, dân cư rất thưa thớt chỉ sống ven hai bờ suối Cam Ly. Một
làng người Việt được xây dựng sát bờ suối. Dân làng là những người thợ và người
đi buôn, phần lớn là nhân viên địa chính cũ của các phái đoàn nghiên cứu.
Người Âu sống trong 8 căn
nhà gỗ thông mà tên gọi gợi nhớ đến những tham vọng đầu tiên của những người
xây dựng Đà Lạt, thủ phủ mùa hè của Đông Dương: toà thị chính, trường Viễn
Đông, sở công chánh, bưu điện, cảnh binh, khách sạn, tòa công sứ và chưởng lý.
Về
mùa Đông, trời hơi lạnh và mặc dầu tường có hai lớp ván vẫn không ngăn nổi
tiếng động thỉnh thoảng gây khó chịu. Chín
phòng của khách sạn đã có sẵn đồ gỗ dành cho du khách. Trường Viễn Đông, tòa
thị chính và sở công chánh sẽ được tạm thời dùng làm chi nhánh cho khách sạn.
Sau khi hai căn nhà gỗ được xây dựng xong, Đà Lạt sẽ có 26 phòng ngủ vào cuối
năm.
Theo các
nhà địa chất, núi Lang Biang hình thành do vận động tạo sơn nhưng theo truyền
thuyết của người Lạch có một truyện cổ về sự thành lập núi Lang Biang như sau:
“Ngày xưa, đất trên cao nguyên và vùng đồng bằng đều
bằng phẳng, chưa có núi cao như bây giờ. Khi mùa lũ đến, nước biển và nước sông
tràn ngập cả đất đai, cây xanh không mọc, đất đai bạc màu. Người Lạch tin vào
thần linh. Vị thần cao nhất là Nđu. Thần này thấy vậy đã làm phép nâng đất cao
thành cao nguyên. Nước biển vẫn tràn lên, thần liền tạo ra nhiều ngọn núi cao
thấp nằm gần nhau làm bờ ngăn cản nước, trong đó có hai ngọn núi Lang Biang.
Ngăn chặn được nước sông và nước biển, cây cỏ xanh tươi, đất đai màu mỡ, thần
Nđu giao cho thần rừng tạo ra loài vật để cho cuộc sống thêm vui.”
Cao
Nguyên Lang Biang cũng mang một huyền thoại nghe thật tình tứ. Có lẽ vì thế mà
về sau này thành phố núi đồi này được coi như nơi dành riêng cho các tuần trăng
mật. Người ta kể lại rằng:
“Xưa mảnh đất này là lãnh thổ của bộ tộc M'Lat và Chill. Tuy hai bộ lạc này chỉ
ở cách nhau dăm con suối, năm bảy ngọn đồi, nhưng giữa họ có một mối hiềm khích
lâu đời. Chưa bao giờ có bóng dáng thanh bình thật sự trên vùng đất vô cùng
lạnh lẽo này.
Lapbe,
người con trai bộ tộc Chill, là một chàng dũng sĩ có một sức mạnh và một thân
hình tráng kiện phi thường. Bên chàng luôn có một con voi trắng hầu cận. Một
hôm Lapbe đi săn và gặp một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt vời - nàng Lang Biang, con
gái của tù trưởng Liêng Hók Kiut, trị vì bộ tộc M'Lat.
Khác với
những người ở vùng sơn cước có nước da nâu dòn, làn da nàng Lang Biang trắng
nõn với đôi má ửng hồng, thân hình thon cao cân đối, mang vóc dáng người con
gái của Yàng (thần thánh), của chốn cao vời. Thật tự nhiên như những hấp lực âm
dương của đất trời, chàng dũng sĩ và cô gái xinh đẹp yêu nhau.
Lang
Biang đưa Lapbe về buôn làng để xin cha được “bắt” chàng làm chồng. Vì đã hứa
sẽ “bắt” K'Moat, phù thủy của bộ tộc, làm chồng cho Lang Biang, và hơn nữa
Lapbe là con trai của một bộ tộc thù nghịch, nên tù trưởng Liêng Hók Kiut ra
sức ngăn cản mối tình nồng thắm này.
Con voi
trắng đã đưa Lang Biang và Lapbe trốn vào rừng sâu. Sau những lần vây bắt vô
cùng vất vả nhưng vẫn hoài công, phù thủy K'Moat ra lệnh đốt rừng. Cả một biển
lửa hừng hực bao vây và nuốt chửng lấy ốc đảo càng lúc càng bé nhỏ của đôi uyên
ương. Từ bên ngoài, K'Moat giương cung vút một mũi tên tẩm độc nhắm vào Lapbe.
Nhìn thấy cái chết đang lao đến người yêu quá nhanh, Lang Biang chỉ biết lấy
thân mình che chở cho chàng.
Nàng
Lang Biang đã ngã xuống trên mảnh đất đang quằn quại trong khói lửa. Lapbe đau
đớn ôm chầm lấy người yêu. Con voi trắng cũng phủ phục dưới chân nàng. Nước mắt
của họ chảy thành dòng suối Đa Nhim (tiếng K'Ho có nghĩa là Nước Mắt). Tiếng
rống bi thương của con voi trắng làm cho đất trời bỗng tối sầm. Giông tố, sấm
sét nổi lên dữ dội biến họ thành những ngọn núi trường tồn vĩnh cửu.
Riêng thân hình tuyệt mỹ với làn da tươi mát của nàng Lang Biang bỗng lớn rộng
vô cùng, bao phủ những đồi núi cháy nám khói lửa và hóa thân thành một vùng đất
thần tiên. Sắc đẹp của nàng lan tỏa cả đất trời. Má nàng ửng hồng hoa đào thắm.
Hong tóc thông xanh vi vu. Mắt lóng lánh hồ biếc. Gió thở ngát hương hoa. Ngực
nàng vươn cao là đỉnh núi Lang Biang.
Từ đó
hai bộ tộc Chill và M'Lat ý thức được tình yêu của cuộc sống và đến sau này hầu
như đã hòa đồng làm một.”
Một huyền thoại khác về cao nguyên Lang Biang lại được kể một cách lãng mạn như
sau bởi NGỌC GIAO:
“Đã từ lâu, ở vùng La Ngư
Thượng có hai bộ tộc mạnh vào hồi đó là Lát và Sre. Bộ tộc Lát có người tù
trưởng trẻ tên là Lang. Lang đẹp như thân cây rừng, sừng sững mọc trên đỉnh
núi, oai phong dũng cảm trước phong ba, nhân hậu cả với loài thảo mộc. Còn bộ
tộc Sre lại có con gái của tù trưởng Jrenh tên là Biang. Nàng
xinh đẹp và dịu dàng, thông minh mà khiêm tốn. Đôi mắt lóng lánh như vì sao với
hàng mi cong vút. Thân hình tròn trịa với bộ ngực nở nang rắn chắc. Những ngày
Biang vào rừng hái hoa, lượm quả, cỏ cây như cũng cùng thắm thiết và vui tươi
hơn khi nàng bước qua.
Sau
lần dũng sĩ Lang giết con rắn hổ tinh để cứu nàng Biang bên bờ suối Datania,
đôi trai gái bắt đầu thấy thương mến nhau. Họ hẹn hò, gặp gỡ nhau trong những
đêm trăng thơ mộng bên rừng suối. Họ dắt tay nhau đi dọc dài qua núi đồi vùng
La Ngư Thượng. Khi tình yêu đã cháy bỏng, nàng Biang quyết định “bắt” Lang làm
chồng. Cỏ cây và muông thú nghe tin vui đã chuẩn bị lễ cưới cho cặp trai tài
gái sắc đó.
Nhưng đám cưới không thành bởi tù trưởng Jrenh không cho họ được phép vượt qua
những tập tục và oán cừu truyền kiếp giữa hai bộ tộc. Họ vượt qua bao nỗi khổ
đau, vượt qua bao trở ngại với nhiều nước mắt đau thương, họ quyết tâm tìm đến
cái chết bên nhau cho vẹn mối tình đầu của họ.
Lang và nàng Biang ngồi bên nhau lặng yên trên đỉnh núi từ ngày này qua ngày
khác. Họ ngồi sát bên nhau từ lúc trăng lên như lưỡi liềm tới lúc trăng tròn
dần khuất sau chân núi. Thế rồi trong một đêm mưa rừng tầm tã, bão tố nổi lên
rung chuyển cả vùng cao nguyên thì cũng là lúc hai kẻ yêu nhau đã trút hơi thở
cuối cùng. Sương trắng mờ phủ lấp cả vùng đồi núi và khuất luôn hình bóng của
cặp tình nhân. Cả cao nguyên như khoác trùm một bộ áo tang ảm đạm. Muông thú,
đất trời và con người của nhiều bộ tộc cùng tới tiễn đưa linh hồn của họ. Những
tiếng cồng buồn bã, những điệu khèn ai oán vang vang khắp vùng đồi núi chập
chùng. Đau thương đã xóa đi thù hận truyền kiếp.
Những bộ tộc cùng ngồi tụ bên nhau, cùng làm lễ mai táng hai
kẻ yêu nhau và chôn xác họ bên ngọn núi K'Bùng. Ngôi mộ ấy cứ mỗi ngày mỗi lớn
và cao hẳn lên.
Câu chuyện tình đau thương đó đã bay bổng vào bầu trời cô tịch và cũng đã là
câu chuyện kể chung cho các bộ tộc người vùng cao nguyên mỗi lúc rừng
khuya họ ngồi bên bếp lửa. Ngôi mộ đó đã hóa thành nỗi niềm xúc động của trẻ
già trong mọi bộ tộc. Vì vậy Lang Biang đã trở thành tên ngọn núi và kết tinh
những tinh túy của người thượng cao nguyên như bộ tộc K'Ho, M'Nông, Mạ, Chill
ngàn đời bất khuất, và cũng là đỉnh núi của một thời gian ghi lại nhiều mối
tình nước mắt của Lang Biang.
Trên đỉnh núi, không biết có phải do nàng Biang xa xưa gieo hạt hay không, nay
ta sẽ thấy một rừng hoa Đỗ Quyên với màu sắc hồng, trắng, tím mà người Lát đã
đặt tên là hoa Lang Biang. Bên cạnh hoa Đỗ Quyên là có muôn loài thảo mộc,
trong đó chúng ta sẽ gặp rất nhiều loại “phong lan”, nữ chúa của các loài hoa ở
đây.
Rừng Lang Biang rất phong phú về chủng loại, trong đó rừng lá rộng,
rừng thông, và các loại tre thân nhỏ và những bụi trúc xum xuê. Đặc biệt, trong
không gian ấy ta lại được nghe những âm thanh của các loài chim rừng hót vang
triền đồi núi. Theo tài liệu sưu khảo người ta ước đoán có trên một trăm loài
chim, trong đó có một số loài chim rừng tên gọi được lấy từ tên đỉnh núi Lang
Biang, núi của huyền thoại, núi của tình yêu bao đời nay vẫn tồn tại như một
giá trị truyền thống của quê hương. Lang Biang còn là biểu tượng ngàn đời của
vùng cao La Ngư Thượng.”
Về huyền
thoại vừa kể trên có tài liệu ghi thêm một số chi tiết về cuộc chiến giữa chàng
Lang và voi dữ:
“Chàng Lang là người vừa khoẻ mạnh, đẹp trai lại giàu
lòng thương người và có tài chinh phục thú rừng. Một hôm trong bản làng có hai
con voi rất hung dữ đi lạc tới. Hàng chục người Lat vây hãm nhưng không hạ nổi
voi. Khi Lang từ rẫy về thấy vậy vội ra hiệu cho họ nghỉ tay, một mình chàng tìm
cách chinh phục voi. Sau một hồi giao đấu Lang nắm được đuôi hai con voi liền
cột chặt vào nhau làm chúng không còn đủ sức kháng cự nữa mà phải quỳ xuống
hàng phục. Lang tha chết cho voi và khuyên voi trở về làng cũ. Hai voi cảm động
rơi nước mắt, lặng lẽ bước đi. Từ đó Lang nổi tiếng là người nhân ái được cả
cầm thú và bộ tộc thương yêu kính trọng.”
Có tài
liệu kể rõ hơn về chuyện chàng Lang cứu nàng Biang trong một cuộc chiến chống
lại rắn tinh và dã thú:
“Nàng Biang xinh đẹp, thông minh và khiêm tốn. Những
ngày nàng vào rừng hái trái, kết hoa thì thiên nhiên, cây cỏ dường như vui tươi
hơn lên. Muôn chim xôn xao hót líu lo. Những con thú hiền lành quây quần bên
nàng. Nhưng cũng chính vì vẻ đẹp của nàng mà có hai con rắn hổ tinh ghen ghét
và tìm cách mưu hại nàng. Một hôm nàng Biang cùng một số người làng đi hái
trái. Khi đến thác Đa Tan La là nơi các tiên nữ thường hay xuống tắm thời hai
rắn hổ tinh trên có thêm sự giúp sức của hai con cáo già và bảy con chó sói
cùng xúm lại tấn công làm hại. May thay dũng sĩ Lang xuất hiện kịp thời, nhảy
vào vòng chiến. Trong cuộc chiến đấu ác liệt, cuồng phong nổi lên dữ dội, cây
rừng gãy đổ ào ào, Lang dùng xà gạt phớt nhanh vào lưỡi hai con rắn tinh, dùng
cung tên bắn vào bầy dã thú khiến chúng phải bỏ chạy. Từ đó nàng Biang cảm mến
chàng Lang. Chàng và nàng thường hẹn hò nhau và sánh vai đi dạo trên đồi trong
những đêm trăng sáng.”
Tài liệu
cũng kể thêm huyền thoại về Núi Voi và thác Voi:
“Khi hay tin nàng Biang sắp “bắt chồng” là chàng Lang
thời voi rừng mừng lắm, kéo nhau hối hả về dự đám cưới. Ngờ đâu khi đến ngọn
thác này thì nhận được tin dữ là cả Biang và Lang đều đã cùng chết bên nhau.
Đàn voi rừng gào thét suốt mấy ngày đêm rồi lăn ra chết và hóa đá. Riêng hai
con voi trước kia được chàng Lang tha mạng thời đi lạc và khi hay tin dữ cũng
ngã quỵ rồi chết và hoá thành hai ngọn núi, đầu hướng về đỉnh Lang Biang. Đó
chính là rặng Núi Voi sau này.”
Huyền
thoại về núi Lang Biang gây cảm hứng cho nhiều người viết văn và làm thơ. Nhà
thơ HOÀNG ANH TUẤN khi viết bài “Thơ
về Đà Lạt” cũng đã nhắc đến chuyện tình này:
“Mây đi lạc xuống ven hồ
cẩm thạch
Là hoang vu tà áo gọi bâng
khuâng
Em mong manh tay cầm nhánh
hoa hồng
Bước hờ hững dưới pha lê mưa
bụi.
Vuông cửa kính lạnh hoen mờ
tiếc nuối
Bàn tay lau nghe giá buốt
tâm hao
Nhưng thấy em, ta hái đóa
chiêm bao
Bỗng nghe tiếng ta gọi em:
Đà Lạt!
Có những buổi trăng về từ
suối bạc
Đem phong lan trang điểm một
trời hương
Đà Lạt của ta trong thần
thoại hoang đường
Lang tình tứ đã gặp Biang e
ấp.
Anh đã gặp em một lần duy
nhất
Đà Lạt em, Đà Lạt vẫn của
anh
Tình yêu đẹp như bức tranh
thủy mặc.”
Trích: “ĐÀ LẠT NGÀY THÁNG CŨ”
Soạn giả: Ngô Tằng Giao
(Luật sư Đà Lạt)










Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét