Khi những dòng sông chảy thành âm nhạc
Phương An
Trong lịch sử âm nhạc thế giới và các quốc gia, có lẽ con số
những dòng sông được âm nhạc diễn tả và ngợi ca thật khó đếm hết. Nhờ âm nhạc
mà dòng sông Đa nuýp chảy qua nhiều nước châu Âu đã trở thành dòng sông của
nhân loại qua bản Sông Đa-nuýp xanh đẹp của nhà soạn nhạc J.
Strauss.
Sông Hắc Long Giang (tiếng Nga gọi là sông A-Mua) cũng nổi tiếng
nhờ bản hợp xướng Sóng Hắc Long Giang của Klao-ut. Gần đây hơn,
trong không khí trẻ trung của nhạc nhẹ, giới thanh niên toàn cầu cùng hát vang
Dòng sông Babilon. Với riêng quốc gia của mình, người nước nào cũng sẽ đều tự
hào bởi những bài hát viết về những dòng sông trong tổ quốc yêu quý. Và với đất
nước Việt Nam ta, điều đó cũng không là ngoại lệ.
Từ khi lịch sử Tân Nhạc Việt Nam hình thành có lẽ con sông đầu
tiên được hát lên chính là sông Bạch Đằng lịch sử với những chiến công lẫy lừng
từ thời Ngô Quyền đến thời Trần Hưng Đạo. Những thanh niên thập kỷ 40 thế kỷ
trước đã hơn một lần hát vang những Bạch Đằng Giang (Lưu Hữu Phước),
Trên sông Bạch Đằng (Hoàng Quý). Khi Hoàng Phú (sau là nhạc sĩ Tô Vũ) hát về
dòng Hát Giang thời Hai Bà Trưng trong nhạc phẩm Ngày xưa, thì Lưu Hữu Phước lại
hát về sông Gianh giới tuyến phân tranh Trịnh - Nguyễn một thời dài qua Hờn
sông Gianh. Nhưng đấy là những âm hưởng chính ca mang hơi thở hùng tráng. Con
sông được chảy thành những giai điệu trữ tình đầu tiên lại là sông Thương (Bắc
Giang). Tên sông đã được Đặng Thế Phong đưa vào trong nhạc phẩm Con thuyền
không bến: “Lướt theo chiều gió.
Một con thuyền theo trăng trong. Trôi trên sông Thương. Nước
chảy trôi dòng ...”. Văn Cao sau những âm hưởng chính ca về sông Bạch Đằng, lại
chợt thăng hoa con sông nhánh ở miền Thủy Nguyên (Hải Phòng) chảy ra sông Bạch
Đằng thành con sông trong chốn thiên thai: “Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền
lan, quê hương dần xa khuất núi ngàn. Bâng khuâng chèo khua nước Ngọc Tuyền. Ai
hát bên bờ Đào Nguyên” trong nhạc phẩm Thiên Thai. Rồi cũng như Đặng Thế
Phong, khi viết về Trương Chi trong nhạc phẩm Trương Chi, Văn Cao
cũng thêm lần cảm hứng về sông Thương với nhịp chèo đò dị biệt: “Đò ơi ! đêm
nay dòng sông Thương dâng cao mà ai hát dưới trăng ngà ...”.
Sông Hồng – dòng sông Mẹ (sông Cái) đã tạo nên cả một nền văn
minh châu thổ Bắc - nền văn minh sông Hồng - khi ấy lại lặng lẽ chảy vô danh
trong nhạc phẩm Con thuyền xa bến của Lưu Bách Thụ. Chỉ khi đọc hồi
ký của nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc – tác giả Cô lái đò (thơ Nguyễn Bính) cũng viết
về một dòng sông ở Nam Định – ta mới có thể tưởng tượng được rằng Lưu Bách Thụ
viết về sông Hồng mùa lũ. Hồi ký viết: “Ngồi trên mặt đê, nhìn làn nước mênh
mông, đỏ quạch phù sa đang sôi réo ngay dưới chân trước mặt, tôi thấy nôn nao
trong lòng ... Những người màn trời chiếu đất trên mặt đê này sẽ dạt về đâu?
Tôi vừa tự hỏi vừa nhìn những xoáy nước đang xoay vần với
những đám bọt đỏ ngầu và cánh bèo tây dập dềnh giai điệu con thuyền xa bến
chợt vang lên trong tôi với hình ảnh Lưu Bách Thụ đang nhìn tôi: Theo gió thuyền
xuôi, sóng đưa bèo trôi, tiếng đàn trầm man mác lòng tôi ...”. Sông Hồng chỉ thực
sự chảy thành âm nhạc rồi chảy ra thế giới trong festival thanh niên thế giới
1950, khi nhịp điệu và hình ảnh của sông được đưa vào trong nhạc phẩm Người Hà
Nội tuyệt tác của Nguyễn Đình Thi: “Hồng Hà tràn đầy. Hồng Hà cuốn, tràn đầy
dâng, ngàn nguồn sống ...”, “Việt Nam yêu dấu ngả soi bóng sông Hồng Hà ...”. Đấy
là những ngày tổ quốc Việt Nam thoát khỏi ách nô lệ và kiêu hãnh đứng lên làm
cuộc kháng chiến trường kỳ. Bêncạnh sông Hồng, sông Hương ở Huế cũng chảy vào
nhạc phẩm Bình Trị Thiên khói lửa của Nguyễn Văn Thương: “Hướng về
Nam. Ai từng vô sông Hương, từng nương Thiên Mụ, từng ngụ Đập Đá, Văn Xá, Truồi
Nong ...”. Sông Hàn ở Đà Nẵng cũng lai láng trong nhạc phẩm Bến Hàn Giang
của Ngọc Trai: “Đêm nay trên sông Hàn mờ sâu. Vi vu đưa gió ngàn về đâu. Buồm
xuôi gió thuyền xa bến bờ ...”.
Ở châu thổ sông Cửu Long miền Nam Bộ, từ sau ngày 23.09.1945
vang lên trong câu hát Tạ Thanh Sơn: “Mùa thu rồi ngày hăm ba ta đi theo
tiếng kêu sơn hà nguy biến”, dòng Cửu Long cũng lặng lẽ chảy vào âm nhạc qua nhạc
phẩm Tiếng còi trong sương đêm của Hoàng Việt (khi đó còn bút danh
là Lê Trực): “Bến nước gió rét đò thưa khách sang. Lau xanh ven sông mờ rung
bóng trăng ...”.
Nhưng cuộc chiến đấu càng ác liệt, càng thắng lợi thì lại
càng thiếu hình ảnh những con sông xuất hiện trong các nhạc phẩm. Riêng sông Lô
- một nhánh thượng lưu chảy vào sông Hồng – sau chiến thắng Thu Đông 1947 đã có
5 tác phẩm thanh nhạc đồ sộ ngợi ca. Đó là Lô Giang (Lương Ngọc
Trác), Chiến sĩ sông Lô (Nguyễn Đình Phúc), Bên bờ sông
Lô (Phạm Duy), Đoàn quân sông Lô (Lưu Hữu Phước) và Trường ca sông
Lô của Văn Cao. Dựa trên cấu trúc của Sông Đa-nuýp xanh đẹp, Văn Cao đã
sáng tạo ra một bức tranh âm thanh về sông Lô với những nét vờn tỉa, với những
sóng dạt dào chảy vào hồn ta: “Sông Lô sóng ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng
âm u ...”. Cũng ở nhạc phẩm này, Văn Cao lại sáng tạo thêm một nhịp chèo đò mới
sau nhịp chèo đò ở Trương Chi. Đó là nhịp gõ thuyền lách cách trên dòng sông:
“Vui hát ca hòa vui hát ca hòa dân buông lưới Phan Lương vui bóng thuyền ...”.
Sau khi viết về sông Lô, Văn Cao lại viết về sông Thao – cũng là một nhánh thượng
lưu sông Hồng chảy về từ miền Tây Bắc – trong nhạc phẩm Serénada: “Từ con sông
Hồng như máu. Bao người dân đang đổ dồn về quê cũ ...”.
Song phải đến khi Du kích sông Thao của Đỗ Nhuận dâng
trào mênh mang thì người thưởng thức âm nhạc mới thấy bộ ba Trường ca
sông Lô, Du kích sông Thao và Người Hà Nội mới thực sự tạo ra một dòng
sông Hồng bằng âm nhạc: “Sông Thao ngoài bến Việt Trì có những chàng áo nâu về
say mê dòng nước, vui tràn trề”. Sông Đuống miền quan họ tuy nhỏ nhoi nhưng qua
tài năng thi sĩ Hoàng Cầm cũng được biết đến như một dòng sông kháng chiến danh
tiếng. Bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm đã được nhạc sĩ Hồ Bắc phổ
nhạc: “Sông Đuống một dòng lấp lánh. Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường
kỳ”. Ở Nam Bộ, cùng những Con kênh xanh xanh trong âm nhạc Ngô Huỳnh,
tên sông Cửu Long Giang đã nhập vào bao nhạc phẩm. Đấy là Du kích Long Phú (Quốc
Hương): “Ai vượt Cửu Long Giang. Vững chí lướt sóng ngàn ...” hay Tiểu đoàn 307
(Nguyễn Hữu Trí. Thơ: Nguyễn Bính): “Ai đã từng đi qua sông Cửu Long Giang. Cửu
Long Giang sóng trào cước xoáy ...”. Cũng như sông Đuống, sông Vàm Cỏ Đông nhỏ
nhoi cũng chảy thành âm nhạc nhờ tài năng của nhạc sĩ Hoàng Việt qua nhạc phẩm
Lên ngàn : “Hò ơ ! dòng sông chảy xiết lái thuyền cheo đi, trên sông Vàn Cỏ
Đông nước chảy ngược dòng ...”.
Tuy nhiên, bên cạnh nét hùng tráng ghi lại chiến công trên những dòng sông, âm nhạc vẫn lưu tâm đến những cảnh phân ly, chia biệt bên sông do chiến tranh: “Quay về hướng làng. Đà Giang lệ ướt nồng.
Tuy nhiên, bên cạnh nét hùng tráng ghi lại chiến công trên những dòng sông, âm nhạc vẫn lưu tâm đến những cảnh phân ly, chia biệt bên sông do chiến tranh: “Quay về hướng làng. Đà Giang lệ ướt nồng.
Mẹ già ngồi im bóng. Mái tuyết sương mong con bạc lòng ...”
(Thuyền viễn xứ - Phạm Duy. Thơ: Hà Huyền Chi) hay: “Làng tôi có cây đa cao ngất
từng xanh. Có sông sâu lờ lững lượn quanh ...” ( Làng tôi – Chung Quân). Sự
phân ly ấy càng ngày càng rõ ràng, khi sau ngày hoà bình, Việt Nam chia thành
hai miền Nam và Bắc. Những ngày đầu chia cắt, âm nhạc tập trung vào con sông được
chọn làm giới tuyến hai miền. Con sông Bến Hải có bến Hiền Lương nên còn gọi là
sông Hiền Lương chảy ra cửa Tùng. Bên cạnh hợp xướng Sóng cửa Tùng
của Doãn Nho là Câu hò bên bến Hiền Lương của Hoàng Hiệp (thơ Đằng
Giao) với giai điệu man mác, da diết nhớ nhung, rơm rớm nỗi niềm: “Bên ven bờ
Hiền Lương. Chiều nay ra đứng trông về, mắt đượm tình quê”, cũng với cảm hứng ấy,
Vĩnh Cát viết Bạn ơi hãy nghe bến Hải tâm tình: “Dòng bến Hải nước xanh xanh mằn
mặn. Có từng dàn cá bạc nhảy tung tăng. Dòng sông hẹp sóng êm êm phẳng lặng. Có
sẵn đò mà chẳng được sang ngang ...”.
Trần Viết Bính không nêu địa danh nhưng cũng tả rõ về con sông
giới tuyến ấy qua “Nhà em ở phía bên sông”: “Nhưng dòng sông từ ngày có kẻ ngăn
đôi, cho tình ta bên này bên ấy rời xa ...”. Những nhạc sĩ miền Nam ra tập kết ở
miền Bắc thì mang nỗi nhớ da diết về những dòng sông quê hương mà hát lên: “Quê
tôi ở miền Nam có rừng dừa mát xanh. Bên dòng sông uốn quanh” (Quê tôi miền
Nam – Phan Huỳnh Điểu), “Phù sa nước bạc Cửu Long ruộng đồng xanh tươi
đôi dòng sông ...” (Quê tôi – Lưu Cầu), “Bến nước Cửu Long còn đó em ơi” ( Tình
ca – Hoàng Việt), “Ta nhớ quê ta có núi Ấn có sông Trà ...” (Nhớ đàn xe
nước – Trần Kiết Tường). Ngược lại, các nhạc sĩ miền Bắc thì lại phơi phới những
giai điệu về quê hương giải phóng và xây dựng. Lân Tuất trong Người con
gái Việt (thơ: Anh Thơ) đã tha thiết: “Quê hương tôi bên dòng sông Nhuệ.
Bãi dâu mươn mướt xanh rơn”. Nguyễn Đức Toàn thì vui vẻ trong Mời anh đến
thăm quê tôi : “Xóm quê tôi bên bờ sông Hồng. Đò đưa về bến cũ, khắp thôn trang
vui mừng tưng bừng, nô nức khắp cánh đồng. Đến nay mai trở thành nông trường. Đời
vui lên phơi phới ...”. Nhạc sĩ miền Nam, Bửu Huyền thì bên nỗi nhớ nhung là sức
hoà nhập: “Năm xưa chiến đấu bên bờ Cửu Long. Sóng reo ca mừng chiến công. Năm
nay tôi hát bên dòng sông Hồng. Lòng phơi phới vui xây hoà bình ...”
Khi cuộc chiến tranh vì thống nhất đất nước lại diễn ra, thì
đấy là những năm tháng mà những dòng sông chảy dạt dào thành âm nhạc khôn xiết,
nhất là từ ngày máy bay Mỹ ném bom miền Bắc và cuộc chiến đấu đất đối không diễn
ra ác liệt trên mọi vùng đất. Nếu ở miền Nam là những Qua sông của Phạm Minh
Tuấn, Mỗi bước ta đi của Thuận Yến: “Vượt qua sông Bé oai
hùng về Phước Long xây chiến thắng” ... thì ở miền Bắc là hàng loạt những nhạc
phẩm về những dòng sông miền Trung. Sông Gianh sau Hờn sông Gianh của
Lưu Hữu Phước, có thêm Chiến thắng sông Gianh của Mộng Lân: “Chiến
công oai hùng của dòng sông Gianh ngày qua thắng Mỹ ...” Bên sông Gianh là sông
Nhật Lệ với Bài ca sông Nhật Lệ của Nhật Lai. Sông Lệ Thuỷ, sông Kiến
Giang cũng chảy vào Quảng Bình quê ta của Hoàng Vân. Lùi ra Hà Tĩnh
là Người em gái sông La của Doãn Nho (thơ Phương Thuý), tới Nghệ An
là Tiếng hát sông Lam của Đinh Quang Hợp, tới Thanh Hoá là
Chào sông Mã anh hùng của Xuân Giao. Sông Hồng lại trào dâng trong Tiếng
nói Hà Nội của Văn An (thơ: Cảnh Trà): “Dưới chân cầu Hồng Hà vẫn ngàn
năm sóng vỗ”. Sông Tích, sông Đà lại thêu vào giai điệu Nhật Lai qua Hà
Tây quê lụa .
Trở lại với miền Nam rực lửa đấu tranh, những dòng sông lại
thêm lần hiện diện. Từ sông Cửu Long với hợp xướng Cửu Long Giang của
Phan Miêng đến những dòng sông chiến công mà trước đấy ta chưa nghe thấy bao giờ.
Đấy là sông Pơliu (hoặc Pơling) nhỏ bé trong thung lũng A Lưới được nhắc đến
trong nhạc phẩm Người con gái Pa Kô của Trí Thanh. Đấy là sông Ba
Lòng trong Tiếng hát trên đường quê hương của Huy Thục. Đấy là sông
Pô Kô trong Người lái đò trên sông Pô Kô của Cầm Phong (thơ Mai Trang). Đấy
là sông Đắc Kroong trong Sông Đắc Kroong mùa xuân về của Tố Hải. Đấy
là sông Vàm Cỏ Đông trong Vàm Cỏ Đông của Trương Quang Lục (thơ
Hoài Vũ) ...
Sau ngày thống nhất đất nước, những dòng sông quê hương lại
chảy tràn trề vào âm nhạc qua nhiều nhạc phẩm được các nhạc sĩ sáng tạo trong
nhiều năm qua. Đấy là Sông Hàn vang tiếng hát (Huy Du. Thơ: Bùi
Minh Quốc), là Dòng sông hát (Trần Viết Bính), Chảy đi sông
ơi (Phó Đức Phương), Vàm Cỏ Tây (Đặng Văn Bông), Chiều
về trên sông Ô Môn (Triều Dâng), Nơi ấy sông đầy (Nguyễn
Dũng. Thơ: Nguyễn Lập Em), Sông quê (Nguyễn Hay), Khúc hát
sông quê (Nguyễn Trọng Tạo. thơ: Lê Huy Mậu) ... Nhưng những sáng tác này
vẫn chủ yếu là do các nhạc sĩ có lứa tuổi từ ngũ tuần trở lên viết ra. Những nhạc
sĩ trẻ hiện nay thực sự là ít quan tâm đến những con sông cụ thể của quê hương,
của đất nước. Con sông trong ca khúc của họ chỉ là con sông chung chung kiểu
Dòng sông lơ đãng của Việt Anh. Không cần nhắc tên sông nhưng nếu viết
như Trịnh Công Sơn, người thưởng thức vẫn nhận ra sông Hương xứ Huế rất rõ rệt.
Dù chọn lựa thế nào thì cũng phải từ một tình yêu chân thành, một xúc cảm thực.
Và mong những dòng sông mãi chảy thành âm nhạc.






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét