Những
nhạc sĩ thiên tài thế giới
Nhạc sĩ Ludwig Van Beethoven
Ludwig van Beethoven chào đời ngày 16 tháng 12
năm 1770 tại thành phố Bonn trong miền Rhineland nước Đức. Cha của Beethoven,
ông Johan và ông nội, đều là các ca sĩ cung đình địa phương của ông hoàng Max
Friedlich. Mẹ của Beethoven, bà Maria, là con gái của một người đầu bếp cung
đình. Đây là một gia đình thiếu hạnh phúc vì người cha thường hay say rượu, nổi
điên và đánh đập các con khiến bà Maria vẫn phải che chở Ludwig tránh khỏi các
cơn hành hạ của người cha nghiện ngập.
Ngay từ thuở thiếu thời, Ludwig đã tỏ ra có năng khiếu về âm nhạc và ông Johan
đã quyết định bắt con học nhạc để sau này khai thác như thần đồng Wolfgang A.
Mozart. Ludwig đã bị cha nhốt vô phòng trong nhiều giờ để học đàn vĩ cầm và đàn
dương cầm. Năm lên 6 tuổi, Ludwig đã biểu diễn âm nhạc trước thính giả nhưng đã
không tạo được tiếng vang nào.
Mặc dù bị bạo hành bởi người cha, bị ép buộc phải học âm nhạc, Ludwig đã không
thù ghét âm nhạc mà lại coi âm nhạc là một con đường giải thoát. Giáo sư dạy
nhạc của Ludwig là nhạc sĩ đàn phong cầm của cung đình tên là Christian Gottlob
Neefe. Theo ông Neefe, Ludwig không có năng khiếu kỳ diệu như Mozart nhưng cũng
đã tỏ lộ một tài năng lớn lao. Ông Neefe đã nhờ Ludwig, khi đó 11 tuổi, làm
nhạc sĩ trợ giúp đàn phong cầm để đàn các bản dạo khúc (prelude) và tẩu khúc
(fugue) của J.S. Bach. Ludwig cũng sáng tác các bản nhạc đầu tiên vào năm 1783.
Ngoài ra Ludwig còn làm trợ giáo dạy cho hai đứa trẻ của gia đình Von Breuning.
Bà mẹ của gia đình này là một phụ nữ tử tế, có giáo dục cao nên đã giới thiệu
Ludwig cho các nhân vật quan trọng trong thành phố.
Một số bản chép tay của Beethoven
Sống tại Bonn, một nhạc sinh thời đó chỉ có được kinh nghiệm
về âm nhạc, còn muốn trở nên một nhạc sĩ độc tấu hay một nhà soạn nhạc, nhạc
sinh đó phải đến thành phố Vienna là thủ đô của nước Ao và cũng là kinh đô âm
nhạc của châu Au thời bấy giờ. Năm 1878, Ludwig làm một chuyến du hành tới Vienna
và đã có dịp dạo đàn cho Mozart nghe và có lẽ đã theo học nhạc sĩ tài danh này
một thời gian ngắn vì Ludwig sau đó bị gọi về Bonn do mẹ chết. Từ nay, Ludwig
phải lo cuộc sống cho gia đình gồm người cha say sưa và tuyệt vọng cùng hai
người em trai.
Trong thời gian sống tại Bonn, Ludwig van Beethoven bắt đầu được nhiều người có
danh vọng biết tới tài năng, đặc biệt là tài ứng tác (improvisation). Chàng
thanh niên này quen biết được nhiều người quyền thế trong đó có Bá Tước
Ferdinand Waldstein, một người thường giúp đỡ Beethoven và sau này là một người
bạn suốt đời. Beethoven cũng có dịp bước vào sinh hoạt của giới quý tộc, tiếp
xúc với văn chương và thơ phú của giới trí thức, đã có dịp đọc các tác phẩm của
Shakespeare cũng như của các văn hào đương thời là Goethe và Schiller. Vào giai
đoạn này, châu Au đang tràn ngập tinh thần dân chủ của Cuộc Cách Mạng Pháp.
Ngày 14-7-1789, dân chúng Paris nô nức đi phá ngục Bastille, giải thoát các tù
nhân và diễn hành trên đường phố, phản đối phe bảo hoàng. Toàn thể nước Pháp
khi đó đang sôi động với bản nhạc ái quốc La Marseillaise và với việc phòng thủ
chống xâm lăng từ bên ngoài. Vài tháng sau, Vua Louis 16 bị dẫn ra pháp trường
và bị chặt đầu, đồng thời một trung úy pháo binh tên là Napoléon Bonaparte bắt
đầu xuất hiện trên chính trường của nước Pháp. Sự thể hiện tinh thần cách mạng
và các hành động anh hùng của Napoléon đã khiến cho Beethoven bị xao động.
Trong phạm vi âm nhạc vào thời đó, Haydn đang ở đỉnh cao của danh vọng và
Mozart đã chết trong nghèo khó vào năm 1791 và bị chôn cất vội vã trong khu
nghĩa địa nghèo nàn của thành phố Vienna. Năm 1792, trong chuyến đi London, nhà
soạn nhạc danh tiếng Joseph Haydn đã dừng chân tại Bonn và đã nghe một số bản
nhạc của Beethoven. Haydn đã khuyên Beethoven nên tới Vienna để trau dồi âm
nhạc đồng thời vị vương hầu của miền Cologne đã giúp đỡ tài chính cho Beethoven
ra đi.
Tại Vienna, Beethoven đã học nhạc với Haydn cho đến khi vị nhạc sĩ này rời
Vienna đi London vào năm 1794. Sau năm đó, Beethoven đã theo học ông Johan
Schenk là một nhà soạn nhạc danh tiếng, chuyên viết các bản ca, rồi học Đối
Điểm với ông Johan Georg Albrechtsberger là một tác giả viết sách về sáng tác
âm nhạc. Nhạc sĩ Antonio Salieri, trước kia là môn đệ của Gluck, cũng chỉ dạy
cho Beethoven về cách sáng tác nhiều giọng. Như vậy Beethoven đã được thừa
hưởng những nhạc phong của Haydn, Mozart, hiểu rõ các nhạc thức cổ điển mà cho
tới lúc đó, đã khá phong phú nhưng vẫn còn tiềm năng phát triển. Các hoàn cảnh
bên ngoài, sức mạnh của tài năng bên trong đã giúp Beethoven biến đổi các di
sản âm nhạc tiếp thu được thành những tác phẩm độc đáo, không hẳn là cổ điển,
lại không thuần túy lãng mạn mà hàm chứa bên trong những nét đặc thù, khiến cho
về sau này giới âm nhạc coi Beethoven như vị Vua Âm Nhạc xuất hiện giữa hai thế
kỷ 18 và 19, ở giữa hai trường phái cổ điển và lãng mạn.
Các sáng tác âm nhạc của Beethoven đã tới với giới quý tộc mê âm nhạc như những
mùa xuân. Ông đã được đón mừng bởi các gia đình danh giá và quyền lực của thành
phố Vienna và tên của họ đã xuất hiện trên những tác phẩm âm nhạc như ông hoàng
Lichnowsky, ông hoàng Lobkowitz, bá tước Razumovsky... Họ đã tặng quà và trả
tiền rộng rãi cho các tác phẩm danh tiếng của Beethoven đồng thời cũng kính
trọng ông và coi ông như ngang hàng, như một người bạn, khác hẳn với giới nhạc
sĩ thời trước bị coi là gia công trong các gia đình quyền quý. Beethoven còn
được sự hâm mộ của giới trung lưu lúc đó đang tiến dần lên các đẳng cấp xã hội,
thêm vào đó là sự phát triển của các buổi hòa nhạc công cộng và sự xuất hiện
của các nhà xuất bản. Vào tuổi 31, Beethoven đã viết: "Tôi có sẵn 6 hay 7
nhà xuất bản in các tác phẩm của tôi và còn có thể có nhiều hơn nữa. Họ không
trả giá với tôi, tôi ra điều kiện và họ thanh toán".
Trong khi danh vọng của Beethoven đang đi lên vào cuối thập niên 1790, nhà đại
nhạc sĩ bị mất dần thính giác, một giác quan đối với ông tối cần thiết và được
coi là hoàn hảo nhất. Trước kia, Beethoven là một người tự hào, độc lập và hơi
kỳ dị, thì nay bệnh lãng tai đã biến đổi ông thành người đa nghi, dễ nóng giận.
Beethoven bị điếc hoàn toàn vào cuối cuộc đời nhưng ông vẫn sáng tác và đã coi
nghệ thuật âm nhạc là một vinh quang cuối cùng để vượt qua cuộc sống.
Beethoven đã sống độc thân, không hạnh phúc với hai người em là Johan và Karl.
Hai người này thường hay cãi cọ với nhà nhạc sĩ. Karl chết vào năm 1815, để lại
cho Beethoven đứa con trai 9 tuổi. Đứa trẻ này trở thành người coi sóc cho ông
lúc tuổi già đồng thời cũng gây cho ông nhiều phiền não. Beethoven bị cảm nặng
vào cuối năm 1826, bị sưng phổi rồi qua đời vào ngày 26-3-1827.
Âm nhạc Beethoven lan xa trên toàn thế giới
Các nhạc phẩm của Beethoven dành cho dàn nhạc (orchestral
music) gồm 9 bản giao hưởng (symphonies): số 1 (năm 1800), số 2 (1802), số 3 =
Eroica (1803), số 4 (1806), số 5 (1808), số 6 = Pastoral (1808), số 7 (1812),
số 8 (1812) và số 9 = Choral (1824), các bản Khai Khúc (overtures) kể cả bản
Leonore (số 1,2,3) và bản Egmont.
Các bản Concerto (nhạc hòa tấu dùng cho một nhạc cụ và dàn nhạc) gồm 5 bản dành
cho piano (số 5 = Emperor, 1809), 1 bản dành cho violin (1806) và 1bản dành cho
3 đàn violin, piano và cello (1804).
Nhạc thính phòng gồm các bản hòa tấu 4 đàn dây (string quartets) Op.18, No.1- 6
(1789-1800), 1 bản hòa tấu 5 đàn (quintet), các bản sônát violin và cello
(sonata), dạ khúc (serenade) và nhạc kèn thính phòng (wind chamber music).
32 bản sônát dành cho piano, gồm cả bản Op.13 = Pathétique (1798); Op.27, No.2
= Moonlight (1801); Op.53 = Waldstein (1804); Op.57 = Appassionata (1805).
1 nhạc kịch (opera) = Fidelio (1805), nhạc đồng ca (choral music) gồm Missa
Solemnis (1823), hơn 20 bộ Biến Khúc (variations) và nhiều bản Thanh Nhạc
Cantata cùng nhiều bài hát khác.
Trong suốt cuộc đời của ông, Beethoven đã luôn luôn lạc quan và đặt niềm tin
vào các giá trị đạo đức. Những điều này thường nằm trong các nhạc phẩm của ông
với các niềm vui cuối cùng thường xuất hiện sau các nhạc vẻ (mood) đôi khi bi
quan.
Beethoven đã dùng đến rất nhiều tập phác thảo (sketchbooks) nhờ đó người ta đã
thấy ông soạn nhạc rất thận trọng, không ngừng xét lại các nhạc đề (theme),
thay đổi các hình thức diễn tả cho đến khi ông vừa ý. Sự kỹ càng và khéo léo
của Beethoven đã khiến cho mỗi nốt nhạc của ông hoàn hảo đến độ khó viết được
theo cách khác, chẳng hạn như phần đầu của bản Giao Hưởng số 5 (the 5th
Symphony) và trong bản Sonata dành cho piano Op.106.
Giai đoạn sáng tác đầu tiên của Beethoven bắt đầu từ cuối thập niên 1780 tới
khoảng năm 1800. Các tác phẩm của ông trong thời kỳ này phản ánh ảnh hưởng của
các vị thầy là Haydn, Mozart, Bach và Christian Neefe nhưng cũng đã bao gồm
những giai điệu mạnh và cho thấy cá tính cẩn thận của nhà soạn nhạc.
Giai đoạn thứ hai về sáng tác được kể từ 1800 tới 1815 và được coi là xúc tích
nhất. Beethoven đã viết các bản giao hưởng thứ ba tới thứ tám và các
concerto... Ngày nay, âm nhạc của Beethoven đã trở nên quá quen thuộc với chúng
ta trong các chương trình diễn tấu nhưng vào thời đại của ông, các nhạc phẩm đó
đã gây ra nhiều sóng gió. Một số nhà phê bình âm nhạc thời đó cũng cho rằng khó
có thể hiểu nổi cách diễn tả của Beethoven. Beethoven đã làm phát triển và thay
đổi các hình thái âm nhạc cổ truyền chẳng hạn như các bản giao hưởng. Bản giao
hưởng số 3 với tên là Eroica, đã được Beethoven lúc đầu dành cho Napoléon, vị
Tổng Tài thứ nhất của nền Cộng Hòa Pháp, là nhân vật tượng trưng cho sự anh
hùng và giải phóng, nhưng khi Napoléon trở nên Hoàng Đế của nước Pháp,
Beethoven đã bất bình và gạch bỏ danh dự đề tặng tác phẩm cho Napoléon. Sức
mạnh và sự quý phái trong tác phẩm của Beethoven đã được mọi người nhận thức và
tán thưởng, ngay cả khi ông còn sống.
Ở nhạc kịch Fidelio, Beethoven nhờ hứng khởi gây ra bởi câu chuyện theop đó một
người vợ tận tụy và can đảm đã cứu chồng bị giam cầm vì bất công. Trong nhạc
kịch này, Beethoven đã ca ngợi các ý tưởng tự do, các hẩm cách cá nhân và sự
anh hùng đối với bạo quyền. Khi viết nhạc kịch Fidelio, Beethoven đã duyệt xét
lại nhạc phẩm này hai lần cho đến khi ông vừa lòng, và ông cũng thấy rằng các
đòi hỏi của việc sáng tác nhạc dành cho sân khấu đã không thích hợp với tài
năng của ông.
Giai đoạn thứ ba cũng gồm nhiều nhạc phẩm quan trọng. Nhạc phẩm Missa Solemnis
là một sáng tác tôn giáo linh động nhất với tầm quan trọng ngang hàng với bản
giao hưởng số 9. Bản giao hưởng số 9, Choral Symphony, ca ngợi lý tưởng về tinh
thần huynh đệ nhân loại (human brotherhood) nơi đó, mọi người đều là anh em và
phần hợp ca là âm hưởng của tác phẩm Ode of Joy của Schiller. Trong các
concerto, Beethoven đã phối hợp tính điêu luyện (virtuosity) với kiến trúc giao
hưởng, và nghệ thuật âm nhạc của Beethoven đã tập trung vào đàn dương cầm khiến
cho 32 Sônát (sonata) của ông được coi là Bộ Kinh Tân Ước của các nhạc sĩ dương
cầm, trong khi Bộ Kinh Cựu Ước là tập nhạc The Well-Tempered Clavier của J. S.
Bach.
Các nhạc phẩm của Beethoven trong giai đoạn 2 với các bí ẩn về âm sắc đã hấp
dẫn và đã gây được các ảnh hưởng rất đáng kể tới các nhà soạn nhạc lãng mạn
(romantic) của đầu thế kỷ 19, trong khi đó người đương thời chưa hiểu nổi các
nhạc phẩm thuộc giai đoạn 3 của ông, một phần vì chúng rất khó trình diễn, lại
đòi hỏi các phẩm chất mới của âm thanh, từ loại đàn dây tới đàn dương cầm. Tuy
nhiên, các nhạc phẩm thời kỳ cuối của Beethoven đã tạo nên những tác động mạnh
mẽ tới các nhạc sĩ của đầu thế kỷ 20, đặc biệt là Arnold Schoenberg và Béla
Bartók.
Ludwig van Beethoven đã viết 9 bản giao hưởng so với 10 bản giao hưởng của
Haydn và 40 của Mozart, nhưng nhạc bản của Beethoven dài hơn và rất khó trình
diễn. Âm nhạc của Beethoven là cảm xúc trực tiếp chảy ra từ cá tính của người
nhạc sĩ, vừa phong phú, vừa dữ dội, đôi khi lại hòa với sự buồn bã hay dịu
dàng.
Ludwig van Beethoven là một trong các nhà sáng tác âm nhạc lớn nhất trong Lịch
Sử, là nhân vật đã gây được ảnh hưởng rất sâu đậm về âm nhạc, đã mở đường cho
các nhạc sĩ về sau dùng âm nhạc để tự do diễn tả các cảm xúc nội tâm
Beethoven và trò đùa ác nghiệt của số phận
Ngoài 9 bản giao hưởng, Beethoven còn sáng tác nhiều Sonatta về tình yêu, trong
đó Sonatta "Ánh trăng" là nhạc phẩm nổi tiếng nhất. Đâu là chất liệu
của những bản nhạc bất tử về tình yêu đó? Những mối tình tuyệt vọng? Sự tưởng
tượng? Hay nỗi ước ao? Hay tất cả những điều đó gộp lại!
Phương Tây, trong những thế kỷ "ánh sáng", con người được giải phóng
khỏi những trói buộc khắt khe của đêm trường trung cổ, đã đạt những đỉnh cao về
khoa học, thi ca, triết học, hội họa, điêu khắc và âm nhạc. Nhiều thiên tài âm
nhạc đã xuất hiện: Johan Sebastin Bach, Joseph Haydn, Wolfgang Amadeus Mozart,
Lugvig Van Beethoven, Franz Schubert, Robert Schumann, Tchaikovsky... Bằng
thiên tài âm nhạc bẩm sinh và những nhọc nhằn trong cuộc kiếm tìm vẻ đẹp của âm
thanh, họ đã cống hiến cho nhân loại những tác phẩm có sức sống vượt thời gian,
cho đến nay vẫn được coi là "kinh điển".
Ludvig Van Beethoven là một nhạc sĩ thiên tài người Đức, tác giả của những bản
giao hưởng "Số phận", "Anh hùng", "Điền viên",
"Thứ 9" cùng những bản Sonata "Ánh trăng", "Đồng
quê"... đã trở nên quen thuộc đối với thính giả ở các châu lục hàng trăm
năm nay. Nhiều nhạc sĩ đương thời gọi ông là "thiên tài lập dị", bởi
ông luôn sáng tạo ra những âm thanh khác thường và ngẫu hứng.
Ông không đạt đến "kỷ lục" về số lượng tác phẩm như Mozart, nhưng lại
đạt "kỷ lục" về sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tình cảm sôi nổi và cấu
tứ hoàn mỹ trong mỗi nhạc phẩm. Ông đã tổng hợp được những tinh tú của âm nhạc
cổ điển, làm cho trường phái lãng mạn mà ông khai sáng chiếm địa vị độc tôn
trong đời sống âm nhạc. Vì vậy, tác phẩm của Beethoven hầu như được lưu hành
nhiều nơi trên thế giới hơn cả
"Tôi phải túm cổ số phận chứ không để cho nó khuất phục!"
Lên 4 tuổi, Beethoven bắt đầu học đàn, 8 tuổi đã tổ chức nhạc
hội cá nhân, 11 tuổi sáng tác "Đại hợp xướng đưa tang" nổi tiếng khắp
châu Âu, 13 tuổi vào dạy phong cầm trong hoàng cung, 14 tuổi được bổ nhiệm làm
Giám đốc dàn nhạc giao hưởng Organ hoàng gia, 25 tuổi ra mắt buổi hòa nhạc đầu
tiên gồm Bản giao hưởng số 1 và nhiều tác phẩm khác tại nhà hát lớn ở Vienna...
Beethoven được người đương thời suy tôn là "Thánh nhạc"!
Hầu như tất cả các thiên tài về âm nhạc đều hội tụ cả hai yếu tố: thiên tài bẩm
sinh và sự dày công khổ luyện suốt cả cuộc đời. ở Beethoven, năng khiếu về âm
nhạc bộc lộ từ nhỏ, lại được ông nội và cha dẫn dắt theo nghề "gia
truyền" với một cách thức riêng. Từ lúc còn là một cậu bé "vắt mũi
chưa sạch", Beethoven thường phải vừa khóc vừa đàn một cách miễn cưỡng
theo mệnh lệnh hà khắc của người cha. Vì muốn con trai trở thành thần đồng âm
nhạc như Mozart, người cha thường xuyên dùng roi vọt bắt cậu bé tập đàn 4 tiếng
liên tục trong một ngày, bất chấp cậu phản ứng, khóc lóc...
Cậu bé luôn chìm đắm trong thế giới âm thanh, khi miễn cưỡng, khi tự nguyện, và
tự lúc nào cậu đã trở thành môn đệ của thế giới huyền bí này. Khi ông trưởng
dàn nhạc nhà thờ qua đời, người cha nát rượu không thể nuôi nổi gia đình,
Beethoven phải làm trợ lý cho Christan Gottlob Neefe, nhạc sĩ phụ trách diễn
tấu đàn oóc trong cung đình. Thương cậu bé nghèo có năng khiếu âm nhạc, Neefe
không tiếc công sức hướng dẫn cậu những kiến thức cơ bản về âm nhạc, tìm cách
để Beethoven được làm học trò của những bậc thầy như Mozart và Haydn. Dưới sự
chỉ bảo của Neefe, 12 tuổi Beethoven đã đọc được chính xác các bản nhạc, diễn
tấu điêu luyện đàn piano, violon...
Trước khi trở thành nhà soạn nhạc, Beethoven xuất hiện trước công chúng với tư
thế của một nghệ sĩ biểu diễn piano và violon. Ngoài ra, anh còn tự học văn
chương, triết học, lịch sử... Bàn tay Beethoven đã không ít lần bỏng rát, rớm
máu khi gõ trên các phím đàn, để tìm ra âm thanh mà ông đã nghe thấy đâu đó một
cách ngẫu nhiên. Từng nốt nhạc, từng âm thanh trong những bản nhạc của ông đều
thấm đẫm những giọt mồ hôi.
Bản thảo vở ca kịch duy nhất còn lại của Beethoven dày 250 trang, chỉ riêng
phần nhạc khúc “Da-capoaria” của ông đã đặt ra 12 phương án hoàn toàn khác
nhau. Một người chuyên nghiên cứu về Beethoven cho rằng, đọc 200 trang bản thảo
của người khác còn dễ hơn đọc một trang bản thảo của ông, vì chúng bị sửa đi,
sửa lại nhiều đến nỗi không biết đằng nào mà lần.
Khi sự nghiệp âm nhạc đang phát triển rực rỡ thì Beethoven bị điếc. Đầu tiên là
chứng nặng tai, đến năm 19 tuổi thì điếc hẳn, chỉ có thể giao tiếp qua giấy
bút. Anh không thể trò chuyện với người yêu, không thể nghe thấy những nốt nhạc
mà anh phải nhọc nhằn tìm kiếm.
Có lúc, Beethoven tuyệt vọng định tìm đến cái chết, đã viết bức thư tuyệt mệnh:
"Có thể nói là tôi đang sống một cách đau khổ. Hai năm qua tôi luôn trốn
tránh những buổi tiếp xúc xã giao vì tôi không có đủ can đảm để nói với mọi
người là tôi đã điếc. Nếu tôi làm một nghề khác thì có lẽ còn nhẫn nại được,
nhưng cái nghề của tôi thì việc này là một điều đáng sợ...". Nhưng nỗi đam
mê âm nhạc đã vực dậy con người bướng bỉnh trong anh.
"Tôi phải túm cổ số phận, chứ không để cho nó khuất phục!". Khi thính
giác mất dần, Beethoven phải rời bỏ nghề biểu diễn đàn, rồi từ bỏ nghề chỉ huy
dàn nhạc, chuyển sang sáng tác. Tinh lực của anh dồn cả lên ngòi bút.
Trong vòng 10 năm, khi đã bị điếc hoàn toàn, "Thánh nhạc" Beethoven
đã lần lượt cho ra đời bốn bản giao hưởng nổi tiếng: "Anh hùng",
"Điền viên", "Số phận", "Thứ 9". Bản giao hưởng
Thứ 9 (The Ninth Symphony), nói lên khát vọng tự do của bản thân ông và nhân
loại, công diễn lần đầu tiên vào năm 1824 đã liên tiếp nhận được 5 lần vỗ tay,
khiến cảnh sát tưởng có chuyện bất ổn phải vội vàng xông vào rạp.
Theo quy định hồi đó, chỉ khi nào hoàng đế xuất hiện ở rạp khán giả mới vỗ tay
3 lần. Beethoven ngồi lặng lẽ ở hậu trường không hề hay biết điều đó. Chỉ đến
khi một nữ ca sĩ dắt ra trước sân khấu chứng kiến sự cuồng nhiệt của khán giả,
Beethoven sung sướng đến nỗi ngất xỉu.
Tác giả những bản nhạc bất tử về tình yêu là một người suốt đời
sống độc thân!
Ngoài 9 bản giao hưởng, Beethoven còn sáng tác nhiều Sonatta về tình yêu, trong
đó Sonatta "Ánh trăng" là nhạc phẩm nổi tiếng nhất. Đâu là chất liệu
của những bản nhạc bất tử về tình yêu đó? Những mối tình tuyệt vọng? Sự tưởng
tượng? Hay nỗi ước ao? Hay tất cả những điều đó gộp lại!
Về dáng vẻ bề ngoài, Beethoven là một chàng trai xấu xí, mặt rỗ, tai điếc, áo
quần luôn xộc xệch, giống như Robinson Crusso mới từ hoang đảo trở về. Song, đã
có không dưới chục người phụ nữ, phần đông thuộc tầng lớp quý tộc đi qua cuộc
đời người nhạc sĩ tài hoa, chỉ vì mến mộ cái tài âm nhạc của ông. Đầu tiên là
cô học trò nhỏ Lorsi. Nhưng sau đó, Lorsi đã kết hôn với một người bạn của
Beethoven. Tiếp đến, thời gian ở Vienna, là B.Christina và M. Malatana. Sau đó,
Beethoven lại yêu nữ bá tước trẻ Hungari tên là Peti.
Nhưng Peti lại kết hôn với một bá tước già nua và giới thiệu cho Beethoven cô
em gái mới 16 tuổi. Cô này cũng bỏ Beethoven để lấy một bá tước đẹp trai... Bi
kịch của những mối tình ấy đã đem đến cho nhạc sĩ những khao khát, những hy
vọng, những đớn đau... đủ làm nên những nhạc phẩm làm yếu mềm trái tim biết bao
đôi lứa. Dư âm của những cuộc tình ấy đã lắng đọng trong một số nhạc phẩm của
Beethoven, với lời đề tặng chân thành, chứa chan yêu dấu. Beethoven chưa bao
giờ ngỏ lời cầu hôn với ai, và những người phụ nữ mà ông yêu cuối cùng đều lấy
những người đàn ông khác.
Ông đã từng thất vọng: "Đáng thương thay cho Beethoven, thế giới này không
có hạnh phúc dành cho ngươi; ngươi chỉ có thể cảm thấy yên ổn và hạnh phúc
trong tâm tưởng mà thôi". Nhạc sĩ đem nỗi ước ao về hạnh phúc gửi gắm
trong tác phẩm ca kịch vĩ đại nhất của mình, vở "Fidelio", miêu tả
cảnh cô Leonora lẻn vào ngục cứu chồng là Florestan.
Ông đã dành rất nhiều tâm huyết cho vở kịch này, tự cho rằng đây là một tác
phẩm viết ra trong nỗi đau khổ, song phần nào giúp ông toại nguyện. Phải chăng,
sau nhiều lần thất bại trong tình yêu, ông chẳng khác gì một kẻ "tù
tội" và hy vọng nữ thần Tình yêu xuất hiện để cứu vớt. Được biết, thời
điểm viết vở ca kịch này, Beethoven vừa tan vỡ mối tình đầu với Lorsi và sau đó
yêu hai cô gái quý tộc, một cô là Malfatti và một cô là Giulietta.
Trong những di vật còn lại của nhà nhạc sĩ thiên tài có ba bức thư ông gửi cho
"Người yêu muôn thuở" ký tên "L", không đề năm và tên người
nhận. Một bức đề "buổi sáng ngày 6 tháng 7", một bức đề "đêm thứ
hai, ngày 6 tháng 7" và bức cuối cùng đề "buổi sáng ngày 7 tháng
7". Lời lẽ trong những bức thư này nồng nàn: "...Người yêu muôn thuở
của tôi... Em yêu dấu, anh muốn được chung sống với em, mãi mãi ở bên nhau;
thiếu em thì anh chẳng thiết sống nữa. Không ai khác có thể xâm chiếm trái tim
anh, hoàn toàn không ai khác.
Ôi Thượng đế, chúng ta yêu nhau thế, tại sao người lại bắt chúng ta phải xa
nhau. Hỡi ý trung nhân mãi mãi không quên! Anh yêu em chân thành, xin đừng bao
giờ hiểu lầm tấm lòng của anh...Vĩnh viễn là của em, vĩnh viễn là của anh,
chúng ta vĩnh viễn là của nhau...".
Theo hai chuyên gia nghiên cứu về Beethoven là A.Schindler và G.R. Marek, đây
là ba lá thư Beethoven gửi cho Giulietta vào năm 1801. Hai ông cũng cho rằng,
thời điểm đó, Giulietta bị cha mẹ ép gả cho bá tước Galleenberg. Nhiều nhà
nghiên cứu âm nhạc cho rằng Beethoven sáng tác bản Sonata "Ánh trăng"
để tặng cho nàng Giulietta
Mắt nào em ném trao anh
Dao cau bổ dọc toang mành trời đêm
Môi nào rót mật ...say mềm
Mà giờ rơi rớt ... bên thềm lắt lay
Những nhạc sĩ thiên tài thế giới
Frederic Chopin Chopin sinh ra ở Zelazowa Wola, Ba Lan ngày 22
tháng 2 năm 1810. Mặc dù sinh ra ở Ba Lan, là con trai của một người Ba Lan,
nhưng quê nhà thiêng liêng của ông luôn là Pháp. Thật sự thì đó chưa bao giờ
chỉ đơn thuần là đất nước đã nuôi dưỡng ông, bởi vì mặc dù thực tế là trong một
thời gian dài Chopin đã được công nhận là hậu duệ của một gia đình Ba Lan đã
từng chuyển đến Paris, nhưng một số tài liệu lại chứng minh rằng gia đình ông
bắt nguồn từ vùng Loire thuộc nước pháp và giấy khai sinh của bố ông được chứng
nhận sinh ngày 15 tháng 4 năm 1771 tại một ngôi làng ở Marainville gần Nancy.
Ông đã rời đến Warsaw vào năm 1787 nơi mà ông cưới bà Tekla-Justyna
Krzyzanowska vào ngày mùng 2 tháng 6 năm 1806. Frédéric là một trong 4 đứa con
của họ.
Chopin từ bé đã được hưởng một sự giáo dục đầy đủ và thoải mái. Bố của ông, một
người đàn ông thông minh, đã rất nhanh chóng trở thành gia sư dạy tiếng Pháp ở
các gia đình giàu có của thủ đô Ba Lan. Sau đó, cũng lại ở Wasaw, ông đã trở
thành một giáo viên tiếng Pháp tại trường tiểu học Lyceum. Khi đó, với một khă
năng tài chính vững vàng, ông đã biến căn hộ rộng lớn của mình thành một
pension (tiếng Pháp có nghĩa là khách sạn nhỏ) cho những học sinh ở Lyceum,
phần đông trong số họ đến từ những gia đình Ba Lan khá giả hơn.
Tính cách của Chopin đã được thường xuyên rèn đúc bởi lối sống văn hoá và lịch
sự của gia đình ông. Ở một đứa trẻ thông minh và chuyên cần như ông, bố Chopin
đã sớm nhận ra rằng Chopin được định sẵn để trở thành một nhạc sỹ. Và cậu bé
Chopin đã nhanh chóng chứng tỏ được điều đó bằng kỹ năng chơi đàn piano của
mình (dưới sự chỉ bảo của của chị ông) từ lúc 4 tuổi. Sau đó, ông được gửi đến
học một giáo viên có trình độ người Bohemian để học nhạc. Tài năng của ông với
tư cách một nhà soạn nhạc đã sớm được chứng minh. Bản Polonaise giọng Son thứ
đầu tiên của ông được viết năm 1817, dù chưa phải là một thành quả lớn, nhưng
thực sự là một thành tích vượt bậc với một đứa trẻ mới 7 tuổi. Và Chopin được
nhắc đến trên tạp chí văn học của Ba Lan tháng 1 năm 1818 như sau: “Chúng ta
không thể lặng thinh làm ngơ bản Polonaise viết cho đàn piano của Chopin, một
đứa trẻ 7 tuổi con trai ông Nicolas Chopin, giáo viên dạy ngôn ngữ và văn học
Pháp”. Sau khi hoàn thành xong khóa học piano và tham gia một loạt các buổi
biểu diễn tại các phòng diễn của giới quý tộc ở Warsaw và vùng xung quanh,
Chopin minh chứng nhiều hơn nữa khả năng sáng tác của mình vào năm 1821 với bản
Polonaise tiếp theo, lần này là bản giọng La giáng thứ, như một món quà cho
người thầy của mình. Thực tế đó là một cách lịch thiệp để tạm biệt người thầy
đầu tiên, bởi vì sau khi tốt nghiệp trường Lyceum với bản Rondo giọng Rê thứ
được công bố năm 1825, Chopin được chiêu sinh vào nhạc viện Warsaw, nơi anh học
sáng tác ba năm tiếp theo dưới hướng dẫn thấu đáo của Jozef K.Elsner. Kỹ thuật
chơi piano bậc thầy của Chopin đã được định hình, với những sáng tác đột phá
với thời kỳ này, gồm các bản Những biến tấu dựa trên chủ đề Don Giovanni của
Mozart, Op.2 cho piano và dàn nhạc (1827), bản Nocturne giọng Mi thứ, Op.72 số
1 (1827), bản Polonaise giọng Rê thứ, Op.71 số 1 (1827) và bản Rondeau à la
Mazur, Op.5 (1827).
Trong lúc ấy, Chopin cũng làm nên tên tuổi của mình như một nghệ sỹ trình diễn
piano. Kết thúc khoá học tại nhạc viện vào năm 1829, Chopin bắt tay vào hàng
loạt các buổi trình diễn và những buổi trình diễn này đã mang Chopin không chỉ
vòng quanh Ba Lan mà còn tới cả Vienna, nơi mà kỹ thuật phi thường của ông đã
không gây được tác động mà lẽ ra nó đã đạt được do độ lớn các phòng hoà nhạc ở
đây. Tuy nhiên, ở đây ông đã có những quen biết hữu ích, những người sẽ giới
thiệu cho Chopin đời sống âm nhạc của thành phố, bao gồm Schuppanzigh, người đã
đóng một vai trò quan trọng trong viêc làm cho những bản tứ tấu của Beethoven
được biết đến ở Vienna, chủ xuất bản Haslinger, người đã in bản Variations,
Op.2 của ông năm 1820, cùng Stein và Graff, những thợ làm đàn piano nổi tiếng.
Chopin cũng có thể nghe tại đây các vở opera của Rossini và Meyerbeer.
Trở về Warsaw năm 1830, ông đã chơi bản Concerto giọng Pha thứ, Op.21, bản
Concerto đầu tiên của ông sáng tác năm 1829 và bản Concerto giọng Mi thứ, Op.11
(1830) tại nhà hát quốc gia, nhưng chỉ thu được một chút thành công. Báo chí đã
thực sự làm ngơ với sự kiện này, dù sao điều đó không đáng ngạc nhiên lắm, có
thể bởi ảnh hưởng của các vấn đề chính trị thời bấy giờ.
Chopin rời Ba Lan ngày 2 – 11 – 1830 bắt đầu cho một tour học tập tại châu Âu,
có lẽ cũng vì Italy như một điểm đến lý tưởng với ông. Nhưng lúc ấy, ông không
thể biết rằng ông có thể sẽ không bao giờ trở lại quê hương yêu dấu của mình
một lần nữa. Điểm dừng chân đầu tiên của ông là Vienna, nơi ông chỉ có một buổi
hoà nhạc khá là không thành công. Sau đó, với những làn sóng náo động của cuộc
Cách mạng lan từ Pháp đến Bỉ, Italy và Ba Lan, ông đã quyết định rằng London sẽ
là nơi lý tưởng nhất để sống. Trên đường đi, ông được biết rằng quân đội Nga đã
chiếm Ba Lan và khống chế chính phủ quốc gia từ 5 – 9 – 1831.
Ông sống tại Paris cho tới cuối tháng 9, và mặc dù mục đích cuối cùng của ông
luôn là đến được London, ông đã quyết định ở lại đây để rồi đạt được những
thành công ngoài sức tưởng tượng với sự giàu có lạ thường và khả năng khuấy
động đời sống âm nhạc của thủ đô nước Pháp. Người nhạc sỹ trẻ tuổi có học thức
và thanh lịch, người mang sắc mặt xanh xao và một vẻ vô cùng sầu muộn đã ngay
lập tức được Paris sang trọng chấp nhận. Buổi trình diễn đầu tiên của ông tại
Salle Pleyel vào 26 - 2 – 1832 gồm bản Concerto đầu tiên, một khúc biến tấu từ
chủ đề Mozart và trong số những tiểu khúc ngắn hơn, có một Grand Polonaise cho
6 đàn piano được viết bởi Kalkbrenner, trong dịp này, do chính tác giả trình
diễn cùng Mendelssohn, Chopin và các nhạc công piano khác. Tuy nhiên, một nhà
phê bình âm nhạc có mặt trong buổi trình diễn hôm đó đã có bài viết chê bai khả
năng chơi nhạc của Chopin, quả quyết rằng kỹ năng của ông trở nên quá mờ nhạt
để trình diễn trong một khán phòng rộng. Kết quả là, Chopin không bao giờ có
được sự công nhận, như ông xứng đáng, là một nghệ sỹ dương cầm bậc thầy, mặc dù
thỉnh thoảng ông có chơi trong những buổi công diễn được tổ chức cho việc từ
thiện hay bởi các nhạc sỹ khác.
Ông may mắn được gặp ngài Nam tước de Rothschild tại một trong những buổi trình
diễn. Họ nhanh chóng trở thành bạn bè, và một quý tộc có thể mở rộng cửa của
giới thượng lưu Paris cho một nhạc sỹ trẻ. Những bài giảng dạy của Chopin ngay
lập tức được yêu cầu và trả lương hậu hĩ. Các bà chủ bữa tiệc của giới thượng
lưu tranh nhau để có ông trong phòng khách của họ, và những buổi nói chuyện lỗi
lạc của ông đã quyến rũ ngay cả những người sành điệu nhất. Cuối cùng, ông tìm
được một lớp thính giả có thể đánh giá đúng giá trị của ông.
Điều đó cũng giúp âm nhạc của ông dễ dàng được xuất bản, gồm cả những bản nhạc
ông đã viết trước đây. Ba bản Nocturne, Op.9, được viết ở Ba Lan trong những
năm 1828 – 1830, 12 Etude Op.10 (1829) đề tặng Liszt và bản Concerto thứ 2 đều
được xuât bản ở Paris thời kỳ này. Những Etude Op.10 là đặc biệt quan trọng vì
trong các gam được chia nhỏ, Chopin đã mở rộng kỹ thuật và nguồn tài nguyên
đáng quý của piano ở thời điểm mà nhạc cụ này đã trải qua một số thay đổi quan
trọng, đáng kể nhất là sự thay đổi các khung từ gỗ sang kim loại. Điều đó đã
làm cơ cấu nhạc cụ được cải thiện và đem đến cho nhạc cụ cả một tầm âm sắc mới
và âm lượng cần thiết để trình diễn trong một khán phòng rộng. Chiếc piano đã
chiếm ưu thế trong bối cảnh âm nhạc thời Chopin và ông là nghệ sỹ dương cầm của
tầng lớp thượng lưu quyền lực nhất ở Paris, kết giao bằng hữu với rất nhiều tên
tuổi lớn như Balzac, Heine, Liszt và Ferdinand Hiller, người là nguyên nhân để
ông đã làm cuộc hành trình tới Aix-la-Chapelle tháng 5 năm 1834.
Những năm sau, người ta thấy ông ở Leipzig, nơi mà ông gặp nữ bá tước Maria
Wodzinska, người mà ông đã đề tặng bản Waltz giọng La giáng trưởng (L’adieu)
hòa nhã sau khi chuyện tình của họ kết thúc. Ông cũng đã gặp lại Mendelssohn,
gặp Clara và Robert Schumann những người mà với sự nhiệt thành thường lệ của
mình đã đặt cho ông nghệ danh Chopin - cao quý. Trở lại Paris vào tháng 12 năm
1836, ông gặp George Sand, người phụ nữ đã làm thay đổi cuộc đời ông.
Có học thức và tao nhã cũng như hấp tấp và thất thường, George Sand, quả phụ
của nam tước Dudevant đã áp dụng một ảnh hưởng ngay lập tức đối với một nhạc sỹ
trẻ và họ đã ở lại bên nhau kể cả khi đang yêu hay khi tình yêu đã cạn, cho đến
tận năm 1847. Đó là mười năm mà Chopin đã đạt đến đỉnh cao của sáng tạo với tư
cách một nhạc sỹ, đã sáng tác những kiệt tác như như những Ballade số 3 và số 4
(1841 và 1842), những Nocture, Op.48 (1841 – 1842), ba Polonaise Op.44, 53 và
61 (1840 – 1846), Scherzo, Op.54 (1843 – 1844), Fantasia giọng Pha thứ, Op.49
(1841) và bản Berceuse, Op.57 (1843).
Cùng George Sand, ông đã sống cuộc sống ẩn dật ở Valdemosa – Majorca. Ông đã
dành mùa đông 1838 để viết những kiệt tác đã được xếp cùng với những sáng tác
vĩ đại khác cho đàn piano. Chúng cũng bao gồm Ballade thứ 2, Op.38 đề tặng
Schumann năm 1840, Mazurkas, Op.33 và Op.41, Nocturne, Op.37, Polonaise, Op.
40, và hơn hết là tập 24 Préludes, Op.28. Sau khi chia tay với George Sand,
Chopin đã nhầm khi nghĩ rằng ông có thể lấy lại sự thanh thản cho mình, sau
những nỗi đau của cuộc sống, bằng việc làm thầy giáo dạy piano ở một gia đình
thượng lưu Paris. Nhưng ông chưa sẵn sáng đáp ứng những yêu cầu cho bài học và
sức khoẻ của Chopin tồi đi nhanh chóng. Thu nhập của Chopin thấp dần đi và như
vậy thật khó để sống ở thủ đô nước Pháp, nơi mà giá cả ngày càng đắt đỏ vì
những bất ổn xã hội. Ông quyết định trình diễn ở Salle Pleyle vào 16 tháng 2
năm 1848, nhưng nỗ lực này khiến ông yếu đi nhiều. Ông ốm, và như ông đã thú
nhận trong một bức thư: "... tôi dường như chưa bao giờ chơi tồi đến
thế". Dù có sự rộng lượng của bạn bè và người hâm mộ, khán thính giả vẫn
rất nhanh nhận ra sự mong manh trong tiếng đàn của ông. Hôm đó đã trở thành
buổi diễn cuối cùng của ông ở Pháp, và thực tế cũng là lời chào tạm biệt Paris
hoa lệ của Chopin.
Qua khỏi những cuộc nổi dậy bạo động năm 1848 và với sự cải thiện nhỏ về sức
khoẻ, Chopin quyết định rời Paris tới London, phần nào bởi sự nài nỉ của một
trong các học trò của ông. Một buổi trình diễn vào ngày 20 tháng 4 năm 1848 là
một thành công hân hoan, và ông quyết định ở lại Anh 7 tháng, tổ chức thêm 9
buổi diễn, lần cuối vào 16 tháng 11 để quyên góp tiền ủng hộ những người tị nạn
Ba Lan. Tuy nhiên, Chopin bị mệt và yếu hơn vì những chuyến đi và khí hậu của
London không phù hợp với ông. Ông rời London vào 23 tháng 11 năm 1848 và quay
lại với Paris yêu quý của mình, nơi mà ông đã có thêm một vài năm bất hạnh ở
đây. Ông dừng sáng tác và không có đủ sức khỏe lẫn sự hăng say để ngồi bên phím
đàn. Nhạc cụ đã gắn bó với phần đời tươi đẹp nhất của ông, giờ đây không còn
hấp dẫn ông thêm được nữa, và ông cũng thôi niềm khát khao được lướt tay trên
những phím đàn, dù lòng ông luôn tràn ngập nỗi nhớ thương quê hương Ba Lan.
Chopin ra đi vào sáng sớm ngày 17 tháng 10 năm 1849 trong ngôi nhà của ông tại
số 12 Place Vendime Paris, trong vòng tay của người chị Louise và nữ bá tước
Potocka. Theo nguyện vọng của ông, trái tim của Chopin được mang về mảnh đất Ba
Lan yêu dấu!
Âm nhạc của Frederic Chopin
Làm quen với piano từ lúc 4 tuổi, Chopin viết bản Polonaise
in G minor năm ông tuổi 7 tuổi. Năm 1825, Chopin được chiêu sinh vào
nhạc viện Warsaw, kỹ thuật chơi piano bậc thầy của Chopin đã được định hình.
Chưa được công nhận tại Ba Lan, nhưng người nhạc sỹ trẻ tuổi văn hoá và thanh
lịch, người mang vẻ mặt xanh xao và một bầu không khí sầu muộn đã ngay lập tức
được chấp nhận bởi phong cách Pháp. Ông đã chọn ở lại đây để rồi đạt được những
thành công ngoài sức tưởng tượng với sự giàu có lạ thường và khả năng khuấy
động cuộc sống âm nhạc ở thủ đô của Pháp. Tháng 12 năm 1836, ông gặp George
Sand, người phụ nữ đã làm thay đổi cuộc đời ông. Và mười năm sau đó là thời
gian Chopin đã đạt đến đỉnh cao của sáng tạo với tư cách một nhạc sỹ.
Ông đã để lại những kiệt tác nghệ thuật như như bản Ballade số 3 và số
4 (1841 và 1842), bản Nocture, Op.48 (1841
– 1842), ba bản Polonaise Op.44, 53 và 61 (1840 – 1846), bản Scherzo,
Op.54 (1843 – 1844), bản Fantasia in F minor, Op.49 (1841)
và bảnBerceuse, Op.57 (1843) cùng các bản Ballade số 2,
Op.38 đề tặng Schumann năm 1840, bản Mazurka, Op.33 và Op.41,
bản Nocturne, Op.37, bản Polonaise, Op. 40, và hơn hết là tuyển chọn của 24
Préludes, Op.28. Những Etudes Op.10 là đặc biệt quan trọng vì trong các gam
được chia nhỏ, Chopin đã mở rộng kỹ thuật và nguồn tài nguyên đáng quý của
piano ở thời điểm mà nhạc cụ này đã trải qua một số thay đổi quan trọng. Nhạc
sĩ người Đức Mendelssohn từng thốt lên: "Chopin là cả một lò lửa. Ông nung
chảy tất cả những gì mà cuộc sống ban cho. Và ông ấy rút ra từ đó kho báu hết
sức quý giá". Những vũ khúc thôn dã của quê mẹ Ba Lan, đã thấm vào Chopin
làm nên một thiên tài âm nhạc thuần khiết, đôn hậu, mãnh liệt mà da diết. Ông
được coi là nhà thơ của cây đàn piano với những bản polonaise, marzuka và etude
bất hủ.
Danh mục tác phẩm
4 ballades - Op. 23 in G minor
- Op. 38 in F major
- Op. 47 in A-flat major
- Op. 52 in F minor
1 barcarolle
- Op. 60 in F-sharp major
1 berceuse
- Op. 57 in D-flat major
1 bolero
- Op. 19 in C major and A minor
2 bourrées
1 cantabile
1 contredanse
3 écossaises
27 études
- Op. 10 No. 1 in C major (1830)
- Op. 10 No. 2 in A minor (1830)
- Op. 10 No. 3 in E (1832)
- Op. 10 No. 4 in C-sharp minor (1832)
- Op. 10 No. 5 in G-flat major ("Black Key") (1830)
- Op. 10 No. 6 in E-flat minor (1830)
- Op. 10 No. 7 in C major (1832)
- Op. 10 No. 8 in F major (1829)
- Op. 10 No. 9 in F minor (1829)
- Op. 10 No. 10 in A-flat major (1829)
- Op. 10 No. 11 in E-flat major (1829)
- Op. 10 No. 12 C minor - ("Revolutionary étude") (1831)
- Op. 25 No. 1 in A flat major - ("Aeolian Harp") (1836)
- Op. 25 No. 2 in F minor (1836)
- Op. 25 No. 3 in F major (1836)
- Op. 25 No. 4 in A minor (1832-1834)
- Op. 25 No. 5 in E minor (1832-1834)
- Op. 25 No. 6 in G-sharp minor (1832-1834)
- Op. 25 No. 7 in C-sharp minor (1836)
- Op. 25 No. 8 in D-flat major (1832-1834)
- Op. 25 No. 9 in G-flat major - ("Butterfly")(1832-1834)
- Op. 25 No. 10 in B minor (1832-1834)
- Op. 25 No. 11 in A minor ("Winter Wind") (1834)
- Op. 25 No. 12 in C minor (1836)
fantaisies (gồm cả Fantaisie-Impromptu và Polonaise-Fantaisie)
1 fugue
4 impromptus (3 nếu loại Fantaisie-Impromptu)
- Op. 29 in A-flat major
- Op. 36 in F-sharp major
- Op. 51 in G-flat major
- Op. 66 Posth. in C-sharp minor - Fantaisie-Impromptu
57 mazurkas
- Op. 6 No. 1 in F-sharp minor
- Op. 6 No. 2 in C-sharp minor
- Op. 6 No. 3 in E major
- Op. 6 No. 4 in E-flat minor
- Op. 7 No. 1 in B-flat major
- Op. 7 No. 2 in A minor
- Op. 7 No. 3 in F minor
- Op. 7 No. 4 in A-flat major
- Op. 7 No. 5 in C major
- Op. 17 No. 1 in B major
- Op. 17 No. 2 in E minor
- Op. 17 No. 3 in A-flat major
- Op. 17 No. 4 in A minor
- Op. 24 No. 1 in G minor
- Op. 24 No. 2 in C major
- Op. 24 No. 3 in A-flat major
- Op. 24 No. 4 in B-flat minor
- Op. 30 No. 1 in C minor
- Op. 30 No. 2 in B minor
- Op. 30 No. 3 in D-flat major
- Op. 30 No. 4 in C-sharp minor
- Op. 33 No. 1 in G-sharp minor
- Op. 33 No. 2 in D major
- Op. 33 No. 3 in C major
- Op. 33 No. 4 in B minor
- Op. 41 No. 1 in E minor
- Op. 41 No. 2 in B major
- Op. 41 No. 3 in A-flat major
- Op. 41 No. 4 in C-sharp minor
- Op. 50 No. 1 in G major
- Op. 50 No. 2 in A-flat major
- Op. 50 No. 3 in C-sharp minor
- Op. 56 No. 1 in B major
- Op. 56 No. 2 in C major
- Op. 56 No. 3 in C minor
- Op. 59 No. 1 in A minor
- Op. 59 No. 2 in A-flat major
- Op. 59 No. 3 in F-sharp minor
- Op. 63 No. 1 in B major
- Op. 63 No. 2 in F minor
- Op. 63 No. 3 in C-sharp minor
- Op. 67 No. 1 in G major
- Op. 67 No. 2 in G minor
- Op. 67 No. 3 in C major
- Op. 67 No. 4 in A minor
- Op. 68 No. 1 in C major
- Op. 68 No. 2 in A minor
- Op. 68 No. 3 in C major
- Op. 68 No. 4 in F minor
No. 50 in A minor
No. 51 in A minor
21 nocturnes
- Op. 9 No. 1 in B-flat minor
- Op. 9 No. 2 in E-flat major
- Op. 9 No. 3 in B major
- Op. 15 No. 1 in F major (1830-1831)
- Op. 15 No. 2 in F-sharp major (1830-1831)
- Op. 15 No. 3 in G minor (1833)
- Op. 27 No. 1 in C-sharp minor
- Op. 27 No. 2 in D-flat major
. 32 No. 1 in B major (1836-1837)
. 32 No. 2 in A-flat major (1836-1837)
- Op. 37 No. 1 in G minor
- Op. 37 No. 2 in G major
- Op. 48 No. 1 in C minor
- Op. 48 No. 2 in F-sharp minor
- Op. 55 No. 1 in F minor
- Op. 55 No. 2 in E-flat major
- Op. 62 No. 1 in B major
- Op. 62 No. 2 in E major
- Op. 72 No. 1 in E minor
- Op. Posth. in C-sharp minor
- Op. Posth. in C minor
18 polonaises (15 if you exclude the Polonaise-Fantaisie and the curious hybrid piece containing a section for piano solo (Andante spianato), and a section for piano and orchestra (Grande Polonaise brillante). The piano part of the second section can also be played as a solo, thus fitting into this category. The same piano part can also be played with the Andante spianato preceding it, making it as hard to classify as the Polonaise-Fantaisie and the 'Fantaisie-Impromptu'.)
- Op. 26 No. 1 in C-sharp minor
- Op. 26 No. 2 in E-flat minor
- Op. 40 No. 1 in A major
- Op. 40 No. 2 in C minor
- Op. 44 in F-sharp minor
- Op. 53 in A-flat major
- Op. 61 in A-flat major (Polonaise-Fantaisie)
- Op. 71 No. 1 in D minor
- Op. 71 No. 2 in B-flat major
- Op. 71 No. 3 in F minor
7 préludes, one of which, No. 20 in C minor, was adapted by Barry Manilow as the basis for his hit pop recording "Could it be Magic" in 1975. No. 4 in E minor was adapted as the basis for Jane Birkin's "Jane B" in 1970.
- Op. 28 No. 1 in C major (1839)
- Op. 28 No. 2 in A minor (1838)
- Op. 28 No. 3 in G major (1838-1839)
- Op. 28 No. 4 in E minor (1838)
- Op. 28 No. 5 in D major (1838-1839)
- Op. 28 No. 6 in B minor (1838-1839)
- Op. 28 No. 7 in A major (1836)
- Op. 28 No. 8 in F-sharp minor (1838-1839)
- Op. 28 No. 9 in E major (1838-1839)
- Op. 28 No. 10 in C-sharp minor (1838-1839)
- Op. 28 No. 11 in B major (1838-1839)
- Op. 28 No. 12 in G-sharp minor (1838-1839)
- Op. 28 No. 13 in F-sharp major (1838-1839)
- Op. 28 No. 14 in E-flat minor (1838-1839)
- Op. 28 No. 15 in D-flat major ("Raindrop") (1838-1839)
- Op. 28 No. 16 in B-flat minor (1838-1839)
- Op. 28 No. 17 in A-flat major (1836)
- Op. 28 No. 18 in F minor (1838-1839)
- Op. 28 No. 19 in E-flat major (1838-1839)
- Op. 28 No. 20 in C minor (1838-1839)
- Op. 28 No. 21 in B-flat major (1838-1839)
- Op. 28 No. 22 in G minor (1838-1839)
- Op. 28 No. 23 in F major (1838-1839)
- Op. 28 No. 24 in D minor (1838-1839)
- Op. 45 in C-sharp minor
- Op. Posth. in A-flat major
5 rondos
- Op. 1 Rondo in C Minor
- Op. 5 Rondo à la Mazur in F major (1826)
- Op. 14 Rondo à la Krakowiak in F major (1828)
- Op. 16 Rondo in E-flat major (1832)
- Op. 73 Rondo in C major (1828)(Posthumous)
4 scherzos
- Op. 20 No. 1 Scherzo in B minor (1831)
- Op. 31 No. 2 Scherzo in B-flat minor (1837)
- Op. 39 No. 3 Scherzo in C-sharp minor
- Op. 54 No. 4 Scherzo in E major
4 sonatas
- Op. 4 No. 1 Piano Sonata in C minor
- Op. 35 No. 2 Piano Sonata in B-flat minor
- Op. 58 No. 3 Piano Sonata in B minor
Unfinished sonata
20 waltzes (see list of waltzes by Chopin)
- Op. 34 No. 1 in A-flat major (1835)
- Op. 34 No. 2 in A minor (1831)
- Op. 34 No. 3 in F major (1838)
Piano và dàn nhạc
2 piano concertos
- Op. 11 No. 1 Concerto for Piano and Orchestra in E minor (1830)
- Op. 21 No. 2 Concerto for Piano and Orchestra in F minor (1829-1830)
4 other works — Variations on Là ci darem la mano; Krakowiak; Grande Fantaisie on Polish Airs; Andante spianato and Grande Polonaise brillante (but see above for categorization comments)
Tác phẩm cho giọng hát
20 bài hát tiếng Ba Lan cho giọng hát và piano
Tác phẩm thính phòng khác
1 piano trio for violin, cello and piano
1 cello sonata with piano
2 other works for cello and piano
Mùa thu năm 1849, trước khi trút hơi thở cuối cùng người nhạc sĩ
ấy đã khẩn cầu: Hãy mang trái tim tôi trở về với Tổ quốc! Và hãy rải lên nắp áo
quan nắm đất của đất nước Ba Lan mà tôi đã giữ gìn như bảo vật suốt 20 năm trời
xa xứ... Đó là ý nguyện cuối cùng của nhạc sĩ thiên tài Frederic Chopin - người
được thế giới biết đến là nghệ sĩ biểu diễn, nhà soạn nhạc vĩ đại cho đàn
piano.
Vì sao Tổ quốc lại trở thành nỗi niềm day dứt khôn nguôi trong trái tim người
nghệ sĩ piano lừng danh thế giới này? Một số nhạc sĩ thiên tài đã từng sống xa
Tổ quốc, như Mozart, Beethoven, Schubert... đều có chung nỗi buồn xa xứ. Song,
không một ai trong số họ, niềm vương vấn với quê mẹ lại sâu nặng như ở Chopin.
Tạm biệt quê nhà năm 20 tuổi, cho đến cuối cuộc đời, vì nhiều lý do khác nhau,
Chopin không có cơ hội một lần quay trở lại. Ngay cả thân xác ông cũng nằm lại
chốn quê người. Phải mấy chục năm sau, trái tim của người nghệ sĩ mới được yên
nghỉ vĩnh hằng nơi Tổ quốc! Trái tim đó hiện được lưu giữ tại nhà thờ Thánh
Thập Tự tại thủ đô Warsaw.
Hầu hết các thiên tài âm nhạc thế giới đều gắn bó và thành danh với cây đàn
piano - cây đàn được suy tôn là "ông vua của các loại nhạc cụ". Đầu
tiên là trình diễn đàn piano, sau đến là sáng tác các nhạc phẩm cho loại đàn
này. Riêng đối với Chopin, từ khi còn là cậu bé lên 2 tuổi, đã có thể ngồi bên
chân mẹ hàng giờ liền để nghe âm thanh thánh thót của những phím đàn dưới đôi
bàn tay người mẹ.
Người mẹ của Chopin tuy không phải là nghệ sĩ biểu diễn, song không thể không
ngồi trước cây đàn piano mỗi tối, sau khi đã làm xong mọi việc thuộc thiên chức
của người mẹ. Bà là người Ba Lan, xuất thân từ dòng dõi quý tộc, biết chơi đàn,
biết hát những bài dân ca Ba Lan, thích nhảy múa, có ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc
đời và sự nghiệp âm nhạc của Chopin.
Khi 6 tuổi, một đêm không ngủ, cậu bé Chopin đã lén vào phòng của mẹ để đụng
tay vào những phím đàn. Lên 7 tuổi, cậu bé đã có thể công bố nhạc khúc đầu tay
"Vũ khúc Ba Lan" nổi tiếng toàn thế giới. 8 tuổi Chopin đã diễn tấu
trước công chúng bản Concerto viết cho piano của Adalbart Gyrowetz và bắt đầu
viết được những bản Polonaises, Mazurka và một bản Waltzes. 15 tuổi nhạc sĩ
xuất bản điệp khúc viết cho Piano (Rondo for Piano)...
Chopin may mắn được sinh ra và lớn lên trên đất nước Ba Lan, quê hương của
nhiều thể loại âm nhạc, Opera, nhạc đường phố, nhạc trong nhà... Đâu đâu cũng
có thể thưởng thức những ca khúc Arian và Roman, các điệu Polonaises và
Waltzes. Rất nhiều người biết chơi piano, violon, anpha...
Nơi đây có nhiều điệu nhảy tưng bừng, mà mỗi khi bước lên sàn, người đàn ông
thì hùng dũng gõ vang gót giày còn các cô gái thì lướt đi uyển chuyển như gió,
như mây. Cậu bé Chopin như bị thôi miên bởi tất cả những thứ được coi là
"vàng ròng" đó. Mới 15 tuổi đầu, Chopin đã đi đến tận các ngang cùng
ngõ hẻm của các làng quê Ba Lan, để đắm mình trong các điệu dân ca, dân vũ.
Cậu bé phát hiện ra rằng, các bản Mazurka chứa đựng một nỗi buồn mêng mang
không thể diễn đạt bằng lời, nhưng lại được bộc lộ một cách giản dị trong âm
điệu của cây đàn. Âm nhạc dân gian Ba Lan, đặc biệt là âm nhạc của các loại vũ
khúc đã làm rung động tâm hồn non nớt của Chopin, là cội nguồn của những giai
điệu đẹp như thơ mà ông sáng tác sau này.
Có thể nói, trong cuộc đời lao động nghệ thuật 52 bản Mazurka do ông sáng tác
chính là tình yêu quê hương đất nước và khát vọng tự do mà nhạc sĩ đã gửi gắm.
Những nhạc khúc ấy của Chopin được công chúng Ba Lan nhìn nhận là một vốn quý
của dân tộc.
Cùng với nguồn cảm hứng bất tận là tình yêu Tổ quốc, tình yêu đôi lứa cũng đem
lại cho Chopin những cảm xúc dạt dào, đưa sự nghiệp âm nhạc của Chopin lên đỉnh
cao.
Theo một số nhà nghiên cứu tiểu sử, Chopin đã từng yêu ba người phụ nữ. Mối
tình đầu với Conxtanxia- một cô gái Ba Lan, có giọng hát hay như chim họa mi,
học chung trường khi Chopin còn ở quê nhà. Cô "đã bước vào cuộc đời anh
như người chủ bước vào căn nhà bỏ không để ở lại đó thật lâu dài, vĩnh
viễn".
Song, xung quanh Conxtanxia có rất nhiều chàng trai quý tộc săn đón, còn Chopin
thì e dè, mặc cảm, non nớt nên đã để mối tình đầu đi qua. Nhưng dư vị ngọt ngào
của mối tình đầu đã khiến trái tim Chopin đóng kín một thời gian dài.
Mùa hè năm 1835, tại Dresden, Chopin đã gặp gỡ và yêu một cô gái thứ hai cũng
người Ba Lan. Đó là Maria, một cô gái thuộc đẳng cấp thượng lưu, năm ấy 16
tuổi. Do người thân của cô hết sức bảo thủ trong quan niệm "môn đăng hộ
đối" nên dù hai người đã từng làm lễ đính hôn nhưng rốt cuộc mối tình này
cũng kết thúc.
Năm 28 tuổi, trong khi chưa chấm dứt hẳn quan hệ với Maria nhưng qua sự giới
thiệu của bạn bè, Chopin quen biết với nữ văn sĩ Aurore Dupin, còn gọi là quý
bà Dudenvant. Aurore Dupin là một người rất nổi tiếng ở Paris, hơn Chopin sáu
tuổi, có hai con với người chồng cũ. Cô là tác giả của một số cuốn tiểu thuyết
bán chạy nhất ở Paris lúc đó, lại là người có nhan sắc, có tài sản, có những
quan niệm mới mẻ về tình yêu và hạnh phúc.
Trong các tiểu thuyết của mình, Dupin cổ súy cho tư tưởng giải phóng phụ nữ
khỏi những định kiến hẹp hòi của xã hội đương thời. Sau khi ly dị, Dupin đã
từng yêu một nhà thơ nổi tiếng, song vì không chấp nhận làm "nô lệ"
cho người đó, nên cuối cùng tình cảm của họ cũng kết thúc.
Khi được giới thiệu với Chopin, dẫu nghe người ta đồn rằng anh đã làm lễ đính
hôn với Maria, song Aurore Dupin vẫn quyết tâm chinh phục bằng được người nhạc
sĩ cô hằng ngưỡng mộ. Aurore Dupin cho rằng, mối tình với Chopin là "mối
tình cao thượng, lớn lao, khó hiểu, làm lu mờ tất cả những chuyện đã qua. Và
nếu như chẳng may chết đi trước cuộc gặp gỡ với Chopin thì toàn bộ cuộc đời sẽ
chẳng có giá trị gì...".
Sau nhiều lần gặp gỡ, Chopin vẫn tỏ ra hờ hững, vì giữa hai người có quá nhiều
khác biệt, vì những lời đồn đại xung quanh phẩm hạnh và tính cách của Dupin.
Chopin cảm thấy Dupin như "con hạc đứng giữa bầy gà, khi nói chuyện thì
như mụ phù thủy Delphi trong đền thờ thần Apollo"... Nhưng dần dần, do
những nỗ lực từ phía Dupin, định kiến được xóa bỏ.
Trong một lá thư dài gửi Chopin, Aurore Dupin thẳng thắn bày tỏ tình cảm của
mình: "Tôi không muốn giành giật của bất kỳ ai một cái gì hết... Tôi muốn
trở thành một niềm vui hiếm hoi và mãnh liệt, muốn có mặt trong đời anh, dẫu
bên cạnh một phụ nữ khác, muốn làm anh tin rằng, nhiều lúc có thể phân đôi thân
mình khi không thể toàn vẹn được".
Đã có lần, Dupin phủ phục dưới chân Chopin, năn nỉ: "Nếu không từ bỏ được
Maria thì cũng đừng cự tuyệt tôi!". Cuối cùng thì Chopin đoạn tuyệt hẳn
với Maria, chuyển đến sống chung của Dupin và hai đứa con của nàng từ mùa thu
năm 1838.
Khi Chopin bị viêm phổi, Dupin theo ông đi xuống miền Nam nước Pháp để tránh
mùa đông giá rét. Suốt sáu tháng trên đảo Majorka, Dupin không khi nào rời khỏi
giường bệnh. Chopin cảm thấy rất hạnh phúc, như "không phải sống trên mặt
đất mà là đang sống trong thế giới thần tiên, có mây mù bao quanh, có mùi thơm
ngào ngạt..".
Chín năm sống trong tình yêu ngọt ngào - một quãng thời gian không quá ít ỏi
trong cuộc đời ngắn ngủi của nhà nhạc sĩ thiên tài, đã đưa Chopin lên đỉnh cao
của thành công. Ông chuyên tâm vào việc sáng tác, và hầu hết những kiệt tác:
"Khúc tự sự số 2, số 3, số 4"; "Khúc hòa tấu B giáng
minor", "Khúc ảo tưởng F minor", "Vũ khúc ảo tưởng Ba
Lan", "Vũ khúc Mazurka" kiệt xuất và một số dạ khúc khác được
sáng tác trong thời gian này.
Chopin từng cho rằng, tình yêu như một cái giếng nghệ thuật, khi đào thấy miệng
giếng, nguồn cảm hứng sẽ trào dâng.
Nhưng buồn thay, do cá tính của hai người quá khác biệt, tuy vẫn còn rất yêu,
cuối cùng Dupin chia tay với Chopin khi ông đang ốm thập tử nhất sinh. Sự ra đi
của Dupin đã lấy đi hết cảm hứng, sinh lực, khiến Chopin gần như chấm dứt sự
nghiệp sáng tác. Thế mới biết, "Nữ thần Tình yêu" luôn là chúa tể của
tất cả các thần linh mà giới nghệ sĩ hằng thờ phụng.
Chopin từng buồn bã thú nhận: "Nghệ thuật của tôi đi về đâu rồi? Lòng dạ
của tôi ở đâu? Tôi đã tiêu hao nó vào đâu rồi? Tôi gần như không còn nhớ được
tiếng hát quê hương của mình ra sao nữa!".
Cũng may mà trong chín năm sống chung với Dupin, Chopin đã kịp mang tiết tấu,
giai điệu của dân tộc Ba Lan đưa vào truyền thống âm nhạc châu Âu, sáng tạo ra
một thứ âm nhạc Ba Lan mang ý nghĩa quốc tế, đồng thời nêu lên một mẫu mực cho
âm nhạc dân tộc về sau.
Âm nhạc của Chopin, từ những nhạc khúc mở đầu, những dạ khúc, những vũ khúc
Mazurka, những vũ khúc Ba Lan, những nhạc khúc ngẫu hứng đều có nội dung vĩ
đại, sâu sắc và đẹp như một bức tranh tình yêu chan hòa ánh nắng...
Đêm 17 tháng mười năm 1848, Chopin qua đời, đôi bàn tay để trên bụng nắm chặt
chiếc cốc bạc đựng nắm đất Tổ quốc Ba Lan. Đó là chiếc cốc bạc tinh xảo do một
khán giả Ba Lan trao tặng Chopin trước khi lên đường sang Paris, với lời nhắn
nhủ: "Chopin thân yêu! Đựng trong chiếc ly này là nắm đất Ba Lan Tổ quốc
của chúng ta. Nhạc sĩ sắp đi xa, tôi thay mặt nhân dân Warsaw tặng nhạc sĩ làm
chút kỷ niệm".
Chopin đón nhận chiếc cốc, áp sát vào nơi trái tim đang đập rộn rã, nước mắt
rưng rưng: "Tổ quốc ơi! Tôi mãi mãi trung thành với người! Tôi sẽ hiến
thân cho người! Tôi sẽ mãi mãi dùng tiếng đàn để ca ngợi người!".
Để vĩnh biệt Chopin, tại Medeleine, dàn nhạc giao hưởng và đội hợp xướng của
Nhạc việc Paris đã trình tấu bản "Cầu hồn" của Wolfgang Amadeus
Mozart
Mắt nào em ném trao anh
Dao cau bổ dọc toang mành trời đêm
Môi nào rót mật ...say mềm
Mà giờ rơi rớt ... bên thềm lắt lay
hãng bay eva
book vé máy bay đi mỹ
vé máy bay hãng korean air
đặt vé máy bay đi mỹ
vé máy bay đi canada giá bao nhiêu
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Du Lich Tu Tuc
Tri Thức Du Lịch