Sự nhất thể của Thiền lạc và
thi hứng hay
tiếng hoan hỷ của tâm không - Luận về
Trong số trên 30 bài thơ mà
Trần Nhân Tông để lại, có ba bài thơ nói về cảnh chiều tà. Đó là
các bài Vũ Lâm thu vãn; Lạng châu vãn cảnh; và Thiên trường vãn
vọng. Đọc kỹ các bài này thấy chúng có những điểm chung lý thú và hợp lại,
chúng tạo nên một phần của phong cách và thế giới thẩm mỹ thơ Trần
Nhân Tông. Ba bài thơ về cảnh chiều tà này giúp ta có thể thấy được
đôi điều về thiền và thi của Trần Nhân Tông. Việc cần thiết đầu tiên là đọc
và lý giải về từng bài một. Ba bài này không rõ bài nào viết trước, bài
nào viết sau, do đó người viết tùy tiện sắp đặt thứ tự của chúng.
Bài thứ nhất
Vũ Lâm thu vãn
武林秋晚[2]
畫橋倒影蘸溪橫,
一抹斜陽水外明。
寂寂千山紅葉落,
濕雲如梦远鐘聲[3]。
一抹斜陽水外明。
寂寂千山紅葉落,
濕雲如梦远鐘聲[3]。
Phiên âm
Họa kiều đảo ảnh trạm khê
hoành,
Nhất mạt tà dương thủy
ngoại minh.
Tịch tịch thiên sơn hồng diệp
lạc,
Thấp vân như mộng viễn chung
thanh.
Dịch nghĩa
(Cầu hoa bóng ngược vắt qua
suối,
Ánh chiều tà hắt sáng trên mặt
nước.
Lá vàng rơi khắp nghìn
núi tĩnh tịch,
Mây ướt như mộng, tiếng
chuông chùa xa vẳng lại)
Tiết thu, cảnh chiều,
ánh tà dương, lá thu vàng rơi, núi non trùng điệp tịch mịch và tiếng
chuông chùa xa văng vẳng, một bức tranh rất thanh đạm, u tịnh về vùng non nước
Ninh Bình dệt bằng ngôn từ của thi ca. Cảnh núi chiều rất sống động, sinh sắc,
rất sáng, lấp lánh, đầy màu sắc và âm thanh, hình khối.
Điểm nhấn của bức tranh là
cây cầu và bóng cầu đổ ngược xuống dòng suối tạo thành một cặp hư – thực, vật –
ảnh. Không gian vô tận trải dài theo ngàn núi non tịch mịch. Màu lá thu
vàng và màu mây bạc làm nền cho tất cả.Có ánh sáng hắt xuống nước mà khúc xạ đi
xa. Những hình khối của mây nặng nước sà thấp ôm lượn lấy cảnh vật khiến
cảnh nửa chân thực nửa hư ảo. Những âm thanh duy nhất cho thấy một
cõi đời thực là tiếng chuông. Nó gần gũi mà cũng không khoát hư linh. Nó là âm
thanh của cuộc sống mà cũng không gợi gì nhiều về cuộc sống xã hội. Nó lay động
tâm nhàn bản thể và sự gọi vẫy về một miền thanh tịnh hơn là cõi đời. Từng cảnh,
từng tượng, từng sắc màu và âm thanh, thảy đều đặc tả được cái tĩnh tịch, cổ
kính, thanh u. Cái động và cái tĩnh tương sinh tương thành. Việc chọn cảnh, họa
diện và điểm nhãn rất hài hòa tạo thành bức tranh sơn thủy thật đẹp.
Không có ngôn từ nào mô tả tỷ mỷ, trực diện, nhưng có thể thấy ẩn thấp
thoáng sau những cây cổ thụ trong thu vàng là ngôi chùa cổ kính, mà ở đó tiếng
chuông chiều đã phát ra. Có một không gian thôn dã, sơn thủy, nhưng cũng là
không gian tu hành thờ phụng, không gian tâm linh được mô tả ở tầng trắc diện
nhưng lại sâu và ẩn.
Một chiều thu cụ thể ở vùng
núi non cụ thể, nhưng cũng như một thứ thu của tự nhiên không bị cá thể
hóa của bất kỳ tâm trạng nào. Một thứ thu tự nhiên vĩnh hằng.
Ta cảm nhận tiếp bài thơ thu
vãn tiếp theo
Bài thứ hai
Lạng châu vãn cảnh
諒州晚景
古寺淒涼秋靄外,
漁船蕭瑟暮鐘初。
水明山靜白鷗過,
風定雲閒紅樹疏。
漁船蕭瑟暮鐘初。
水明山靜白鷗過,
風定雲閒紅樹疏。
Cổ tự thê lương thu ái ngoại,
Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung
sơ.
Thủy minh sơn tĩnh bạch âu
quá,
Phong định vân nhàn hồng thụ
sơ.
Dịch nghĩa
(Chùa cổ vắng vẻ lạnh lẽo [4] trong khí
mây mùa thu,
Thuyền câu cô quạnh tiếng
chuông chiều vừa dóng.
Nước trong sáng, núi thanh
tĩnh, chim trắng bay qua,
Gió lặng, mây thong
dong, cây thu lá vàng thưa.)
Thêm một bức tranh thu thật
đẹp. Một bức tranh về ngôi chùa cổ hư ảo tịch mịch trong bóng thu. Cảnh
tĩnh tịch được đăng đối sắp đặt giăng ra toàn thể. Cổ tự thê lương/ ngư thuyền
tiêu sắt; sơn tĩnh/ vân nhàn…Bức tranh không dùng một điểm nhấn mạnh bằng một vật
cụ thể như nhịp cầu đổ bóng trong bài trên. Hình khối trọng tâm lớn hơn với
cả một ngôi chùa cổ chiếm phần lớn không gian. Tác giả cũng dùng phép mô tả trắc
diện, không tả cụ thể hơn về ngôi chùa, không nói tới cảnh trong chùa, tới đời
sống sư sãi, chuông mõ khói hương, kinh kệ. Người ta cảm nhận một cách toàn thể
về ngôi chùa hơn là chi tiết của nó. Cả bài thơ với cái nền hư ảo ấy, ta cảm được
theo lối trực cảm một cái tĩnh rất sâu đang diễn ra bên trong ngôi
chùa cổ này. Có cái gì đó từ bản tâm thanh tịnh kết ra thành câu chữ, họa
ra thành vật. Tác giả đã dùng những từ ngữ tạo ấn tượng Thiền rất mạnh như “minh”,
“tĩnh”, “ định” “nhàn”, (trong “thủy minh, sơn
tĩnh, phong định, vân nhàn”). Cả bốn chữ đó thực chất cũng là một chữđịnh. Có
thể coi chúng đều là những Thiền ngữ. Đọc qua những từ ấy rồi thì không còn
phân biệt được đó là đang nói về cảnh hay nói về tâm. Bài trước là sự hài
hòa giữa động và tĩnh, gần và xa, nó là cái tĩnh không khoát bàng bạc,
còn bài sau có dụng ý tả cái tĩnh sâu có tính bản thể. Hình tượng chùa cổ bản
thân nó đã gợi ra cái tĩnh. Nhiệt độ thấp vừa đủ để tạo cảm giác về
sự cô quạnh và sự thanh vắng bóng người được gợi ra bởi hai chữ “ thê
lương”. Con thuyền câu tịch vắng hoạt động của chính nó, không người,
không cá, không câu. Không có âm thanh của cuộc đời, của thế nhân. Con thuyền
là vật duy nhất gợi tới cuộc sống con người, nhưng nó không còn là chính nó
theo sự định danh, nó cũng như cỏ cây, cũng như một vật tự nhiên, hay nói
cách khác là nó đã tự nhiên hóa. Có một hoạt động, cánh chim bay qua bầu trời.
Nhưng “ âu quá” động mà cũng không động, nó chỉ nói thêm lên rằng bầu trời
rất tĩnh. Gió cũng là một loại động, nhưng nó chỉ được nhắc tới khi chủ thể cảm
thấy rằng nó đã “định”rồi, tức rất tĩnh. Còn mây trôi, nó trôi theo cách
“ nhàn trôi”. Những lá vàng còn thưa thớt trên cây, những cây vì
không còn nhiều lá nên trở thành thưa ra. Ở đây không có một chữ “lạc” (rụng)
nhưng vẫn thấy đầy đủ ý nghĩa của nó ở những lá vàng thưa còn lại. Chỉ có tiếng
chuông là thực sự động, nó động nhất trong bức tranh, nhưng lại là một loại
tiếng động đặc biệt, tiếng động này còn có thể lay dậy cả những miền tĩnh
khác sâu xa hơn từ trong tâm con người, nó hóa giải đi những vọng động khác nếu
còn đâu đó trong tâm. Nó là tác nhân đủ đề thăng bằng giữa chiều hướng
ngoại xa viễn và chiều thẳm của nội tâm. Tất cả đều tĩnh, các hình tượng động
cũng để nói rằng cái tĩnh là rất tĩnh mà thôi. Với tiếng chuông từ bên trong vọng
ra, mọi thứ cảnh tượng, ý tượng trở nên đầy đủ, nhiều tầng nhiều lớp, có cảm từ
ngoài vào, vọng từ trong ra, cao lên có cổ thụ, cao nữa có mây nhàn trôi,
chim từ từ qua, thấp dưới có con thuyền, dòng nước. Cái hư linh tĩnh tịch đạt đến
toàn thể, thấu triệt. Tất thảy toát lên một tâm nhàn thanh thản.
Cả hai bài về thu đều có những hình tượng và màu sắc âm thanh khá gần
nhau. Hình tượng và âm thanh gần với đời sống tu Thiền mà xa với cảnh đời.
Chúng đều rất sống động, nhưng lại bình đạm thanh thoát. Chủ thể và khách thể
thành một khối, nhất như và nhất như trong cái tĩnh. Cũng nói về cảnh thu vàng
có sơn có thủy, có lá cây thu và không gian hư ảo man mác, nhưng nó không
có cái buồn của người được thấu vào cảnh, cũng không có một chủ thể tình
cảm trội lên bình diện thứ nhất.
Trường thiên mạc mạc thủy du
du,
Hoàng lạc sơn hà thuộc mộ
thu.
Tiển sát hoa biên song
bạch điểu,
Nhân gian lụy bất đáo Thương
châu.
( Bao la trời rộng nước mênh
mang,
Lá vàng rụng phủ khắp non
sông vào tiết cuối thu.
Quá thèm được như đôi chim
trắng bên hoa,
Vì lụy nhân gian mà không thể
tới bến bờ ẩn dật)
Nguyễn Trãi cũng có những
bài thơ mà chất Thiền đạt tới độ tiêu biểu, nhưng với bài Vãn lập trên,
tiết thu vàng đẹp nhưng buồn. Một người đứng trên cao độ phóng tầm nhìn ra xa
vút thăm thẳm. Nỗi buồn của một hùng tâm tráng chí nhưng đường hành đạo
chẳng còn thênh thang. Con người giằng xé giữa những ràng buộc của tinh thần tự
nhiệm việc thế gian với sự vẫy gọi của miền ẩn dật. Một tiếng thở dài không thể
kìm nét ở cuối bài. Tình cảm và vóc dáng của thi nhân hiện hữu ở từng lời, từng
hình tượng.
Những bài thơ về thu vàng của
Trần Nhân Tông không có nỗi buồn chia ly, không có cái nhớ nhung của người xa xứ,
không có khách cảm bâng khuâng, không có cái nuối tiếc trước thời gian vô tình,
không chạnh buồn khi gặp màu tàn úa, lại càng không có cái vui hội ngộ, cái hồ
hởi của trở về. Nhân cảnh thanh tĩnh khế hợp ở nơi ngoại cảnh u tịch, siêu xuất
nội ngoại, trước sau.
Bài thứ ba
Thiên Trường vãn vọng
天長晚望
村後村前淡似煙,
半無半有夕陽邊。
牧童笛裡歸牛盡,
白鷺雙雙飛下田
半無半有夕陽邊。
牧童笛裡歸牛盡,
白鷺雙雙飛下田
Phiên âm
Thôn hậu thôn tiền đạm tự
yên,
Bán vô bán hữu tịch dương
biên.
Mục đồng địch lý quy ngưu tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền.
Dịch nghĩa
( Trước thôn, sau thôn mờ ảo
như khói sương,
Nửa có nửa không trong ánh
chiều tà.
Trong tiếng sáo mục đồng
trâu về hết,
Hai hàng cò trắng sà
xuống đồng.)
Hai bài thơ dẫn ở trước thể
hiện cảnh chiều thu. Thiên Trường vãn vọng không thể hiện rõ mùa của
thời gian, có thể là buổi chiều hè, nhưng cũng có thể là một chiều thu. Chiều
thu thì có vẻ thích hợp hơn với không gian bình đạm hư ảo được mô tả trong hai
câu thơ đầu. Không gian của buổi chiều được mô tả là vùng Thiên Trường ( thuộc
tỉnh Nam định), chốn đồng bằng mà không phải cảnh núi non trong tiết thu vàng.
Một không gian hư hư thực thục, hữu vô tương sinh tương thành. Nền màu chung của
bức tranh là màu vàng bình đạm mờ ảo. Nó mờ nhưng lại không hẳn là mờ, nếu
biết nhìn và biết cảm vẫn thấy rõ những cảnh thật sắc nét, thật chi tiết đến từng
điểm nhỏ được tả ở hai câu sau. Cái nhìn của tác giả có lướt có dừng, có chuyển
có đổi, cảnh chuyển theo tâm, mờ tỏ cùng dụng ý soi rọi của tâm.
Những hình tượng trong
bài có tính ước lệ và khá quen thuộc, thường thấy trong cổ thi như mục đồng thổi
sáo cưỡi trâu, cánh cò trắng, ánh chiều vàng… Cũng giống như hai bài trên, hình
bóng của cuộc sống, âm thanh của cuộc sống là tiếng sáo của trẻ trâu, có người
mà cũng tĩnh như không người. Mục đồng với tiếng sáo mà không phải gương mặt một
con người lo âu nào hết. Hình dáng của mục đồng cũng ước lệ, cũng như một thành
tố của tự nhiên. Giữa cuộc đời mà cũng như cõi ngoại, phương ngoại. Trâu
về có mục đồng mà như tự nhiên chúng về. Động tác đọng lại cuối cùng và
là điểm nhãn là những đốm trắng của cánh cò từ từ hạ xuống, nhẹ nhàng và nhẹ
nhàng đáp xuống như tự nhiên vốn thế. Cuộc sống trôi đi như nhiên, tự nhiên như
nó chính nó. Cánh cò hạ điền cũng giống như hình tượng mây
nhàn thong dong trôi trong bài viết về chùa cổ ở Lạng châu, đều tượng
cho tâm thiền tự tại, không đón không đưa, không mong không đợi nhưng vẫn đẹp,
cái đẹp hư linh không khoát.
Bài thơ thể hiện một cảnh giới
nhập thần, vong ngã vong vật, vong nội vong ngoại tất cả nhất thể, nhất thể
trong trạng thái không khoát hư tĩnh. Cảnh giới này được xác lập chính do sự
xác lập của tâm, đúng như quan niệm của Phật giáo “ Tâm sinh chủng chủng
pháp sinh, tâm diệt chủng chủng pháp diệt”, tâm không vọng động, cảnh thanh u
tĩnh tịch. Dĩ nhiên, cũng có thể cảm thấy ở đó có phần nào cái chất của đạo
tự nhiên nhi nhiên của Lão Trang, nhưng căn bản vẫn là Thiền.
Ba bài thơ trên của Trần
Nhân tông có thể xếp vào loại thơ điền viên sơn thủy, một tiểu loại thơ thường
gặp trong cổ thi Đông Á. Ở Việt Nam so với các tiểu loại thơ khác, loại điền
viên sơn thủy chiếm tỷ lệ không nhiều như Trung Quốc, nhưng cũng có số lượng và
giá trị nghệ thuật đáng kể. Loại thơ điền viên sơn thủy thường sở trường trong
việc thể hiện tinh thần u tịch, tự nhiên phóng khoáng, tự do của ẩn sĩ, cũng có
lúc nó được sáng tác để ký ngụ tâm sự, bày tỏ cảm thán…Cũng có khi nó thể hiện
cái thanh tân đạm khoát, siêu trần thoát tục của Thiền gia. Vương Duy đời Đường
là một ví dụ, một phần rất quan trọng làm nên tên tuổi của bậc “ Thi Phật” này
chính là mảng thơ điền viên sơn thủy.
Thơ điền viên sơn thủy lấy
ngôn họa, lấy tả cảnh, xây dựng hình tượng… làm hình thức tồn tại, để xác lập
thi ý. Ba bài thơ của Trần Nhân Tông trên tiêu biểu cho cách thức của thơ
điền viên sơn thủy. Cả ba bài đều đạt tới mẫu mực về ngôn hoạ. Đó là những
bức tranh trộn lẫn giữa hư và thực của màu sắc, âm thanh. Chúng đều đăng
đối, điển nhã, có điểm nhấn, có vận động, có cảm giác rất rõ về hình khối không
gian và thời gian. Cảnh có xa có gần, có thực có ảo, có nền có điểm. Có những
hình ảnh rất rõ nét cụ thể nhưng cũng có sự rộng mở mênh mông không giới hạn
về không gian và thời gian. Tất cả các hình tượng rất hài hòa, tương hỗ
làm nổi bật lẫn nhau.
Việc lựa chọn cảnh chiều tà
cũng là điều đáng chú ý. Cái màu sắc và âm thanh của chiều tà rất phù hợp với
việc đặc tả thiên nhiên, nhưng nó cũng rất thích hợp cho việc gợi tới sự
u tịch. Đó là thời gian của một ngày sắp kết thúc nhưng nắng còn đẹp, vào thu nắng
thu vàng cùng màu lá thu, sương khói của thời tiết chuyển mùa dễ tạo nên thi
ý. Về thời gian, nó cũng là khoảng thời gian thiêng, thời gian tâm linh đẩy
lên đậm nhất trong ngày. Đó là lúc dóng chuông tụng kinh buổi chiều. Giới tự
nhiên hồi quy hoàn tất vòng hoạt động một ngày. Đặc biệt là cảnh chiều thu, có
những nhịp chuyển chuyển luân luân mà người ta cảm nhận được, chuyển của ngày,
chuyển của năm, chuyển của màu, chuyển của nhiệt độ. Trong nhịp chuyển ấy, người
ta “ chụp” lấy một khoảnh khắc bằng tâm không tĩnh tịch.
Niềm hứng thú của tác giả hướng
tới những hình tượng tĩnh tịch. Những động thái cũng nhằm gợi thêm cho cái
tĩnh. Những hình tượng được cảm nhận, được mô tả là ngôi chùa, là tiếng chuông,
màu lá thu vàng, con thuyền câu, cây cầu, cổ thụ… những hình tượng có sức gợi cảm
cao thường thấy trong những bức tranh Thiền.
Ở ba bài thơ, cảnh
khác nhau, thời điểm viết cũng có khác nhau, nhưng tinh thần thì như nhất. Cái
như nhất đó là tâm thanh tĩnh tự tại của chủ thể sáng tạo.Ở cả ba bài ta đều
không thể nhận thấy sắc thái tình cảm vọng động hay thăng trầm của tinh thần chủ
thể sáng tạo. Cái tĩnh của bản tâm người thi sĩ, thiền sư trực cảm và bộc
lộ ra từng hình tượng thơ. Tâm cảnh thiền lạc an tĩnh làm nền cho tất cả các
bài thơ này.Đọc những bài thơ này và lắng tâm cùng tác giả, có thể cảm nhận thấy
tâm tĩnh vĩnh hằng, siêu trần thoát tục, …cái trong veo của tâm cảnh.
Cả ba bài đều lấy cái
không hư làm nền, làm cảnh, lấy cái tĩnh tịch làm thể, lấy sống động và thực tại
làm phương tiện, lấy Thiền ngữ Thiền tượng để gợi dẫn. Thi nhân đời Đường hay lấy
sự tu dưỡng, rèn luyện của tinh thần chủ thể làm nền tảng cho thi ý thi tình,
nhấn mạnh tầm quan trọng của tinh thần chủ thể. Những bài thơ này cũng có thể
xem là biểu hiện sinh động và cụ thể cho một khung cảnh tinh thần và diện mạo
tâm linh của Trần Nhân Tông. Đây chính là một loại Thiền lạc, nó là một
loại lạc đạo. Đó là tiếng hân hoan của loại tâm không. Nhìn
trong tổng thể các sáng tác của Trần Nhân Tông, những bài thơ này cũng là
một phần của triết lý cư trần lạc đạo.
Một thi nhân không phải
giới tu hành, cũng có thể có được một bài thơ đề vịnh điển nhã tĩnh tịch như những
bài thơ vừa nói tới của Trần Nhân Tông, bằng chứng là trong di sản thơ cổ và đặc
biệt là thơ Đường có thể gặp. Trong những trường hợp ấy, tác giả của nó, chí ít
là khi viết những bài thơ đạt tới mỹ cảnh tương tự, tâm của họ cũng phải
đạt tới sự tĩnh tại như Trần Nhân Tông đã thể hiện. Với một nhóm bài của
Trần Nhân Tông đề cập ở trên, có thể thấy một phần phong cách, nhưng trước
hết nó là hiện thực của một tinh thần thường tại. Ở ông nó là sản phẩm của quá
trình rèn luyện tâm Thiền đem lại.
Nhìn từ góc độ nghệ thuật
thi ca, ba bài thơ sơn thủy điền viên của Trần Nhân Tông cho thấy một trình độ
thi ca đã rất phát triển và thuần thục ở Việt Nam vào thế kỷ XIII. Chúng có thể
sánh với những bài thơ hay nhất, đẹp nhất trong di sản thi ca cổ điển Đông Á.
Các yếu tố Thiền tứ và thi tứ, thi tài và Thiền ngộ đã kết hợp nhuần nhuyễn, đã
cùng góp sức tạo nên giá trị của chúng.
Thơ Thiền nói chung và thơ
Trần Nhân Tông nói riêng đã từng tồn tại và góp phần tạo nên di sản thơ ca cổ
điển Việt Nam. Chúng có nét riêng, có giá trị thẩm mỹ và nhân sinh riêng. Đánh
giá và thưởng thức loại thơ này việc đầu tiên cần làm là tiếp cần từ góc
độ Thiền học kết hợp với thi học, có như vậy mới hy vọng hiểu được nó gần
với nó vốn có. Bất kỳ sự áp đặt, hay cách nhìn mang tính hiện đại, sự kỳ vọng lệch
chiều…đều có thể cản trở việc hiểu sâu, hiểu đúng về chúng.
Ghi chú: Bài viết đã
đăng tạp chí Nghiên cứu Văn học, số tháng 5 năm 2012.
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Phạm Hùng: Thơ thiền
Việt Nam – Những vấn đề lịch sử và tư tưởng nghệ thuật. NXB ĐHQG, H.1998
Nguyễn Phạm Hùng: Các khuynh
hướng văn học thời Lý Trần- NXB ĐHQG, HN. 2008.
Viện Văn học: Thơ văn Lý –
Trần. Tập I. NXB KHXH, H.1977
Viện Văn học: Thơ văn Lý –
Trần. Tập III. NXB KHXH, H.1978
Viện Văn học: Thơ văn Lý –
Trần. Tập II. Quyển thượng. NXB KHXH, H.1989
Trần Đình Sử: Mấy vấn đề thi
pháp văn học Trung đại Việt Nam, NXB GD, 1999
Bùi Duy Tân: khảo luận dòng
văn học trung đại Việt Nam. NXB ĐHQG, H.2005
Lê Mạnh Thát: Toàn tập Trần
Nhân Tông. NXB TP. HCM, 2000
Nguyễn Đăng Thục: Thiền học
Việt Nam. NXB Thuận Hóa, 1997
Nguyễn Đăng Thục: Thơ Thiền
Việt Nam. NXB Thuận Hoá, 1997
Ngô Tất Tố: Văn học đời Trần
Việt Nam. NXB Mai Lĩnh, H.1942
Phan Cẩm Thượng: Bút pháp N thuật Phật giáo. NXB MThuật, 1996
Nguyễn Duy Hinh: Yên Tử –
Vua Trần – Trúc Lâm. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 2, H.1977
Nguyễn Duy Hinh: Tìm hiểu ý
nghĩa xã hội của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần. TM.217
Ng Duy Hinh: Phật giáo với
văn học Việt Nam. TCVH, số 4, 1992.
Trần Thị Băng Thanh: Thử
phân tích hai mạch cảm hứng trong dòng văn học mang dấu ấn Phật giáo thời trung
đại. TCVH, số 4. H.1992
Trần Thị Băng Thanh: Những
nghĩ suy từ văn học trung đại- KHXH, HN 1999.
Đoàn Thị Thu Vân: Một vài nhận
xét về ngôn ngữ thơ Thiền Lý – Trần. TCVH, số 2, H.1992
Đoàn Thị Thu Vân: Quan niệm
con người trong thơ Thiền Lý – Trần. TCVH, số 3, H.1993.
[1] Đại học quốc gia Hà Nội
[2] Núi Vũ
Lâm ngày xưa, nay thuộc thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh
Bình. Nguyên chú trong Trích diễm thi tập có ghi Vũ Lâm, động
danh. (Vũ Lâm, đó là tên động).
[3] Phần
chữ Hán của 3 bài thơ mà bài viết đề cập đều theo văn bản Trích
diễm thi tập.Phần dịch nghĩa người viết dịch lại theo ý hiểu và sự cảm nhận của
mình.
[4] Hai chữ
淒涼 (thê lương) không
nên hiểu là trạng thái thê lương buồn thảm như cách hiểu về thê
lương trong tiếng Việt hiện đại. Hai chữ này vốn chỉ trạng
thái nhiệt độ lạnh lẽo.
Hà Nội, 11/11/ 2011
Nguyễn Kim Sơn [1]
Đại học quốc gia Hà Nội
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét