Nhằm tạo không khí sáng tác, phát hiện các cây bút trẻ Huế,
trong khuôn khổ Chương trình Phát triển Tài năng Trẻ, Tạp chí Sông Hương tổ
chức Cuộc thi truyện ngắn dành cho sinh viên đang theo học các trường đại học
và cao đẳng ở Huế.
Sau 1 năm phát động cuộc thi, số tác giả tham gia chưa thật
nhiều song qua lượng bản thảo đã cho thấy khát vọng dấn bước vào nghiệp văn ở
họ là khá mạnh mẽ. Bên cạnh số truyện ngắn dưới mức trung bình, một số truyện
ngắn cho thấy “sự lớn” của những tác giả đang là sinh viên đã trải nghiệm ở
giảng đường vài ba năm, thậm chí là mới chập chững làm quen với môi trường đại
học.
Nguyễn Lê Vân Khánh là tác giả có truyện đăng ở Sông Hương
trước đó. Khi cuộc thi vừa công bố, chúng tôi đã nhận được 2 truyện ngắn của
Vân Khánh. Đàn dương, vẫn là giọng văn của Vân Khánh ở truyện đăng trên
Sông Hương số 248 (10.2009), đằm, dịu như một kỷ niệm ngọt ngào được gợi lại
trong giờ khắc buồn bã. Một dạng văn bản ổn định về câu chữ. Nhưng với lối viết
truyện gần với tùy bút này, cũng chính là hạn chế của tác giả trẻ, vốn phải
tìm tòi, khám phá. Đọc truyện ngắn thứ hai Yêu xa xa một phút (SH số
252/02-2010) thì Vân Khánh đã hạn chế được điểm này. Truyện đã có “chất
truyện” với một vài chi tiết động về tâm lý người yêu trẻ.
Trong số bản thảo của Vân Khánh gửi tới, chúng tôi còn nhận
được Hoa mặt trời, một truyện ngắn hướng nội. Là giọt nước còn nguyên
trên khóe mắt; giọt nước mắt “không tin” nó sẽ rơi xuống và vỡ tan tành. Bao
giờ cũng thế, người chết luôn trút nỗi đau thương vô bờ cho người sống. Nếu trước
lúc vĩnh viễn ra đi, từ trong bóng tối, “người chết” chứng kiến được cơn đau
khắc khoải, triền miên của người sống như nhân vật “Tôi” (và cả “Ba tôi”)
trong truyện, hẳn “người chết” sẽ ở lại... Hoa mặt trời, vẫn không thiên
về kết cấu, tính cách, đối thoại. Truyện là một áng văn nhẹ nhàng, thanh
thoát, giàu chất thơ và ngọt ngào như cái dư vị sau khi nhấp một ngụm trà
ngon đậm chát. Cảm xúc đã truyền được tới người đọc khiến chúng tôi trộm
nghĩ, dường như một người thân của chính tác giả vừa đi về nơi xa lắm...
Vũ Hoài Nguyễn cũng là gương mặt từng xuấn hiện trên Sông
Hương với Kẻ khùng. Hành trình (SH số 251/01-2010) - truyện
bắt đầu bằng một giấc mơ, như là sự ám ảnh về tình yêu của người con gái với
hai tình huống, một bởi mối tình cũ, hoặc mối tình đang tồn tại trong cô song
có phần mơ hồ. Sự cố gắng thể hiện ở việc gây dựng yếu tố “lập loè” giữa tâm
trạng rối bời của nhân vật cô, và sự day dứt khi tác giả đứng ngoài quan sát,
muốn lên tiếng mà không muốn lộ mặt. Nhờ yếu tố làm mờnày, mà truyện gần
như giấu được cốt truyện có phần đơn giản, một kiểu “không có gì” ở truyện ngắn
hiện đại.
Vào quãng gần cuối Cuộc thi, Vũ Hoài Nguyễn còn gửi thêm
truyện ngắnNhật ký viết cho ngày bình thường. Về nội dung, trước hết là sự
chia sẻ những dòng nhật ký của hai người bạn với nhau (thông qua truyện ngắn
này là với mọi người). Rất nhiều “mẩu tin” đã được lượm lặt, ghi lại một cách
gọn ghẽ, đầy cảm xúc. Ví như: “Sáng nay, ra đường thấy mọi người kháo nhau
chuyện một cụ già ngồi giữa ngã sáu đường phố ôm tấm biển “xin - được - chết”,
mình hòa theo dòng người như nước xuôi dòng tìm đến chỗ có cụ già”. Tính hiếu
kỳ đã khiến người người kéo đến “ngắm nghía” (trong lúc lẽ ra nên đến bên vỗ
về hỏi han, giúp đỡ). Khó hiểu, lấy làm lạ, đám người đành đi hỏi nguyên do từ
“Em bé biết tuốt có thân hình của một đứa trẻ lên năm nhưng khuôn mặt của
người già bảy mươi tuổi”... Truyện có vẻ hút được người đọc như một hướng dẫn
viên dẫn đoàn khách du lịch tới chỗ quá quen thuộc, quá gần gũi song là lần đầu
tiên khám phá. Trên đoạn đường ấy họ bị kích thích bởi những “chuyện vặt”, và
lúc gặp được Em bé biết tuốt họ đã chuyển hóa thành sự thắc mắc mà
đúng ra họ hoàn toàn có thể giải đáp được nếu còn (biết) “tin vào tình người
trên thế gian”.
Lê Minh Phong xuất hiện thuyết phục với một loạt truyện ngắn
dạng mi ni Trung Quốc, thậm chí ảnh hưởng “nặng” khi tác giả viết luôn hai
truyện có hai nhân vật “mi” và “ta” với lối kể giống y Linh Sơn của Cao Hành
Kiện. Những truyện khác đều thể hiện chút xuất thần trong bố cục, sâu ở cốt
truyện và ngỡ ngàng ở phần kết. Điều đó cũng mang hơi hướng của một dạng truyện
ngắn hiện đại tây âu, mà đôi lúc người biên tập phải nhăn trán trộm nghĩ: hay
đây là truyện dịch. Chúng tôi muốn nói tới truyện Tiếng khóc ở phía
hoàng hôn. Một truyện ngắn hội đủ yếu tố về cốt truyện khá sâu, nhân bản, bố
cục chặt, lời văn sáng, cái bi lẫn trong cái hài như một phi lý của nghệ thuật.
Truyện dài hơn dạng mi ni chút ít, song khi muốn trích dẫn, tôi chỉ muốn
trích luôn cả truyện, nghĩa là tôi muốn độc giả đọc nguyên vẹn, nghiêm túc
truyện ngắn này để cảm nhận những sắc độ mà tác giả đã gửi gắm. Truyện chỉ có
ba nhân vật. Ông lão, mụ vợ và con chó, trong đó con chó dường như chấm sáng
vô tình đã xuất sắc trong vai diễn của mình là một nhân vật lặng lẽ làm sợi
dây kết nối nghĩa tình giữa hai con người đang bước dần về bên kia thế giới.
“Cái tường lão xây giờ đã quá đầu gối của lão. Mỗi ngày lão
xây một hàng gạch, rồi cái căn nhà này sẽ chia làm hai, những lời chua chát của
mụ sẽ không còn vang lên trong óc lão nữa (...) Con chó lại nhảy qua bức tường
mà lão đang xây dở. Nó đã làm rơi xuống một viên gạch. Đến bên cạnh lão và liếm
vào lòng bàn tay của lão, đó chính là những lời an ủi nó dành cho lão. Lão hỏi
nó mày từ bên mụ sang phải không (...) “Có phải mụ đang cầu kinh cho những lời
sám hối của ta không?”. Lão bảo nó hãy sang nói với mụ là lão chưa hề sẵn
sàng cho cái chết, cái chết sẽ dành cho những kẻ vô lương tâm như mụ, cái chết
sẽ đến tìm mụ trước lão.
(...) Con chó lại nhảy qua bức tường sang bên lão. Lần này
nó làm đổ của lão hai viên gạch (...) Có phải mụ bảo rằng ta đã làm héo úa
cái bộ ngực của mụ không, chính ta đã làm cho nó khô quắt, ta đã vắt kiệt đến
giọt sữa cuối cùng của mụ (...) Hãy về với mụ và bảo rằng ta nguyền rủa vào sự
trinh trắng mà mụ đã giữ gìn hơn tám mươi năm qua, đấy, hãy quay về và nói với
mụ như thế.
Cuối cùng thì bức tường của lão đã xong. Đến bây giờ thì
lão không thể đứng nổi nữa...”.
Hình ảnh con chó cứ phóc qua bức tường lão già xây lên để
ngăn cách với mụ già, mỗi lần như thế ít nhất nó làm rơi một viên gạch của
lão, lão bực, thậm chí có lần đã dùng nửa viên gạch dứ vào đầu nó, nhưng nỗi
ân hận trào lên mắt chó khiến lão run tay; với lại mỗi lần nó qua (làm rơi gạch)
là mỗi lần nó mang cho lão một thông điệp mà lão đã cố đoán...
Tác giả cũng đã rất khôn khéo đứng ngoài với những câu bình
luận không hề thừa, kiểu như: “Chúng ta thì biết chắc chắn rằng con chó chẳng
hiểu gì cả, nhưng lão cứ đinh ninh là nó hiểu, nó hiểu vấn đề hơn cả chúng
ta...”; “Cho đến bây giờ thì chúng ta đã thấy rằng bức tường mà lão xây đã đến
ngang đầu của lão”; “Và chúng ta cũng cần phải biết rằng khi lão đặt viên gạch
đầu tiên để xây bức tường của lão thì cũng chính là lúc...”.
Ngay từ đầu Cuộc thi chúng tôi đã nhận được một chùm truyện
mi ni của Lê Minh Phong song chưa ra truyện. Rất yếu. Sau đó khoảng nửa tháng
thì serie 5 truyện gửi tới, (và sau đó thêm mấy chùm nữa), đa phần đều tốt.
Mà cái tốt nhất theo chúng tôi là Tiếng khóc ở phía hoàng hôn đã dẫn
ở trên; tốt hơn cả 2 truyện ngắn mà tuần báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt
Nam đăng ở số 25 (19 - 6 - 2010). Truyện ngắn của Lê Minh Phong được đăng tải
trang trọng đầu tiên là ở Sông Hương, cũng xem như Sông Hương là nơi phát hiện
và động viên (một cách thầm lặng) tác giả này.
Vũ Trường Giang là một sinh viên năm cuối. Năm 2008 Sông
Hương đã giới thiệu truyện ngắn viết cho thiếu nhi vào tháng 6 nhân ngày Quốc
tế thiếu nhi. Truyện có tên Những anh hùng ở khu vườn nhỏ, khá dài nhưng
Sông Hương đã chịu khó giới thiệu với lời dẫn: “Thật hiếm khi Tòa soạn nhận
được một truyện ngắn miêu tả hết sức sinh động và kỳ thú về cuộc sinh tồn của
những con vật gần gũi nhất với chúng ta hằng ngày: một gia đình Gà tội nghiệp
mất con, chú Mực dũng cảm, mèo Milô lanh lợi và cá tính, lũ rắn độc địa... Tất
cả nhân vật đó được tác giả trẻ Trường Giang “gom lại” trong khu vườn nhỏ yêu
thương nhưng đầy hiểm họa”.
Dẫu vậy, Vũ Trường Giang đã rất dè dặt khi đến với cuộc thi
dành riêng cho sinh viên này, và đến khá muộn. Lúc Cuộc thi đã đi hai phần ba
chặng đường Toà soạn mới nhận được tác phẩm với cái tên khá gợi:Giọt úa đại
ngàn. Trước hết, đây là một văn bản chỉnh chu về lối thể hiện, phong cách, giọng
văn, cho thấy cây bút đã có bước trưởng thành, hay nói đúng hơn là rất người
lớn. Truyện mang hơi thở huyền thoại, trên nền của sự dung dị và cắc cớ vốn
dĩ trong tình yêu. Với kiến thức lịch sử văn hoá khá phong phú, Giang đã tìm
cách xoá mờ những vệt tích quá khứ, sử dụng vừa phải một số quan điểm, tập tục,
lối sống bộ tộc, cũng như không gian núi rừng hoang dã để dựng nên một câu
chuyện không hoàn toàn mới song đủ mức độ thuyết phục người đọc. Ban tổ chức
và dư luận đánh giá cao Giọt úa đại ngàn, xem như một sự bổ sung kịp thời
cho văn xuôi trẻ Huế. Bên lề Cuộc thi này, Văn nghệ Quân đội đã in truyện ngắn
hay hơn nhiều là Ngủ giữa trùng sơn của Giang và sau đó mời tác giả
tham dự Trại viết do Tạp chí tổ chức.
Du, Sa, Miên... của Phương Đơn.
“Du biết Sa đi thật rồi, nhưng không hiểu sao Du vẫn cứ bị
ám ảnh bởi bóng Sa”... Cứ thế Du như người bước mò mẫm trong mộng du, đi
trong một thiên đường dẫu mù mịt. Những kí ức vụn nát về Sa được chắp nối rồi
lại vỡ ra tan tác. Thế rồi trong khu rừng vắng, “tiếng tác thật to xé toang
màn sương mờ đục dưới trăng, kéo Du về thực tại. Trước mặt Du không phải Sa,
mà là...” Miên - người con gái sinh ra “trong một buổi sớm mùa đông, sương muối
giăng đặc mạng nhện trên những cành cây thành những chấm mờ đục khắp thung
lũng”. Người con gái là Miên ấy đang chạy trốn cuộc tình dối trá, cũng trong
tâm trạng hỗn loạn và sợ hãi về những gì nếm trải. Dưới ngọn đèn dầu leo lét
trong ngôi nhà lá, Miên đã kể lại phần đời ê chề của mình với Du...
Nói chung, hạn chế của truyện là chưa có những chi tiết thật
mới, những chi tiết có thể tạo nên cốt truyện. Chính thế, truyện rơi vào tản
mát, như một dòng tự sự bồng bềnh, nhẹ nhàng. Điều đáng ghi nhận là ở nửa phần
đầu, tác giả đã tạo một không gian khá huyền ảo thể hiện nỗi buồn xa vắng người
tình đang dày vò tâm thể Du. Đây, thật tiếc, cũng chính là hạn chế. Dẫu biết
tác giả đã có ý lặp lại một số mĩ từ như thủ pháp song đọc một truyện ngắn chỉ
dăm ba trang mà sự lặp lại “kha khá”. Xin dẫn ra một ít: “Du lại lặng lẽ ra
đây, giữa đêm, như một thói quen vô thức, để chìm vào những nhợt nhạt của
trăng, những ướt đẫm của sương”; “Du vẫn cứ bị ám ảnh bởi bóng Sa, giữa một
đêm trăng nhợt nhạt như thế này, ướt rượt như một dự cảm không lành về tương
lai”; “Cũng có lúc Du sợ, nhưng nỗi sợ đó cũng mơ hồ, nhợt nhạt như bóng
Sa”...
Nội ơi! của Đỗ Thị Thắm là câu chuyện hết sức chân thật.
Motif không mới. Đứa con trai ra phố lập gia đình, lâu lâu mới về thăm mẹ sống
một mình ở nông thôn, có vườn tược, xóm làng. Một ngày tháng 5, anh gọi bé Nhật
Thiên dậy sớm và cùng vợ về thăm nội. Đứa trẻ không vui song khi tiếp nhận cảnh
quê thanh bình yên ắng thì vui lên. Bà cháu vui vầy. Nhưng, với một đứa trẻ mới
lên mười, sống thành phố quen và hơn nữa từ nhỏ bố mẹ chỉ dành tình cảm cho
mình mà không ai khác. Nay thấy ba thương bà nhiều hơn nên buồn... Buổi sáng
đầu tiên thức dậy ở quê đứa trẻ lại “thắc mắc tại sao ăn sáng ở quê lại là
món khoai lang, trên thành phố thì ngược lại...”.
“Ba nhìn thấy tôi nhăn mặt liền lên tiếng: “Được ăn khoan
là sướng đấy con ạ!” Bà móm mém chửi yêu ba: “Cha anh, nghèo thì phải ăn
khoai thôi con ạ!”
Cuối cùng thì bà nội cũng chiều lòng lên phố sống cùng con
cháu. “Bà lên ở với gia đình tôi. Tôi không hiểu vì sao từ lúc bà lên ở, tôi
lại không thích chơi với bà nữa. Chắc vì trẻ con thích vui chơi, đi đây đó mà
bà tôi thì đâu biết gì trên thành phố đâu mà dẫn tôi đi. Tôi ít gần bà. Trong
đầu tôi lúc ấy chợt nghĩ ra trò rất quỷ quái...”
Truyện đã ký họa được khung cảnh làng quên dân dã, tình xóm
giềng và lời ăn tiếng nói đậm đà, chân phác, sâu lắng tình người. Ba mẹ trong
truyện vô tình đã không để ý đến những “trắc ẩn” của một đứa trẻ lên mười.
Truyện là bài học về phương cách giáo dục con cái; bài học về sự xa cách tình
cảm bà - cháu, chưa thật sự được gắn kết tình máu mủ. Trong quan hệ gia đình,
đối với trẻ con, ông bà vẫn luôn là những người có ảnh hưởng lớn không thua
kém cha mẹ. Sự không được gần gũi bà nội đã khiến bé Nhật Thiên khi chung sống
với bà thì nảy sinh những ý nghĩ “quỷ quái”, ngây thơ đến... độc ác.
Nút thắt của truyện là ở hành động thiếu giáo dục của bé Nhật
Thiên. Đó không phải là trường hợp hi hữu, song hạn chế chính là ở chỗ, Nhật
Thiên trong truyện vẫn còn mang chút tính cách người lớn biết suy nghĩ, chưa
thật ngây thơ, hồn nhiên. Vì thế, lỗi chưa hẳn quy hết cho ba mẹ bé Nhật
Thiên; mà tác giả Đỗ Thị Thắm cần có cái nhìn nhân văn hơn khi chủ đích muốn
nêu ra trong truyện là giáo dục.
Truyện ngắn mà chúng tôi đã “nhúng tay” vào là Hoàng
hôn nơi ngã rẽ. Truyện kể về mối tình có từ hồi phổ thông cho tới khi cả hai
vào đại học. Một tai nạt đã cướp đi Lâm (và thai nhi trong bụng Mai - đây là
chi tiết ngầm). Rồi Mai ra trường, về làng dạy học, lo phận sự gia đình. “Lâm
chết đi cũng đã mang theo hết cái xúc cảm yêu thương của cô rồi... Chẳng ai
hiểu được vì sao Mai chọn Khâm, một gã thợ đụng khỏe mạnh song hơi thô kệch”.
Điểm nhấn: Mai không thấy có thai với chồng. Trong khi lại có ẩn tình với một
đồng nghiệp cùng trường. “Trái tim Mai bùng dậy niềm yêu. Cô hình dung Lâm
đang trở về đặt tay lên lồng ngực. Trái tim héo úa nay lại biết thổn thức”. Sẽ
là mầm mống khổ đau khi Khâm hối hận vì đã trách nhầm vợ, mà Mai thì chưa hề
có ý nghĩ chia tay chồng, nói chi đến bao nhiêu luân thường đạo lý vây quanh
Mai. Và nếu ai đó soi lại chặng đời của Mai, thì lại thấy dường như một bi bi
kịch mới đang được sắp đặt.
Hoàng hôn nơi ngã rẽ được Diệu Hằng gửi tới và không đề
dự thi. Chúng tôi đã chờ những truyện mới từ tác giả, song không thấy (có thể
Diệu Hằng không biết đến cuộc thi này). Do vậy chúng tôi đã mạnh dạn biên tập,
để in Sông Hương số tháng 6 (2010) như một niềm khích lệ.
Một điểm chung đáng lưu ý nhất, là các tác giả dự thi đã
không nhìn Cuộc thi này ở phạm vi hẹp. Qua các tác phẩm gửi đến,
cho thấy họ đã cố vươn lên, cố bắt nhịp với mặt bằng truyện ngắn. Đấy là điều
đáng ghi nhận nhất ở Cuộc thi này. Về phía Sông Hương, ngoài việc chọn ra
“chiếc đũa cao nhất trong bó đũa”, chúng tôi chú trọng nhiều đến tác giả, muốn
biết (hoặc đoán định) bước chân của mỗi tác giả trên con đường văn chương
thăm thẳm phía trước. Trên tinh thần đó, Cuộc thi này đã rất thành công.
|
Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2015
Mạch văn đã được khơi nguồn
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch
Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
Trả lờiXóađặt vé eva airline
mua vé máy bay đi mỹ giá rẻ
hãng hàng không korean air vietnam
mua vé máy bay đi mỹ hãng nào rẻ
vé máy bay đi canada giá bao nhiêu
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngau Hung Du Lich
Kien Thuc Du Lich