Thứ Bảy, 27 tháng 6, 2015

Tình trong dòng thơ tiền chiến

Làm thi sĩ nghĩa là ru với gió,
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây,
Để linh hồn ràng buộc bởi muôn dây,
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến.

(Cảm Xúc- Xuân Diệu)
Tiền chiến là thời kỳ đánh dấu bằng những sự thay đổi lớn trong văn học Việt Nam. Từ bao đời, thi ca Việt Nam chịu ảnh hưởng của nền văn học Nho giáo và sự ràng buộc khắt khe của chế độ phong kiến. Nói đến thơ Việt, người ta chỉ nghĩ ngay đến thể thơ Đường Luật thất ngôn bát cú mà từ giới thượng lưu quan quyền, vua chúa đến các bậc nho sĩ đều chuyên dùng. Học sinh đến trường phải thuộc Tứ Thư Ngũ Kinh, Tam Tự Kinh, được giáo dục Thi, Thư, Lễ, Nhạc và chịu gò bó tư tưởng, đạo đức, tinh thần, cảm xúc của mình trong một khuôn khổ nhất định theo triết lý Khổng- Mạnh: Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức…
Đầu thế kỷ 20, sự có mặt của người Pháp ở Việt Nam cùng với chủ nghĩa tư bản và văn hóa phương Tây đã gây ra những xáo trộn lớn trong xã hội. Giới thượng lưu Việt Nam hình thành một giai cấp mới, gọi là tư sản với lối sinh hoạt thành thị mới theo văn minh Phương Tây. Giới trí thức trẻ được đi học trường Tây, được học chữ Pháp, được tiếp thu nền văn hóa lãng mạn Pháp và nhanh chóng nhận thấy sự gò bó khắt khe của vần luật, niêm luật và đối ngẫu trong thơ Đường Luật đã hạn chế tiếng nói tự nhiên của con tim: “Cái nghề thơ Đường luật khó đến như thế, khó cho đến đỗi kẻ muốn làm thơ, mỗi khi có nhiều tư tưởng mới lạ muốn phát ra lời, song vì khó tìm chữ đối, khó chọn vần gieo, nên ý tưởng dầu hay cũng đành bỏ bớt. Cái phạm vi của thơ Đường luật thật là hẹp hòi, cái qui củ của thơ Đường luật thật là tẩn mẩn. Ta nếu còn ưa chuộng mà theo lối thơ này mãi, thì nghề thơ văn của ta chắc không có bao giờ mong phát đạt được vậy… " (Trịnh Đình Rư- Phụ Nữ Tân Văn 1929). Thanh niên thời bấy giờ, không còn như giới hũ nho, chỉ biết hễ mở miệng là xổ Nho hay đặt bút xuống là kê Nho, mà bắt đầu yêu chuộng những vần điệu nhẹ nhàng phát xuất từ cảm xúc sâu xa của tâm hồn trước cái đẹp của vạn vật, cuộc đời, sự sống, con người và tình yêu. Và thơ Mới lúc ấy đã ra đời, chấm dứt một thuở vàng son thịnh trị của thơ Đường.
Ta gặp Nàng trên một vì sao nhỏ
Ta hôn Nàng trong bóng núi mây cao
Ta ôm Nàng trong những nguồn trăng đổ
Ta ghì Nàng trong những suối trăng sao
(Ngủ trong sao- Chế Lan Viên)
Từ khi tôi mới bước vào lứa tuổi ô mai, biết mơ mộng, biết làm thơ thì dòng thơ tiền chiến đã luôn lôi cuốn và thu hút tôi cho đến bây giờ. Với tôi, thơ tiền chiến là thơ của một thời thanh bình, lãng mạn, thơ của tình yêu, của mộng mơ, mà từng lời thơ đều gọt giũa trau chuốt đẹp đẽ. Có lẽ vì ảnh hưởng bởi dòng thơ lãng mạn của Rimbaud, Beaudelaire, Verlaine, cho nên các nhà thơ tiêu biểu cho thời kỳ này như Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh …đã làm nên cuộc cách mạng lớn trong thi ca Việt Nam.
Tay anh em hãy tựa đầu
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi
(Ngậm ngùi- Huy Cận)
Tình yêu muôn đời là nguồn cảm hứng không bến bờ của mỗi người trong chúng ta. Tôi còn nhớ, ngày ấy, cũng như bao nữ sinh đồng trang lứa, tôi thường tìm tòi sao chép vào những cuốn vở có ép hoa ép bướm, nắn nót bằng mực tím những dòng thơ tình tiền chiến.
Em đi rồi then khóa cả chiêm bao
Gầy vóc mộng gói tròn manh áo nhớ
(Đinh Hùng)
Tôi thấy, trong phong trào thơ Mới, tư tưởng tự do lãng mạn thiệt phóng khoáng và huyền diệu vô cùng. Thế giới nội tâm được diễn đạt qua những vần điệu chuyên chở đầy cảm xúc, nói lên đời sống tình cảm, yêu và hận, cô đơn và u sầu, xa cách và nổi loạn…
Để chăn gối im nằm chỗ cũ
Hãy lịm người trong thú đau thương
Giờ đây ta đốt nén hương
Trên tay ta buộc giải tang cho tình
(Thú đau thương- Lưu Trọng Lư)
Chữ tình trong cõi thơ đã không còn biên giới. Có tình yêu nồng nàn mãnh liệt của tuổi đôi mươi, có tình mộc mạc thơ ngây của tuổi học trò, có tình não nề thê thiết của ly biệt, có thứ tình đằm thắm dịu dàng của vạn vật thiên nhiên…
Hôm nay có một nửa trăng thôi
Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi
Ta nhớ mình xa thương đứt ruột
Gió làm nên tội buổi chia phôi
(Hàn Mạc Tử)
Trong số các nhà thơ vang bóng thời bấy giờ, tôi yêu thích nhất là thơ Xuân Diệu rồi đến Nguyễn Bính và Hoàng Cầm. Người ta ví Xuân Diệu như “vua” của thơ tình hiện đại, quả không sai. Trong dòng thơ của ông, tôi có thể cảm nhận được ngọn lửa rạo rực, thiết tha, nồng cháy, niềm say mê yêu đời, yêu cuộc sống, khao khát yêu thương và giao cảm với đời. Tình yêu được ông dùng bút phát họa nên một bức tranh muôn màu, có sắc, có hương và âm quyện vào nhau một cách hài hòa mỹ miều. Bài thơ mà tôi thấy rung động nhất là bài “ Nguyệt Cầm”:
Trăng nhập vào đây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân
Đối với tôi bài thơ này diễn tả mức độ cao nhất của cảm xúc con người. Xuân Diệu trong một đêm thu trăng sáng lạnh lùng, đã nghe vang vọng tiếng đàn sầu não. Cái hay sâu sắc trong bài thơ này, là nhà thơ đã nhìn thấy sự tương giao hài hòa giữa thiên nhiên, màu sắc, âm thanh và cảm xúc… Trăng và đàn hình như bỗng có linh hồn quyện chặt vào nhau. Trăng phổ nhạc cho đàn, để tiếng đàn ai oán xoáy vào trong cõi lòng lạnh giá làm bừng nở từng đóa hoa thơ
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận: 
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người...
Bốn bề ánh nhạc, biển pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.
Trong thơ Xuân Diệu, chữ tình khoác một chiếc áo muôn màu muôn vẻ. Vườn hoa thơ của Xuân Diệu trồng một cây tình yêu luôn mãi xinh tươi và ngát hương. Cây tình yêu của ông được vun trồng, chăm bón bằng cái tình nảy sinh từ yêu thiên nhiên vạn vật,
Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên.
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền.
(Thơ Duyên- Xuân Diệu)
từ tâm hồn thiết tha yêu cuộc sống
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm của tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước và cây và cỏ rạng
Cho chếch choáng mùi thơm cho đã đấy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!
(Vội vàng- Xuân Diệu)
từ cuộc đời thật, giữa tình yêu đôi lứa cuồng nhiệt khát khao,
Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực!
Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài!
Những cánh tay! Hãy quấn riết đôi vai!
Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt!
(Xa Cách - Xuân Diệu)
giữa tình yêu vợ chồng thương yêu trìu mến
Nằm đêm anh cứ thương em
Rơi nghiêng nước mắt một đêm gối nằm
Thế này cho hết trăm năm
Đến muôn năm vẫn âm thầm thương em.
(Nằm đêm anh cứ thương em- Xuân Diệu)
từ những nỗi đau âm ỉ
Rễ ăn huyết lệ từ sâu
Màu hoa mới được bền lâu thế này.
Lệ thường yêu dấu xưa nay.
Gai đâm rách toạc tim này - chớ than!
(Trăm ba mươi đóa- Xuân Diệu)
yêu người đến tương tư, vì khi chỉ có yêu thực sự con người mới cảm nhận hết thế nào là nỗi nhớ tương tư khắc khoải đến một người 
Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh.
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!
(Tương tư chiều- Xuân Diệu)
Nhà thơ Nguyễn Bính cũng tương tư khi yêu. Nhưng nỗi tương tư của Nguyễn Bính thì dịu dàng như hương đồng gió nội, mộc mạc đơn sơ như mối tình chân quê, ngọt ngào như câu ca dao ru hời của Mẹ…
Ví chăng nhớ có như tơ nhỉ
Em thử quay xem được mấy vòng
Ví chăng nhớ có như vừng nhỉ
Em thử lào xem được mấy thưng!
(Nhớ- Nguyễn Bính)
Tôi yêu thích thơ Nguyễn Bính vì thơ ông mang nét đẹp duyên dáng, đáng yêu của thôn làng Việt Nam. Thơ Nguyễn Bính gắn bó và thu hút những tinh hoa vàng ngọc của ca dao…
Những dòng lục bát của ông như chiếc thuyền bềng bồng trên sóng nước, chở nặng chữ tình, và thuần cảm xúc. Thơ ông biểu hiện cảnh quê, thắm được tình quê, hồn quê nước Việt với một sắc thái lãng mạn. Qua thơ của Nguyễn Bính, tôi tìm lại những hình ảnh bình dị quen thuộc của làng quê Việt Nam với những hàng cau, giàn trầu, rặng mùng tơi, thôn Đoài, thôn Đông, mái nhà tranh, giàn trúc thưa…
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
(Tương tư- Nguyễn Bính)
những mối tình chân quê nam nữ hồn nhiên, chất phác, yêu đời;
Van em em hãy giữ nguyên quê mùa
Như hôm em đi lễ chùa
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh!
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều
(Chân Quê- Nguyễn Bính)
những chuyện tình buồn trắc trở, chua xót, phải 'lỡ bước sang ngang'.
Ai đem rắc bướm lên hoa
Rắc bèo xuống giếng, rắc ta vào nàng?
Ai đem nhuộm lá cho vàng?
Nhuộm đời cho bạc, cho nàng phụ ta?
(Rắc bướm lên hoa- Nguyễn Bính)
Tôi còn nhớ khi tôi vừa vào độ tuổi trăng rằm, bài thơ đầu tiên của Nguyễn Bính mà tôi biết đến là bài thơ “Bảy Chữ”…Bài thơ này tôi đã nắn nót chép vào trang lưu bút thời trung học. Nét độc đáo ở đây gói trọn trong bảy chữ “Vạn lý tương tư, vũ trụ tình” … Còn nỗi nhớ thương nào dài hơn ngoài vạn dặm và còn cái tình nào bao la bát ngát sâu rộng hơn vũ trụ …Thật tuyệt! Có lẽ vì thế mà các nam sinh trong trường tôi trong những năm cuối trung học thường hay viết tặng người yêu, bảy chữ này như một hiến chương tình yêu, một lời tỏ tình đậm đà nhất…để khi người yêu
Đọc xong bảy chữ thì thương lắm
“Vạn lý tương tư, vũ trụ tình”
(Bảy Chữ- Nguyễn Bính)
Thơ của nhà thơ Hoàng Cầm đến với tôi muộn màng nhưng những vần thơ của ông đã để lại trong tôi nhiều ấn tượng sâu sắc…Có lẽ vì qua thơ ông tôi tìm lại được hình dáng mỹ miều lãng mạn của quê Nột trong tôi. Thơ ông mượt mà, quyến rũ, mang nhiều thi tính, giàu nhạc điệu, rất tình tứ …có lẽ vì ông biết kết đọng đến tinh túy nền văn hóa quan họ của người dân Kinh Bắc, ngay cả nghệ thuật ông dùng bút để phát họa cái đẹp lãng mạn đa tình của người con gái Bắc Ninh cũng thật tài …
Chân em dài đi không biết mỏi
Má hồng em lại nổi
đồng mùa nước lụt mênh mông
Lưng thon thon cắm sào em đợi
Đào giếng sâu rồi
đừng lấp vội đầu xanh
Lúng liếng ơi chớ động mành thưa
Chìa vôi quệt gió hững hờ
Bờ ao sáo tắm bao giờ hở em.
(Theo đuổi- Hoàng Cầm)
Trong thơ ông đậm nỗi khát khao yêu đời … Ngọn lửa tình trong ông lúc nào cũng rực cháy nóng bỏng nun đúc thành những dòng thơ da diết. Nhà thơ Hoầng Cầm biết yêu khi mới lên tám, suốt cả mấy mươi năm quá trình sáng tác của ông, có nhiều bóng hồng đã là nguồn cảm xúc thiết tha của ông…Tôi yêu thích bài thơ “ Lá Diêu Bông” của ông, vì bài thơ này nói lên mối tình si đầu tiên của ông dành cho một người con gái lớn hơn ông 7 tuổi. Một mối tình trong sáng, nhẹ nhàng, cho dù kết cuộc mang một nỗi buồn man mác thương đau…
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ
Chị bảo
Đứa nào tìm được Lá Diêu bông
Từ nay ta gọi là chồng …
…Từ thuở ấy
Em cầm chiếc Lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu bông hời...
...ới Diêu bông...!
Trong thơ Hoàng Cầm có nhiều khi tôi cảm nhận nét si mê hưng phấn trong ái tình của ông. Ông lồng nhục cảm trong những vần thơ đầy hương sắc và thi vị, đẹp trau chuốt đến quyến rũ lạ thường…
Ngũ sắc chen nhau cầu lễ hội
Nuột nà cởi bỏ áo hoa khôi
Em không buộc thắt lưng thon nữa
Thả búp tròn căng nuột ấy... ơi !...
…Hương ngát em lồng kín cõi anh
Yếm đào trút lại phía vô linh
Đung đưa gác lửng nghênh xuân ấy
Đôi núm hồng em nở hết mình
(Hội yếm bay- Hoàng Cầm)
Dòng giống Tiên Rồng, bốn ngàn năm văn hiến là một giống nòi tình cho nên mỗi người dân Việt thường yêu chuộng những dòng thơ nghiêng về cảm xúc và nặng chữ tình. Cũng có lẽ vì thế mà dòng tình tiền chiến đã nở những đóa hoa thơ ngát hương rực rỡ muôn màu muôn sắc mà qua bao nhiêu thập niên hương sắc vẫn không phai tàn trong văn học nghệ thuật Việt Nam.
Em ơi lửa tắt bình khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai

(Vũ Hoàng Chương)
Bích Phượng



1 nhận xét:

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...