…Hồi ấy, tôi còn là học sinh cấp II Thụy Khuê, thường lượn ra hiệu sách Nhân
dân để ngắm những bìa thơ trang nhã của các tên tuổi mới ấy, trong đó có tập
thơ Tia nắng của Vân Long (NXB Văn Học, 1962, do Văn Cao trình bầy
bìa) được bầy bên cạnh những Tố Hữu, Hoàng Trung Thông, Trần Hữu Thung…là những
vị đã hiện diện trong sách giáo khoa, lòng dậy lên những khao khát mơ hồ. Tôi
đâu đã biết những cay đắng, thậm chí là hiểm nguy
của nghề cầm bút! Độ ấy, văn đàn miền Bắc đang trải qua một cuộc đấu
tranh tư tưởng quyết liệt, nhiều kiện tướng của Thơ kháng chiến chống Pháp gặp
phải tai nạn nghề nghiệp, ngậm ngùi thu mình, khép hồn mình lại.
Nhưng
cuộc sống không thể một ngày không có thi ca! Thế là một lớp người
làm thơ mới, trong đó có Vân Long, hăng hái vào cuộc, vừa làm nền, vừa bổ
sung cho những “ông khổng lồ” thi ca đang vào mùa chín mới: Tố Hữu,
Chế Lan Viên, Huy Cận, Xuân Diệu, Tế Hanh…
Với
thế hệ bổ sung này, xã hội dường như đã “ra đề hạn vận” cho họ và
điều quan trọng là chính họ tự nguyện gắn bó với những đòi hỏi của cuộc sống
mới, của quần chúng lao động đang say sưa với sự đổi đời. Hai câu đề từ của
Nguyễn Bao có thể coi là “tuyên ngôn” của lớp nhà thơ này:
Lý
tưởng và Tình yêu
Đã
chắp thành đôi cánh
Đôi
cánh ấy đã cho Bùi Minh Quốc Lên miềnTây, Thái Giang có Lửa
sáng rừng, Lưu Trùng Dương có Vinh quang thay thế hệ Hồ Chí Minh…Vân
Long không may mắn (hay là may mắn) được nổi tiếng, đưa vào sách giáo khoa,
được giải thưởng sáng giá như các tác giả trên. “Cái thuở ban đầu yêu thơ ấy”
của Vân Long là sự chắt chiu một giọng riêng thủ thỉ, nhỏ nhẹ.
Trong chuyện riêng tư, đã đành:
Qua
dải sân mưa tôi ngắm em
Màn
mưa nhòa những nét thân quen
Tình
yêu mới nở sao mà đẹp
Một
thoáng nhìn nhau, mưa cũng ghen!
(Qua
mưa, 1962)
cả
khi viết về đề tài thế sự “to đùng” như đấu tranh thống nhất nước
nhà, Vân Long vẫn tìm ra
những “góc nhỏ”:
Bầy
ong bay lên theo mặt trời hồng
Chở
nắng vàng tươi đôi cánh mỏng
Phải
nắng kết tinh tấm lưng vàng óng
Hay
mùa màng thịnh vượng cả không trung!
Ong
thi sĩ trở thành chiến sĩ
Khi
bóng gấu hỗn hào in sậm nắng trưa
Đòn
trừng phạt vút ra vàng loé
Rạng
rỡ không gian, tối mặt kẻ thù.
(Bầy
ong, 1966)
Bài
thơ này nằm trong Tuyển Thơ chống Mỹ, cứu nước đầu tiên, bài thơ
duy nhất trong tuyển không nhắc gì trực tiếp đến thời sự: cuộc chiến đấu lần
đầu bắn rơi máy bay Mỹ ở miền bắc hay cuộc kháng chiến miền Nam. Đây
là một tuyển thơ quan trọng đánh dấu sự ra đời của lớp nhà thơ mới: lớp
nhà thơ chống Mỹ. Rất tự nhiên, Vân Long được “kết nạp” vào lớp này (sau
hơn thập kỷ quen tên vì có thơ in trên các báo, có sách xuất bản
riêng) bên cạnh những Bằng Việt, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Mỹ, Phạm Tiến Duật,
Xuân Quỳnh…phần nhiều trẻ hơn anh.
Thời
điểm ấy, anh đang có mặt ở Hải Phòng, một thành phố của hậu phương lớn nhưng
lại là một trong những trọng điểm ác liệt, phải hứng chịu những
những trận bom Mỹ rải thảm, những loạt pháo từ hạm đội Mỹ bắn vào, những vòng
vây Mỹ vây kín cửa biển. Chính ở nơi này, hồn thơ Vân Long được mới lại, được
“trẻ hoá”. Không còn những câu thơ ngòn ngọt dễ dàng, đôi khi mấp mé sự dễ
dãi nữa.
Những
tình huống quyết liệt, những cảnh tượng dữ dội, những con người từng trải bom
đạn…ở một vùng đất rất đặc trưng, hiện diện trong thơ Vân Long.
Thơ anh đậm chất tự sự hơn, gắn với văn xuôi hơn. Đó là khuynh hướng
của cả một thời, dẫn đến bước ngoặt của thơ Việt Nam, tiêu biểu là Phạm
Tiến Duật nổi lên một năm sau đó (1969) với những câu thơ “bay là là văn
xuôi” trong Lửa đèn, Gửi em, cô thanh niên xung phong…
Tôi
yêu những “ký họa thơ” của Vân Long, giờ đây đã trở nên vô
giá về những nét sinh hoạt Hải Phòng thời chiến:
Còi
báo yên khai mạc phòng triển lãm
Khách
yêu tranh khoác cả súng vào xem
Cô
gái nghiêng chiếc mũ rơm đỏm dáng
Di
động giữa phòng một đốm sáng vàng chanh
(Thành
phố trong tranh, 1968)
Bài
thơ dài Hải Phòng – đêm mùa thu 1967 cũng có những câu dung dị
và chắc nặng…Những chuyện kể bằng thơ của Vân Long cũng trở thành một phần của
ký ức lịch sử, ký ức văn học về Hải Phòng. Chuyện thuyền trưởng Việt Nam Đặng
Văn Qua chiến thắng trong cuộc đua đường biển với Thuyền trưởng Kishni
con sói biển bạc đầu/ Hướng cặp mắt xanh lè xa tít cửa Quỳnh Châu …(Đọ sức).
Chuyện kể về một vùng biển nóng có người thuỷ thủ già, giọng nói mang âm
khu trầm của những người đi biển , có Nước Giếng Cối ngọt lừ giữa
lòng biển mặn/ Người dân đảo ân cần mời bát cháo khoai/Người dân đảo tìm luồng,
phát hiện thủy lôi…Tôi thích cách mở của của bài thơ Ở thành phố những
con tàu: Ngay sau nhà tôi là bến Cảng/ Còi tàu rúc thay tiếng gà gọi
sáng…Chỉ một nét ấy thôi là đã ra ngay cái “chất” Hải Phòng!
Khi
đã rời xa thành phố, có dịp trở lại, câu chữ của anh lảo đảo:
Hình
như gió cũng có men như rượu
Hàng
cây ven đường cũng ngả nghiêng say…
Quả
thật, Hải Phòng đã vào rất sâu trong hồn, trong thơ Vân Long!
Hành
trang thơ của anh đã dầy dặn hơn nhưng cũng có nghĩa là nặng nề
hơn. Anh phải rũ bỏ lối viết nghĩ đến lập tứ nhiều hơn là coi
trọng câu và chữ. Nay rất nhiều bài thơ anh khởi sự từ một câu
thơ hay vụt hiện. Nhưng vẫn có sự thống nhất trong con người cầm bút Vân
Long: đó là sự nhập thế hết nình, sự gắn bó với đời sống với con người. Từ
lâu, Vân Long đã có ý thức viết những câu thơ từ cuộc sống, tránh thói tư biện
sách vở dễ ru ngủ người cầm bút.
Sau
“thời kỳ Hải Phòng”, Vân Long còn có một thòi kỳ đáng ghi nhận nữa, bắt đầu từ Vào
thu(1990, giải thưởng 5 năm !986-1990 của Hội Liên hiệp VHNT Hà Nội), tiếp tục
trong Những khối hình câm (1993), khá ấn tượng với Dưới lá
xanh (1999, giải thưởng Hội LHVHNT Việt Nam). Đúng như nhận xét của
Trịnh Thanh Sơn, rất có thể “đây là tập thơ hay nhất của nhà thơ Vân Long,
mang lại cho người đọc một tâm trạng bất ổn…nỗi khắc khoải của rất nhiều hoài
niệm, nỗi xao xuyến về một cảm thức thời gian”.
Trong
tập thơ này, tôi thích nhất một bài, đúng ra là một câu trong bài đầu
tiên Ngọn cây mà tôi thuộc ngay từ khi nó được in trên báo Văn Nghệ:
Rồi
cũng đến tầm ấy thôi!
Vân
Long nói về một ngọn cây cụ thể nào đấy, dù có gắng sức đến đâu Nỏn lá tủa
ra quyết liệtcũng không thể nào vươn quá cái tầm mà thiên nhiên đã định cho mỗi
loài cây. Tôi cứ vận vào đời mỗi thi sĩ: Dù anh có vùng vẫy đến đâu cũng
không thể thoát cái vị trí định mệnh của anh trong văn chương. Như một cô gái
đi thi sắc đẹp, đôi guốc cao gót có thêm cho cô 15 hoặc 20 phân nữa, nhưng
chiều cao thực của cô cũng không vì thế mà tăng thêm, không giấu mãi được người
đời, nhất là những ai gần gũi với mình! Trong làng
văn cũng không hiếm những người giỏi chạy chọt, đi guốc cao, thậm chí…đi cà
kheo trong đời và trong văn, cốt để loè công chúng và cũng tự loè mình, Vân
Long không nằm trong số đó. Anh như ngọn cây kia, cũng vùng vẫy quyết liệt, năm
lần lột xác, năm lần đổi mới như anh tự nhận xét, nhưng luôn tự biết
mình Rồi cũng đến tầm ấy thôi ! Tầm nào thì có lẽ chỉ hậu thế mới
biết!
Đến
chặng thơ này, thơ Vân Long đã bớt tự sự, bớt chất văn xuôi, đã ngắn
lại, đã cô đúc từ cảm xúc đến câu chữ. Đấy là thơ của người đã từng trải, suy
ngẫm về thời gian vô thuỷ vô chung, về cái hữu hạn của cuộc đời và nỗi
mong manh của nghệ thuật. Đến một ga metro, trong mắt thi nhân cũng thấy
như biểu tượng của kiếp người:
Họ
từ từ trôi xuống hầm sâu
Tôi
từ từ trồi lên mặt đất
Như
một dòng người đi dần vào cõi mất
Một
dòng người lóp ngóp sinh ra…
Tôi
thú vị hai chữ lóp ngóp, vừa thực, vừa hài hước, thoáng một chút bi
hài về cõi nhân sinh! Còn hai câu này trong Nỗi buồn nhà mới cũng một
kiểu nhếch mép:
Kiến
chạy lụt, trú nhờ kệ sách
Chữ
thừa như kiến, ngập trang in!
Còn
con Đường một chiều này, phải đến một độ tuổi nào đó, người ta mới
ngộ ra và bình thản chấp nhận:
Tôi
đi cùng chiều với màu cỏ
Xanh
tươi rồi vàng úa…
Ngỡ
đang tung tăng như cá
Đâu
hay bị nước cầm tù
Chỉ
đêm đêm mơ điều ngược lại
Nắm
gọn trong tay những gì xa ngái
Ngỡ
trong giấc mơ là tự do nhất chăng? Không phải, tác giả bất ngờ cho ta
nhận
thức:
Đâu
hay…
Tôi
vẫn cùng chiều
với
những giấc mơ!
Có
lẽ “chín” nhất của thời kỳ này là bài Dưới lá xanh:
Đêm
dài quá, nằm không ngủ
Đời
ngắn quá, yêu chưa đủ……
Loạt
soạt nghìn trang gió thổi lạnh
Tay
thì đã ngắn, mong chi cánh
Chữ
nghĩa xạc xào thua lá xanh
Mà
bông hoa lạ cuối trời kia
Tới
được, chắc chi hoa vẫn thắm!
Dưới
cái vẻ đùa đùa chơi chơi, là nỗi ngùi ngẫm mà nhà thơ
Ngô Quân Miện, người bạn vong niên
chí thân của Vân Long đã nhận ra và định danh là nỗi chua xót
của người sáng tác.
Nhà
thơ Vân Long đã ra ngoài cõi thất thập, cho ông cái nhìn lão thực về
vị thế khiêm tốn của mình: Tôi loài cá ăn chìm / Thơ và đời lặng lẽ…
Vâng! lặng
lẽ nhưng quyết liệt, như những ngọn cây cứ “sục tìm trong khoảng biếc” thi
ca! Nhưng ông khiêm tốn thực hay có chút kiêu ngầm, bởi con
cá ăn chìm thường không thể là con cá nhỏ!
Lời
bạt Vân Long – Tác phẩm
(NXB
Hội Nhà Văn, quý IV/2009)
|
Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2015
Người “sục tìm trong khoảng biếc” thi ca
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch
Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
vé máy bay eva airlines
vé máy bay đi mỹ tháng nào rẻ nhất
phòng vé korean air
đại lý vé máy bay đi mỹ
vé máy bay đi canada giá bao nhiêu
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich