Thứ Hai, 22 tháng 6, 2015

Chơi giữa mùa trăng - Thế giới của cõi mộng và sự huyền diệu

Chơi giữa mùa trăng - Thế giới của cõi mộng và sự huyền diệu 
Hàn Mặc Tử là một hồn thơ lạ của phong trào Thơ mới. “Chơi giữa mùa trăng” cũng là thi phẩm mang đậm chất lạ của ông. Nó là cõi giới của huyền diệu, của mộng ảo. Chất lạ hay sự ảo diệu của nó toát lên từ nhan đề: rõ ràng, mộc mạc nhưng vẫn gợi sự mơ hồ, mông lung; toát lên từ cái nhìn về trăng: một vầng trăng kì ảo; từ một không gian thơ cũng đầy hư ảo, thực - mộng nhập nhòe và cả thể thơ văn xuôi - những câu thơ không chịu nương mình trong khuôn khổ. Thi phẩm thật sự là cõi giới chỉ có trong cảm nhận của riêng Hàn Mặc Tử.
1. Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) mất đã hơn 70 năm nhưng đến nay ông vẫn còn được xem là một hiện tượng thơ kì lạ trên diễn đàn thơ ca Việt Nam hiện đại. Vườn thơ “rộng rinh vô bờ bến” của ông đã đón nhận biết bao lần những người yêu thơ ông tìm đến. Nhưng, dù tiếp cận nó bằng lối ấn tượng, trực giác hay phương pháp khoa học thì nhiều người cũng đã thú nhận, hoặc như Hoài Thanh: “Trời đất này thực của riêng Hàn Mặc Tử ta không hiểu được và chắc cũng không bao giờ ai hiểu được” (Hoài Thanh, 2000, tr.187), hoặc như Chu Văn Sơn: “Thơ Hàn Mặc Tử vẫn cứ như một kí tự lạ lùng mà mỗi cách đọc, cách giải được đưa ra chỉ xem như một giả thuyết không ít vu vơ” (Chu Văn Sơn, 2003, tr. 211). Phải chăng vì thi nhân đã sở hữu “một tư duy thơ độc đáo” (Đỗ Lai Thúy, 2000, tr. 209), “một quan niệm thơ khác lạ”, “một thi học của cái tột cùng”? Kiểu tư duy, khí chất và bệnh tật cùng với quan niệm thơ của ông đã làm nên một thế giới thơ ca nhiều khác lạ so với đương thời, nhất là ở tính chất hư ảo, huyền bí của nó.
2. Chơi giữa mùa trăng là một áng thơ văn xuôi của Hàn Mặc Tử cũng chứa đầy chất lạ. Có thể xem nó như thế giới của cõi Mộng, của sự diệu ảo đầy siêu thực mà cũng đầy lãng mạn. Cái thế giới ấy được gợi lên từ nhiều yếu tố đậm nhạt khác nhau. 

2.1 Đầu tiên đi từ nhan đề thi phẩm. Ngay từ nhan đề, tác giả đã đưa người đọc vào sự mơ hồ, mông lung dù câu từ tưởng đã rõ ràng và mộc mạc: Chơi giữa mùa trăng. “Mùa trăng” là cụm từ chỉ thời gian nhưng nó cũng gợi cả không gian. “Mùa trăng” là nói trăng rằm trung thu? Từ lúc nào đã được hiểu như vậy mặc dù chu kì trăng khuyết – tròn – khuất tháng nào cũng lặp lại và mùa nào cũng có. Và, dân gian thì chỉ dùng chu kì trăng để tính đơn vị thời gian là tháng. Những đêm trăng rằm mùa thu đã biến thành mùa trăng, nghĩa là có sự kéo dài thời gian, dàn trải nó ra thành mùa. Và, “mùa trăng” đã tạo được ấn tượng về không gian đậm nét. Đó là một không gian trăng như chảy tràn, lai láng, như dát chiếu vàng trên mặt đất, dát vàng trên mặt nước. Cả thời gian dài không gian như được tắm gội, phủ đầy ánh trăng huyền hoặc, thơ mộng, còn gì huyền ảo hơn, kì thú hơn? Và ngay ở từ “chơi” dân dã cũng gợi sự mông lung. Đó là cuộc nô đùa, du ngoạn, hoạt động giải trí thuần túy dưới trăng của những đứa trẻ mười ba, mười lăm tuổi? Hay, thật ra nó là một cuộc chơi của ngôn từ, cuộc du ngoạn của những ý tưởng đầy ngẫu hứng ở người thanh niên giàu trí tưởng tượng, giàu mộng mơ lãng mạn nhưng cũng quá bất hạnh trong cuộc đời?. 
2.2 Tiếp theo là Trăng, đối tượng được đề cập trực tiếp, yếu tố trung tâm kiến tạo nên thế giới mộng mơ, huyền ảo. Trăng là của tự nhiên, của chung mọi người nhưng bao đời nay nó như đặc ân dành riêng cho thi sĩ: “Trăng vú mộng đã muôn đời thi sĩ / Giơ hai tay mơn trớn vẻ tròn đầy” (Cảm xúc – Xuân Diệu). Người thì mơn trớn vẻ đẹp sáng trong vằng vặc giữa trời của nó (Truyện Kiều – Nguyễn Du), người thì nâng niu vẻ đẹp ấy đến nỗi: “Nâng tà áo bọc ánh trăng / Nỡ nào lãng phí ánh vàng lung linh” (Đêm mười bảy dưới trăng viết nhanh gửi bạn – Cao Bá Quát). Có thể nói, với thơ cổ, vầng trăng hiện hữu trong thơ bao giờ cũng kèm theo sứ mệnh của nó: nói hộ nỗi lòng thi nhân – nỗi lòng đắm say cái đẹp! 
Đến với thơ ca hiện đại, nhất là với những vần thơ đã nhuốm màu tượng trưng, siêu thực, thơ về trăng xuất hiện không chỉ dừng lại là những rung động trước cái đẹp mà nó còn được mỹ hóa theo cái nhìn chủ quan của ấn tượng, của cảm giác, của năng lực tưởng tượng dồi dào. Nó không chỉ được nhìn ngắm bằng thị giác mà còn bằng linh giác, không chỉ là hình ảnh của một thiên nhiên trữ tình mà còn là kí hiệu, là biểu tượng mà qua đó người ta có thể thấu thị cả thế giới nội tâm, vô thức, tiềm thức của chủ thể. Đó là cả một cõi trăng huyền diệu nhưng cũng đầy hoang dại, ma mị đến kinh người: “Không gian dày đặc toàn trăng cả; Ôi kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm / Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe; Bỗng hôm nay trước cửa bóng trăng quỳ / Sấp mặt xuống cúi mình theo dáng liễu; Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt”,… (Hàn Mặc Tử).
Và, trăng đã từng là bầu bạn hóa giải nỗi cô đơn, thì giờ đây lại được mã hóa thành biểu tượng của nỗi cô đơn tràn ngập: “Sao vàng lẻ một, trăng riêng chiếc / Trăng ngà lặng lẽ buông như tuyết / Trong suốt không gian tịch mịch đời” (Xuân Diệu). 
Trăng đã có một vị trí vô cùng đặc biệt trong thơ Hàn Mặc Tử - một hồn thơ nhiều khát khao mộng tưởng nhưng cũng tận cùng Đau thương. Lí giải nguyên nhân vì sao trăng là nỗi ám ảnh trong thơ Hàn thì hầu như bài viết nào viết về tác giả này cũng ít nhiều có đề cập đến. Theo Thụy Khuê, đó là sự yêu thích, bởi vầng trăng quê nhà của thi nhân tuyệt đẹp, tuyệt kì ảo và đó cũng là cội nguồn tuổi thơ. Còn theo Thu Tứ, sở dĩ trăng hiện diện nhiều trong thơ Hàn là vì trong “Cô đơn, tù túng quá, Anh dựa vào cái mà thiên nhiên đã cho Anh nhiều nhất, dễ dàng tiếp cận nhất”. Và, đó còn là do bệnh lí (Trần Thanh Mại, 1941, tr.62),… Cách lí giải nào cũng hợp lí song đứng riêng lẻ thì nó đúng nhưng chưa đủ. Theo chúng tôi, tất cả những lí do ấy hợp lại thì thuyết phục hơn. 
Vì trăng chủ trì cả hơi thơ lẫn tứ thơ Hàn (Thu Tứ), là “một trong hai cái luận đề yêu dấu (trăng và hồn)”- “cái ám ảnh ghê gớm mà thi sĩ không thoát ly được” nên “Hành trình của đường thơ Hàn Mặc Tử lưu lại dấu vết trong những mảnh trăng” (Chu Văn Sơn, 2003, tr. 217] cũng không có gì khó hiểu. Thủa ban đầu trăng trong thơ Hàn mang vẻ đẹp huyền nhiệm của đất trời, nỗi rạo rực, khát khao của tuổi trẻ. Trăng lúc này là thế giới của giấc mơ, của hạnh phúc. Ở chặng tiếp theo, giai đoạn của những mê loạn, những giày vò, đau đớn của thân xác bệnh tật, trăng vẫn mênh mang trên những trang thơ nhưng nó đã thành nỗi ám ảnh nhức nhối, nói như Đào Trường Phúc: “nó vừa là cõi trú, vừa là vực thẳm đầy đọa tâm hồn ông” (Đào Trường Phúc, 1971, tr. 76). Có lúc nó là “trăng mơ”, “trăng thơm” nhưng có lúc nó là “trăng điên”, “trăng bệnh”. Và cuối cùng, khi ông đã vượt qua được những mê loạn, những tuyệt vọng, trăng lại trở về là thế giới cưu mang niềm mơ ước, là cõi trú yên bình. Trăng đúng là một ân sủng, là một sự đền bù mà cuộc đời dành cho ông, đặt cạnh ông trong lúc những người thân yêu của ông hoặc xa lánh hoặc buộc phải cách ly. Thật sự với Hàn Mặc Tử: “Chỉ có trăng sao là bất diệt / Cái gì hơn nữa cũng qua đi” (Thời gian). 
Đã xuất hiện vô vàn trong thơ nhưng chưa ở ngòi bút nào trăng lại có nhiều biến ảnh khác lạ, linh động như ở thơ Hàn. Và, cũng không ở bài thơ nào của Hàn, nét thần tiên, thơ mộng, vẻ đẹp nhiệm mầu, kì ảo của trăng lại được khám phá đến tận cùng, đến bến bờ thật sự của nó như ở Chơi giữa mùa trăng. Ở đây, tác giả đã tạo dựng được một thế giới đích thực là của riêng ông, chỉ có ông mới nhìn thấy, cảm thấy được. Trước hết là cảm nhận của tác giả về Trăng:
“Trăng là ánh sáng? Nhất là trăng giữa mùa thu, ánh sáng càng thêm kỳ ảo, thơm thơm, và nếu người thơ lắng nghe một cách ung dung, sẽ nhận thấy có nhiều miếng nhạc say say gió xé rách lả tả... Và rơi đến đâu, chạm vào thứ gì là chỗ ấy, thứ ấy vang lên tuy chẳng một ai thấy rõ sức rung động”. 
Trăng là ánh sáng, được đồng nhất với ánh sáng. Đó là thứ ánh sáng êm dịu, tỏa rộng, phủ đầy đêm, một thứ ánh sáng thật dễ chịu. Vầng trăng thu của Hàn rất sáng, sáng nhất trong năm đã tỏa “ánh sáng tràn trề, tràn lan”, rực rỡ, chói lói. “Chỗ nào cũng có trăng, có ánh sáng cả”; “ngộp quá, sáng quá”. Và, không chỉ có màu sắc phiêu diêu đến nổi “đồng tử của chị tôi và tôi lờ đi vì chói lói” mà trăng của Hàn còn có hương thơm, có âm thanh tiếng nhạc: “ánh sáng càng thêm kỳ ảo, thơm thơm, và nếu người thơ lắng nghe một cách ung dung, sẽ nhận thấy có nhiều miếng nhạc say say gió xé rách lả tả (…) Vây chúng tôi bằng ánh sáng, bằng huyền diệu, chưa đủ, Ngưu Lang và Chức Nữ, chúa của đêm trung thu còn sai gió thu mang lại gần chúng tôi một thứ mùi gì ngào ngạt như mùi băng phiến, trong ấy biết đâu lại không phảng phất những tiếng kêu rên của thương nhớ xa xưa...”. Tác giả dường như căng mở tất cả các giác quan, lại chùi theo cảm xúc “say sưa”, “ngây ngất”, “đê mê” để nhìn ngắm, cảm nhận. Nhưng, ngay khi căng mở, thức nhọn các giác quan thì cũng không dễ gì cảm nhận được mùi thơm, tiếng nhạc của trăng, của ánh sáng. Ở đây, người thơ không chỉ dùng thị giác để nhìn vầng trăng trên nền trời mà ông dùng đến linh giác, tâm giác để cảm nhận nó – như cảm nhận sự tương giao huyền nhiệm của vạn vật trong vũ trụ. Cũng có thể người thơ đang tự tan biến, đang hóa thân vào đối tượng để tri nhận được sự huyền nhiệm, mơ hồ kia. 

Trăng là ánh sáng, trăng có hương thơm, trăng phát ra tiếng nhạc, và đó là vô hình. Song, chưa dừng ở đó, trăng của Hàn còn là vật thể hữu hình: "Thôi rồi! Trí ơi! Con trăng nó bị vướng trên cành trúc kia kìa, thấy không? Nó gỡ mãi mà không sao thoát được”;… " Chị tôi làm thinh, – mà từng lá trăng rơi lên xiêm áo như những mảnh nhạc vàng”. Rõ ràng, Trăng của Hàn không phải là một tinh cầu đất đá, không phải là hình ảnh cố định, bất động trên bầu trời mà nó là vầng trăng kì ảo, huyền ảo bởi sự biến hóa kì diệu của nó. Và sự huyền ảo không chỉ dừng ở đó. Vầng trăng của Hàn đã phủ sự ảo diệu lên vạn vật dưới nó.
Dưới ánh trăng thấm đẫm, chảy tràn, bao la, huyền hoặc, vạn vật cũng như con người đều trở nên lung linh và nghiêng dần sang hư ảo. Sông thành một “đường trăng trải chiếu vàng”, dòng nước là “những dòng vàng”, thuyền đi trên sông dưới ánh trăng tưởng như “đương chở một thuyền hào quang, một thuyền châu ngọc”, dẫm chân lên cát mà tưởng như “bước trên phiến lụa”,… Còn con người nơi “Không gian dày đặc toàn trăng cả” ấy, như cũng không tin ở chính mình, ở cảm nhận của mình: “trăng mọc dưới nước hay mọc trên trời, và chúng mình đi thuyền trên trời hay dưới nước? - "Cả hai, chị ạ”… “Hai chị em đê mê không còn biết có mình và nhận mình là ai nữa”. … 
“Tôi bỗng thấy chị tôi có vẻ thanh thoát quá, tinh khôi, tươi tốt và oai nghi như pho tượng Đức Bà Maria (…). Có phải chị không hở chị?" Tôi run run khi tôi có cái ý nghĩ: Chị tôi là một nàng Ngọc nữ, một hồn ma, hay một yêu tinh…- "A ha, chị Lễ ơi, chị là trăng, mà em đây cũng là trăng nữa!”. 
Nếu ở trên người thơ như nghe thấy, cảm thấy được cả sự siêu hình, vô lượng của Trăng, của đêm trăng: “một đêm siêu hình, vô lượng, tượng trưng của một mùa ao ước xây bằng châu lệ, làm bằng chia ly, và hơn nữa, hiện hình của một nguồn khoái lạc chê chán…” thì đến đây, khi trạng thái “đê mê” được đẩy lên cao nhất thì người đã hóa thành trăng, tan biến hình hài trong trăng, hay trăng đã nhập vào người, đã hóa người. Không còn giăng mắc vào hiện thực bằng những từ ngữ “cứ ngỡ”, “có cảm tưởng”, “hình như”, “tưởng chừng”, mà đến đây đã là sự khẳng định “chị là trăng, mà em đây cũng là trăng”. Một sự say trăng đến kì lạ hay thi nhân đã thật sự sống trong thế giới là cõi Mộng của mình?. 
Trăng xuất hiện vào đêm mà đêm là không gian của bóng tối nhưng dưới ánh trăng của Hàn ta thấy không có một vệt đêm, một vệt tối nào hiện hữu. Ở đâu cũng lấp lánh, cũng lung linh. Sắc màu lung linh, lấp lánh ấy phát ra từ những dòng vàng trên mặt sông, từ những vì tinh tú tỏa hào quang trên trời như đang rơi rụng xuống, từ màu trắng huyền hoặc của động cát. Và, càng lung linh, chói lói trong hình ảnh nhập hòa, trùng khít: người là trăng, trăng là người. 2.3 Ở phương diện không gian và thời gian nghệ thuật của thi phẩm, ta càng thấy rõ đây là miền mơ, cõi mộng của người thơ. Có hai không gian trong Chơi giữa mùa trăng: Không gian thực và không gian ảo – Không gian vũ trụ và không gian tâm tưởng. Không gian thực là cảnh hai chị em chèo thuyền trên sông chơi trăng, du ngoạn dưới trăng. Ở đó có bến đò thôn Chùa Mo, có động cát Quảng Bình, có cảnh trăng càng lên cao thì thủy triều càng dâng lên cao. Song, hiện thực này cứ chuyển dần sang bờ hư ảo, cứ dần trở nên mông lung, nhòa đi để rồi cuối cùng thành ảo giác khi chủ thể trữ tình bằng những liên tưởng bất tận đã vượt thoát khỏi nó, hướng về thế giới của riêng ông. 
Thế giới hư ảo ấy đến từ những liên tưởng, những hình ảnh được tác giả đem ra so sánh hay đồng nhất hóa nó với hiện thực, những hình ảnh chỉ có trong huyền thoại, cổ tích, trong thẳm sâu tiềm thức con người. Đó là Ngưu Lang Chức Nữ, dòng Ngân Hà, bến Hàn Giang, một huyền thoại được kết tinh từ đỉnh cao của thứ tình yêu lãng mạn. Đó là cảnh nước Nhược non Bồng, động phủ thần tiên nơi đã từng in dấu bước chân Đào Nguyên tiên nữ. Câu chuyện lạc bước vào cõi tiên ngày nào của Từ Thức có nhiều ý nghĩa nhưng chắc chắn chuyện tình yêu giữa chàng và người tiên vẫn còn là thế giới mơ tưởng của con người. Đường đến với Cõi Tiên hay Đào Nguyên đã được dân gian mở lối và Tản Đà cũng đã dấn bước đến Thiên Thai. Ở đó, Cõi Tiên - Thiên Thai là biểu tượng của sự viên mãn đã vụt tầm, là hình ảnh của sự hoài vọng. Còn cõi Tiên của Hàn? Hướng đến nó là hướng đến thế giới của hạnh phúc, của sự thảnh thơi? Hướng về nơi, theo tâm thức người Việt là “luôn luôn được sống mà không cần phải nỗ lực”? Cõi Tiên của Hàn là nơi có Ngưu Lang Chức Nữ, có Từ Thức và người tiên, hướng đến những mối tình lãng mạn này để thỏa nguyện ước tuổi trẻ hay để xoa dịu mối tình đau hiện hữu trong đời? Cõi Tiên của Hàn còn là cảnh “vườn tiên sáng láng”: “ngập tràn ánh sáng”, “sáng quá”, là nơi “sông Ngân hà trinh bạch đương đắm chìm các ngôi sao đi lạc đường”, “…có một vì tiên nữ đang kêu thuyền để quá giang…”.
Đọc thi phẩm, người đọc không còn cảm giác là người thơ đang tưởng tượng mà ông như đang mộng du trong thế giới thần tiên đó. 
Không gian ảo còn được gợi lên từ những hình ảnh được xây bằng ảo giác. Nét thực, cảnh thực neo vào bờ ý thức của thi nhân thật mỏng manh. Nó chỉ là điểm xuất phát ban đầu rồi sau đó người thơ như bị mê hoặc, như bị dẫn dụ, đắm mình trong những liên tưởng, càng lúc càng đi vào cõi miền xa khuất. Những dòng vàng (lùa những dòng vàng trôi trên mặt nước), lá trăng (mà từng lá trăng rơi lên xiêm áo như những mảnh nhạc vàng) thì mới là những liên tưởng ẩn dụ dựa vào màu sắc hay hình dáng, song hình ảnh của động cát qua miêu tả của tác giả thì thật sự từ hiện thực nó đã thành hư ảo: “Động là một thứ hòn non bằng cát, trắng quá, trắng hơn da thịt của người tiên, hơn lụa bạch, hơn phẩm giá của tiết trinh, – một màu trắng mà tôi cứ muốn lăn lộn điên cuồng, muốn kề môi hôn, hay áp má lên để hưởng sức mát rượi dịu dàng của cát...”. Màu trắng của cát, sự mát rượi của cát dưới trăng là hình ảnh thực, cảm giác thực song khi tác giả đặt nó bên những hình ảnh trong mạch liên tưởng của ông, trắng hơn da thịt của người tiên, của lụa bạch thì cái thực, cái cụ thể này đã nhòe đi, bởi da thịt của người thì có thể hình dung nhưng người tiên đã là ảo; lụa bạch thì ai cũng biết nhưng da thịt của lụa bạch thì phải dùng đến tưởng tượng. Và đến (trắng) hơn phẩm giá của tiết trinh thì tất cả đã là trừu tượng, vô hình, hoàn toàn hư ảo. Hình ảnh thực khúc xạ qua chủ quan người thơ đã cập bến bờ hư ảo, đã vượt thoát khỏi vùng kiểm soát của lí tính. 
Tạo nên thế giới hư huyền, ảo diệu như là cõi Mộng ấy còn có sự hiện diện của yếu tố thời gian. Chơi giữa mùa trăng cũng như phần lớn những tác phẩm khác của Hàn Mặc Tử không ghi rõ thời gian sáng tác, được xuất bản sau khi tác giả đã qua đời (in lần đầu năm 1941, nhà xuất bản Ngày Mới ấn hành; Nhà xuất bản An Tiêm tái bản năm 1969). Theo Thanh Thảo, Hàn Mặc Tử sáng tác thi phẩm này trước khi ông phát hiện mình bị bệnh nan y. Còn theo Đào Trường Phúc nó được sáng tác ở chặng đường cuối, giai đoạn tác giả đã tìm lại được sự bình tâm, chấp nhận định mệnh, chấp nhận sự tuyệt vọng. 
Chúng tôi cũng không đủ cơ sở để khẳng định đâu là thời gian chính xác nhưng nếu là sáng tác trước khi phát bệnh, theo chúng tôi, nó cũng thuộc thời gian kí ức, thời gian hoài niệm. Vì sao? Trong bài thơ, nhân vật người chị lúc ấy mười lăm tuổi, nhân vật tôi sẽ là mười bốn, mười ba hay mười hai? Theo tác giả Đỗ Lai Thúy, Hàn Mặc Tử bắt đầu làm thơ từ năm mười bốn tuổi (1926). Cho dù thế thì về mặt hình thức của tác phẩm – thể thơ văn xuôi, hơn nữa lại là một bài thơ văn xuôi toàn bích, thành tựu đáng kể của thể thơ này ở chặng đường thể nghiệm thì khó có thể được viết từ một cậu thiếu niên mà sản phẩm đầu tay trong sự nghiệp thơ ca là tập thơ Đường luật! Thơ văn xuôi, theo như Hữu Đạt - mà cũng có sự đồng tình của nhiều người, “là đỉnh phát triển cao nhất của thơ tự do”. Và ngày nay, chúng ta cũng đã thừa nhận rằng: sự ra đời của thể thơ này không phải là sự pha trộn, kết hợp ngẫu hứng của thể loại mà thật sự nó là một nỗ lực tìm kiếm sự cộng hưởng các khả năng của thơ và văn xuôi để có thể thể hiện một cách đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất thế giới tinh thần sâu sắc, phong phú của cái tôi trữ tình. Như vậy, khó có khả năng thời gian ở đây thuộc về thì hiện tại. Và như vậy, tác giả đã dùng đôi mắt của tưởng tượng, đôi mắt của kí ức, tức trở về tuổi thơ, trở về kỉ niệm những đêm chơi trăng trên động cát Sa Kì để Chơi giữa mùa trăng? Trực diện, quan sát bằng lăng kính trong trẻo hay kì ảo của trẻ thơ để thấy được tất cả sự tinh khôi của vẻ Đẹp, bộc lộ được hết sự ngỡ ngàng của con người say cái Đẹp, khát khao cái Đẹp. Phục dựng lại cảnh đêm trăng bằng cách ấy hỏi sao Chơi giữa mùa trăng lại không lung linh, kì diệu. Mơ mộng biết là huyễn tưởng nhưng rõ ràng nó vẫn tồn tại như một sự bù đắp cho những thiếu vắng, những hẫng hụt của thực tại. Ở đây, khi người thơ đi vào xây lầu mộng cho mình, ông cũng vô tình hé mở cho người đọc bước vào một góc thế giới tinh thần của ông: Niềm khát khao hướng thượng – hướng thượng theo nghĩa hướng tới những giá trị nhân sinh, những vẻ đẹp kì diệu của cuộc sống bằng sức mạnh của nghệ thuật. Và với cái thế giới mà thật ra nó là cõi đời hay cõi mộng không thể phân định được ấy, phải chăng cũng chính là cõi trú của Hàn ở những tháng ngày Đau thương?. 
2.4 Kiến tạo nên cõi mơ huyền diệu của Chơi giữa mùa trăng cũng không thể không kể đến yếu tố thể loại của nó. Sở dĩ chúng tôi dùng từ thể loại vì đây là hình thức thơ có thể xét ở hai cấp độ. Nằm trong hệ thống thơ trữ tình thì nó là thể thơ văn xuôi bên cạnh thể thơ luật, thể Thơ mới, hay thể thơ tự do. Song, thơ văn xuôi lại chứa trong nó hai yếu tố tự sự và trữ tình, nó là sự giao thoa của hai thể loại văn xuôi và thơ. Và ở cấp độ này ta có thể xem nó với tư cách là thể loại. Thi phẩm được in khi tác giả đã thành người thiên cổ, sự định danh nó là thơ văn xuôi trong Thơ văn Hàn Mặc Tử (Phê bình và tưởng niệm) do Phan Cự Đệ biên soạn, Nhà xuất bản Giáo dục, 1993, hay trong Hàn Mặc Tử – Thơ và đời, Nhà xuất bản Văn học, 2004 chắc chắn không phải được ghi từ tác giả. Vì, Trần Thanh Mại, người đã giới thiệu thơ Hàn Mặc Tử từ những tư liệu gốc do chính thi nhân trao cho bạn mình lúc còn sống là Trần Thanh Địch - em Trần Thanh Mại, thì nhà nghiên cứu này vẫn xem Chơi giữa mùa trăng là một bài văn xuôi mặc dù ông cũng nhận ra tính chất đặc biệt của loại văn xuôi này. Đó là “Một bài văn xuôi mới lạ xưa nay trong văn giới của toàn thể hoàn cầu cũng chưa ai nghĩ đến nó”. Và, khi nhà xuất bản An Tiêm tái bản Chơi giữa mùa trăng vào năm 1969, thì lúc đó vẫn còn ghi: “Chơi giữa mùa trăng là tập văn di cảo của Hàn Mặc Tử do nhà xuất bản An Tiêm xuất bản theo sự thỏa thuận của thi sĩ Quách Tấn”.
Hơn nữa, ở vào những năm 1940 này, khái niệm thơ văn xuôi cũng chưa xuất hiện. Ý thức về hình thức thơ đặc biệt này thì đã có ở một số cây bút như Xuân Diệu hay Huy Cận qua những phát biểu cụ thể. Chẳng hạn, Xuân Diệu trong lời đề tựa cho tập Phấn thông vàng của mình, ông viết: “Xin đừng tìm trong phấn thông vàng những truyện có đầu đuôi, có công việc, có sáng hôm trước và chiều hôm sau. Ở đây chỉ có một ít đời và rất nhiều tâm hồn, hợp lại thành bao nghĩ ngợi bâng khuâng, không cốt để giải trí người ta, mà trái lại để xui trí người ta thêm bận vẩn vơ, lưởng vưởng”. Ở tập “truyện” này, theo quan niệm về thơ văn xuôi hiện nay thì có nhiều bài thuộc về thơ văn xuôi (Đó là thể thơ được trình bày dưới hình thức văn bản văn xuôi nhưng mang đậm chất thơ nhờ vào sự âm vang của nhịp điệu, việc sử dụng những biểu trưng nghệ thuật, việc hướng vào khai thác chiều sâu thế giới nội tâm của con người). Cũng vậy, cái tên “Trường ca” mà ông dùng để gọi tên sáng tác có hình thức văn xuôi của mình thì, theo chúng tôi, cả 10 văn bản ấy cũng là thơ văn xuôi nốt. Vậy thì, loại văn mà “chỉ có một ít đời và rất nhiều tâm hồn” hay cái tên gọi trường ca ấy đằng sau nó phải chăng là ý thức về tính chất đặc biệt của hình thức văn xuôi mà tác giả đã sáng tác? Nó không còn là loại văn xuôi bình thường nữa. Với Huy Cận cũng thế, ông gọi tác phẩm Kinh cầu tự mà ngày nay ta cho là thơ văn xuôi, là một tập kinh: “Đây là một tập kinh; Lời kinh chắc cũng có khác lời nói chuyện đôi ba; - cũng khác lời bàn bạc giữa công chúng”. Đặc điểm của câu kinh là có sự hài hòa, nhịp nhàng, cân đối, giàu tính nhạc và hình ảnh ở đó cũng lung linh, bí ẩn. Cộng thêm với không khí tôn giáo nó có khả năng mê hoặc, dẫn dụ con người. Đó cũng là thứ văn xuôi đầy ma lực, một thứ văn xuôi đặc biệt. 
Hàn Mặc Tử viết rất nhiều về trăng, riêng có Chơi giữa mùa trăng là có hình thức thơ khác lạ. Đây là sự tìm tòi, tìm kiếm một cách viết mới hay nói như nhà thơ Mỹ gốc Nga Joseph Brodsky: “Kẻ làm thơ không viết về cái gì hay cái gì, cũng không viết vì cái gì cả. Anh ta viết theo nhu cầu nội tâm, do sự náo động ngôn từ nào đó diễn ra trong mình”. Những náo động ngôn từ trong thế giới nội tâm đòi hỏi phải được giải phóng mà những hình thức thơ trước nó chừng như không còn đủ sức diễn tả chăng? Để tương hợp với luồng cảm xúc ào ạt cũng như dòng thác ngôn từ cuồn cuộn trong người mình, anh ta phải tìm cách bứt phá những gò bó, hạn định, những khuôn khổ. Và thơ văn xuôi là một lựa chọn ưu trội? Vậy thể thơ này có ý nghĩa như thế nào trong việc dựng lại cuộc du ngoạn kì thú dưới trăng của thi nhân, dựng nên một thế giới lung linh huyền ảo không thể có được ở đâu ngoài cõi mộng của tác giả?. 
Sử dụng hình thức thơ văn xuôi, tác giả Chơi giữa mùa trăng đã tận dụng được nhiều thế mạnh của nó. Yếu tố văn xuôi ở đây cho phép tác giả được kể, tả, đối thoại như một câu chuyện để giúp người đọc hình dung một cách rõ ràng cuộc chơi trăng sinh động, đầy lí thú. Nhưng điều đó cũng không hề làm giảm đi chất thơ tràn ngập của thi phẩm khi những liên tưởng bay bổng, phóng khoáng vẫn đầy ắp, sự trùng điệp của ngôn từ, của hình ảnh vẫn được lưu giữ.     Kế đến là sự tung phá, bung thoáng của hình thức thơ. Câu thơ trong thơ văn xuôi nghiêng về văn xuôi, vượt thoát sự trói buộc của vần luật, không hạn định về số lượng âm tiết, không phân dòng mà chỉ xuống dòng khi đã tạo lập ý trọn vẹn, lại được phép sử dụng liên từ, kết từ,…cho nên đối tượng sẽ được soi rọi, cảm nhận, miêu tả một cách đầy đủ nhất đồng thời mọi cảm xúc, cảm giác của người thơ, dù đã thức nhọn, đã căng đến độ “gần đứt sự sống” thì cũng vẫn bộc lộ được dễ dàng và trọn vẹn. Thế mạnh này đã được tác giả trưng dụng một cách hiệu quả để tạo dựng một thế giới đêm trăng thật lung linh, huyền ảo, biến đêm trăng hiện thực nơi trần gian thành “đêm siêu hình” “xuất thế gian”. 
Thực ra cảm thức về trăng của Hàn trong Chơi giữa màu trăng cũng là trăng trong những bài thơ khác của ông. Nhưng ở những bài thơ đó, dù là thơ tự do (Trăng vàng Trăng ngọc, Say trăng, Rượt trăng, Chơi trên trăng, Một miệng trăng,…) hay thơ tám chữ (Rướm máu, Sáng láng,…) thì vẫn còn chịu sự giới hạn của vần luật hoặc ít nhất là giới hạn số lượng âm tiết trong một dòng thơ nên đối tượng, cũng như cảm xúc của người thơ vẫn còn bị gò bó khi thể hiện. Cụ thể, với Hàn trăng là ánh sáng, song ở những bài thơ đó dù tác giả có nhân trăng lên nhiều lần (Hôm nay trăng sáng là trăng sáng) thậm chí trong Trăng vàng, Trăng ngọc ông như đem trăng rải phủ cả không gian: Trăng, Trăng, Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng / Trăng sáng Trăng sáng khắp mọi nơi thì người đọc vẫn không có cảm giác choáng ngợp ở lượng ánh sáng đó cũng như cảm xúc của chủ thể trữ tình thể hiện ở đó. Ngược lại, trong Chơi giữa mùa trăng, mạch thơ chảy tràn cùng với sự chảy tràn của câu chữ, sự tuôn trào ào ạt của cảm xúc đã thật sự làm hiện lên sống động một thế giới đầy Trăng, đầy ánh sáng. Cái thế giới có thể khải thị ấy cũng như cảm giác đắm đuối, đê mê, say sưa, ngây ngất của người thơ trước nó nổi trên bề mặt đã khiến người đọc như cũng bị lây lan, như lạc đi, mê đi, mộng du cùng chủ thể trữ tình: 
“Bây giờ chúng tôi đương ở giữa mùa trăng, mở mắt ra cũng không thấy rõ đâu là chín phương trời, mười phương Phật nữa. Cả không gian đều chập chờn những màu sắc phiếu diễu đến nỗi đôi đồng tử của chị tôi và tôi lờ đi vì chói lói... Ở chỗ nào cũng có trăng, có ánh sáng cả, tưởng chừng như bầu thế giới chở chúng tôi đây cũng đang ngập lụt trong trăng và đang trôi nổi bềnh bồng đến một địa cầu nào khác. 
Ánh sáng tràn trề, ánh sáng tràn lan, chị tôi và tôi đều ngả vạt áo ra bọc lấy, như bọc lấy đồ châu báu...” 

Hay ở một đoạn khác: “Thuyền đi êm ái quá, chúng tôi cứ ngỡ là đi trong vũng chiêm bao, và say sưa, và ngây ngất vì ánh sáng. Hai chị em như đê mê, không còn biết là có mình và nhận mình là ai nữa. Huyền ảo khởi sự. Mỗi phút trăng lên mỗi cao, khí hậu cũng tăng sức ôn hoà lên mấy độ, và trí tuệ, và mộng, và thơ, và nước, và thuyền dâng lên, đồng dâng lên như khói”... Những liên từ “và” tưởng chừng như thừa thải trong đoạn trích vừa bộc lộ cảm xúc chảy tràn của chủ thể trữ tình, vừa góp phần mở rộng, rọi soi đối tượng ở nhiều tầng bậc, phương diện. 
Rõ ràng với câu thơ ở hình thức câu văn xuôi, đối tượng được đề cập, khắc họa một cách đầy đặn, cũng như cảm xúc của chủ thể trữ tình không còn phải dồn nén. Ngôn từ chảy tràn trên giấy, cuốn theo nó là trạng thái đê mê, mộng du của chủ thể trữ tình hay trạng thái đê mê, mộng du của chủ thể trữ tình đã cuốn ngôn từ miên man tuôn chảy?. 
Bên cạnh sự tự do trong mô hình tổ chức câu thơ, thơ văn xuôi còn có thế mạnh ở khả năng liên tưởng dồi dào. Khả năng liên tưởng là tùy thuộc ở người thơ, song, không thể phủ nhận vai trò của loại câu có nhiều thành phần, chấp nhận cả sự trùng điệp của cấu trúc ở đây. Chính nó đã chấp cánh cho những liên tưởng thơ bay bổng.        Cõi mơ mà lại là giấc mơ tỉnh – thức thì nơi chốn ấy chỉ có thể được xây bằng tưởng tượng, bằng liên tưởng. Trong thi phẩm, không những tác giả dùng rất nhiều liên tưởng mà còn dùng kiểu liên tưởng trùng điệp, hai, ba hình ảnh xuất hiện liên tục: “Sông? Là một giải lụa bạch, không, là một đường trăng trải chiếu vàng”; “Động là một thứ hòn non bằng cát, trắng quá, trắng hơn da thịt của người tiên, hơn lụa bạch, hơn phẩm giá của tiết trinh”; “Chị tôi là một nàng Ngọc nữ, một hồn ma, hay một yêu tinh,… chị là trăng”. Những hình ảnh xuất hiện dồn dập, càng về sau lại càng bị đẩy xa bờ hiện thực, cập vào bến bờ tượng trưng, siêu thực. 
Có thể nói Chơi giữa mùa trăng là một cuộc du ngoạn bằng ý tưởng kì thú, đầy ngẫu hứng dù cuộc du ngoạn ấy dẫn người thơ đến với thế giới của cái Đẹp thuần khiết, trong trẻo của tự nhiên mà người thơ hằng tôn thờ, mơ ước hay nó chính là miền mơ, cõi trú mà ông đã dựng lên để ẩn náu, xoa dịu niềm đau hiện tại thì rõ ràng thể thơ với ưu thế này đã giúp tác giả cập được bến bờ của cái Đẹp một cách trọn vẹn nhất, thỏa mãn thế giới tinh thần ở mức cao nhất: “Những phút sáng láng như hôm nay, soi sáng linh hồn tôi, và giải thoát cái "ta" của tôi ra khỏi nơi giam cầm của xác thịt”. 
3. Freud cho rằng tác phẩm văn học là một giấc mơ. Nhưng giấc mơ thì ít nhất cũng có hai loại: loại thuần túy cõi miền bản năng vô thức – kiểu giấc mơ của người nằm mơ và loại giấc mơ có ý thức. Mơ mộng nghệ thuật là giấc mơ tỉnh – thức. Là giấc mơ tỉnh, giấc mơ có ý thức nhưng trạng thái say mơ của người thơ ở đây lại rất thực, nên trong Chơi giữa mùa trăng đã có giấc mơ lồng trong giấc mơ, có mộng lồng trong mộng. Thật kì diệu! Sự say mơ ấy đã giúp Hàn tạo dựng khung cảnh đêm trăng thật huyền ảo, nó là “thực tại của chiêm bao”. Điều này, đã thuộc về đặc điểm của thơ Hàn. Thi giới của ông nếu không là cõi giới của “mê loạn”, “cuồng điên” thì là của “ước mơ”, “huyền diệu”. Không phải vì, chỉ như Hàn tự thú nhận: A ha! Ta vốn người trong mộng, mà như nhà phê bình Đỗ Lai Thúy từng nhận định: “ Kiểu tư duy, khí chất và bệnh tật làm cho Hàn Mặc Tử luôn luôn phân thân, mộng mị và hoang tưởng” (Đỗ Lai Thúy, 2000, 225). Nòi thi sĩ vốn là những kẻ ưa mơ mộng, lại thêm hoàn cảnh đặc biệt nên mộng mơ của Hàn không chỉ như mộng mơ của bao người khác, nhất là với các thi sĩ lãng mạn. Họ mơ mộng và họ xây lầu mộng bằng những hình ảnh thi vị, đối lập với thế giới hiện thực họ muốn chối bỏ như thế giới đại ngàn trong tâm tưởng của con hổ ở vườn bách thú. Và, tuy mơ mộng nhưng vẫn đầy tỉnh táo vì họ ý thức nó là phi thực, là không có trong thực tế. Có thả hồn phiêu diêu mơ tưởng đến đâu rồi thì nhân vật của Thế Lữ cũng phải trở về thực tại: “Than ôi! Thời oanhh liệt nay còn đâu” (Nhớ rừng). Nhưng với Hàn thì khác! Cõi mộng của ông không có ranh giới thực ảo, không phải là sản trí của trí tưởng tượng mà là sản phẩm của vô thức, của những ẩn ức. Cõi mộng của ông cũng là miền huyễn tưởng, là cõi trú của ông. Ông thật sự sống với nó, nhập hẳn và siêu thoát trong nó. Và, với thi phẩm Chơi giữa mùa trăng này, phải chăng Hàn Mặc Tử đã có được cõi trú ấy, đã thật sự đạt được “cái khoái lạc trinh trắng”, “cái hạnh phúc sáng láng”, “cái vô ưu miên viễn”, “cái an nhiên tự tại” của con người trong khát vọng “giải thoát cái "ta" của tôi ra khỏi nơi giam cầm của xác thịt” bằng cách tan biến vào vũ trụ. Mơ mộng hay cõi Mộng ở đây không chỉ là trạng thái mà còn là tượng trưng sâu thẳm về bản thể người trong khát vọng giải thoát bằng con đường hợp nhất với vũ trụ của thi nhân. 
Tài liệu tham khảo
Chu Văn Sơn. (2003). Ba đỉnh cao thơ mới, Xuân Diệu – Nguyễn Bính – Hàn Mặc Tử. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục. 
Đào Trường Phúc. (1971). Tạp chí Văn. Số 179, 72 – 90. 
Đỗ Lai Thúy. (2000). Mắt thơ. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa thông tin. 
Hoài Thanh và Hoài Chân. (2000). Thi nhân Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học. 
Lê Thị Hồng Hạnh. (2006). Tạp chí ngôn ngữ. Số 10, 72 – 80. 
Nguyễn Văn Hoa và Nguyễn Ngọc Thiện. (1997). Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và nước ngoài. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học. Phan Cự Đệ. (1993). Thơ Văn Hàn Mặc Tử (Phê bình và tưởng niệm). Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục. 
Trần Thanh Mại.(1941). Hàn Mặc Tử (1912-1940). Tủ sách Những mảnh gương Tân Việt. 
Thu Tứ. (10 – 2003). Lục trăng mưa sao. Truy cập từ http://www.tienve.org  
Thụy Khuê. (1/2009 - 12/2012). Hàn Mặc Tử (1912 – 1940). Truy cập từ http://thuykhue.free.fr/
 Nguyễn Thị Chính



1 nhận xét:

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...