Du thủy trên sông Bạch Đằng
Trong cuộc đời có biết bao chuyến đi mà chúng ta khó nhớ hết.
Nhưng cũng có những chuyến đi để lại cho ta nhiều ấn tượng không thể nào quên.
Với tôi, chuyến du thuỷ bằng con thuyền nhỏ trên sông Bạch Đằng cùng một nhóm
anh chị em văn nghệ sĩ là như thế... Nhân kỷ niệm tròn 10 năm Trại sáng tác
VHNT của Hội VHNT Quảng Ninh tại Đà Lạt (2005-2015), các văn nghệ sĩ Quảng Ninh
từng tham dự Trại đã mời Ban Văn học (Hội VHNT TX Quảng Yên) và một số anh chị
em văn nghệ sĩ Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương v.v.. tổ chức một chuyến đi thực tế
sáng tác trên dòng Bạch Đằng giang (TX Quảng Yên).
Nghe nói được đi thuyền trên sông Bạch Đằng, cả
khách và chủ, không ai là không hào hứng. Bởi đây là con sông gắn với nhiều sự
kiện quan trọng trong lịch sử vẻ vang của dân tộc ta. Đặc biệt là chiến thắng
vang dội của quân dân nước Đại Việt chống đạo quân xâm lược phương Bắc hùng mạnh
vào năm Mậu Tý 1288. Cũng nơi đây, theo truyền thuyết, các đức vua Trần Minh
Tông, Lê Thánh Tông trên đường thị sát ra phủ Hải Đông từng dừng chân lại Bến
Ngự (Trại Yên Hưng xưa), ngắm trăng trên đồi Nguyệt Lĩnh và xúc cảm làm thơ.
Người đời sau gọi bến đó là Bến Ngự… Những câu thơ của người xưa vẫn còn đây:
Giáo gươm lởm chởm núi non dày. Mặt bể rung rinh sóng tuyết bay. Đất ráo mưa
xuân hoa dệt gấm. Thông reo gió tới lá khuơ mây… (Bạch Đằng giang-Trần Minh
Tông). Bờ biển chon von núi mấy hàng. Chập chồng chiều dọc lại chiều ngang. Đất
nhiều cá muối dân no đủ. Ruộng thiếu hoa màu thuế nhẹ nhàng… (An Bang phong thổ-
Lê Thánh Tông)
Có những dịa danh, dòng sông, núi non, Đất và
Người ở ngay bên ta mà ta cũng từng có thể biết và chưa biết, chưa hiểu thấu.
Nhân chuyến đi này các bạn sẽ cùng ôn lại những trang sử hào hùng, những kỷ niệm
một thời, giao lưu Thơ Nhạc và cùng nhau thưởng thức những món ẩm thực hải sản,
thực phẩm tươi sống của vùng sông nước Quảng Yên. Đấy cũng chính là mục đích tạo
cảm hứng sáng tác và quảng bá du lịch sinh thái, sông nước và lịch sử, văn hóa
Bạch Đằng giang.
Sáng tháng 5. Mùa hạ trải nắng mới trên mặt
sông. Anh chị em trong đoàn từ các nơi tập trung về Bến Ngự và xuống tàu đò, bắt
đầu cuộc hành trình. Sau cơn giông đêm qua, sáng nay trời thật trong trẻo, mát
mẻ. Cơn mưa đầu mùa dường như đã gội sạch không gian, gợi ra nhiều khát vọng
cháy bỏng trong cảm xúc, hứa hẹn những sáng tác mới! Theo lịch trình, chúng tôi
sẽ qua sông Rút, đầm Nhà Mạc, rồi tới Cái Tráp - Lạch Huyện, vòng qua Quỳnh Biểu
- Cống Mương... Nghĩa là từ trên sông, chúng tôi sẽ được thấy vòng đê uốn lượn,
với các đoạn khúc ôm lấy đảo Hà Nam, những cánh rừng ngập mặn, những bãi phù
sa, những ô đầm nuôi trồng thuỷ sản của cư dân Hà Nam, Thuỷ Nguyên, thấy công
trường đang thi công cầu Bạch Đằng trên tuyến đường Hạ Long - Hải Phòng. Chúng
tôi có cả một ngày rong ruổi trên sông nước...
Qua gầm cầu sông Chanh, từ dưới nhìn lên, thấy
dáng vóc cây cầu trên đầu sừng sững đang chở trên mình nó những dòng người và
xe cộ ngang sông. Đấy chính là dòng đời một vùng quê đang thao thiết chảy vào
cuộc sống như dòng nước cũng đang thao chiết chảy ngàn năm dưới chân. Đến bến
Phà Rừng, cửa sông Bạch Đằng hiện ra. Ai cũng ngỡ ngàng trước trời nước mênh
mông ấy, như choáng ngợp trước một bức tranh lụa kỳ vĩ! Là “dân bản địa”, tôi
tranh thủ giới thiệu sơ bộ về dòng sông đã mang nặng biết bao giang khúc và vận
mệnh lịch sử. Trong đó là lịch sử nhà Trần ba lần đại thắng Nguyên Mông. Không
thể không kể về sự tích bà hàng nước mách “lịch Thuỷ triều sông Bạch Đằng” và
mưu lược bày trận đồ bãi cọc của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa kinh nghiệm sông nước dân gian với tài thao lược của Trần Hưng Đạo
đã làm nên một chiến công vĩ đại, ghi vào trang sử hiển hách của nước ta. Và nhờ
đó mà dòng sông này còn vang vọng đến ngàn năm!
Bằng những tư liệu đã chuẩn bị, tôi hưng phấn
làm công việc của một “hướng dẫn viên du lịch”: Trận quyết chiến chiến lược
trên sông Bạch Đằng, Trần Hưng Đạo đã tính toán và bí mật cho quân sĩ chuẩn bị
và đóng hàng nghìn cọc gỗ bố trí thành các trận địa cọc dưới lòng sông Bạch Đằng.
Tài liệu khảo cổ tại bãi cọc Yên Giang cho thấy cọc được cắm theo hình chữ chi,
mỗi cọc có đường kính từ 15 đến 33cm, được bố trí thành chùm, từng cụm cách
nhau trên dưới 1m theo hướng ngược dòng sông. Đó là một công trình quân sự vĩ đại
và mang tính khoa học cao. Thiên tài quân sự của Trần Quốc Tuấn còn thể hiện ở
chỗ đã dụ được đoàn chiến thuyền hùng mạnh của địch vào đúng thế trận bày sẵn để
tiêu diệt. Khi Ô Mã Nhi - viên tướng khét tiếng trận mạc của Nguyên Mông - dẫn
đoàn thuyền chiến tới sông Bạch Đằng, thuỷ quân nhà Trần ra giao chiến và giả
thua; chiến thuyền Nguyên Mông đuổi theo tiến sâu vào trong họng sông Bạch Đằng…
Lúc ấy tướng nhà Trần là Nguyễn Khoái mới dẫn đội quân khiêu chiến nhử đoàn chiến
thuyền quân Nguyên vào bãi cọc. Khi thuỷ triều xuống, thuỷ quân nhà Trần gồm
hàng trăm chiến thuyền nhỏ lẹ cùng quân lính mai phục ở hai bờ sông tràn ra
thành một dải thuyền, chắn địch. Quân dân Đại Việt khí thế ngút trời, tên bắn
như mưa dồn các chiến thuyền địch vào trận địa cọc để phóng hoả. Giao tranh từ
giờ Mão đến giờ Dậu ngày 8 tháng 3 năm Mậu Tý (9-4-1288), quân dân nhà Trần đã
đại thắng. Gần 600 chiến thuyền, trên 4 vạn quân tướng của đế quốc Nguyên Mông
đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Tướng giặc Ô Mã Nhi bị bắt sống. Chiến thắng Bạch Đằng
1288 không chỉ đập tan cuộc xâm lược lần thứ ba của đế quốc Nguyên Mông hùng mạnh
và đi vào lịch sử của dân tộc chúng ta như một chiến công chói lọi, xoá sổ cả một
“hạm đội huyền thoại”, mà trên thực tế đã làm suy yếu và chấm dứt mộng bá vương
của một đế quốc phong kiến tàn ác đầy tham vọng…
Nhà văn Vũ Thảo Ngọc, nhà thơ Minh Đức, Chử Thu
Hằng cùng thốt lên: Thật hiếm có dòng sông nào trên đất nước ta lừng lẫy oai
hùng như Bạch Đằng giang! Các văn nghệ sĩ tranh thủ ghi chép. Hoạ sĩ Nghiêm
Vinh lấy giấy bút ra ký hoạ những cảnh sông nước, bãi rừng và những gương mặt bạn
bè. Còn tôi, với giọng đầy cao hứng tiếp tục giải thích, mở rộng: Bạch Đằng chảy
qua hai huyện Thuỷ Nguyên (Hải Phòng) và Yên Hưng nay là TX Quảng Yên (Quảng
Ninh) đổ ra cửa biển Nam Triệu. Sông Bạch Đằng, còn gọi là sông Vân Cừ, dòng chảy
mênh mông, sóng vỗ tung bờm trắng xoá. Trong Dư địa chí, Nguyễn Trãi từng mô tả:
“Sông Vân Cừ rộng 2 dặm linh 69 trượng, sâu 5 thước, núi non cao vót, nước suối
giao lưu, sóng tung lên tận trời, cây cối lấp bờ, thật là nơi hiểm yếu”. Tên
Vân Cừ được giải thích bởi khi nước triều lên có gió bắc thổi, hoặc nước triều
xuống có gió nam thổi, dòng sông cuộn lên những con sóng lớn bạc đầu như mây trắng.
Ngoài ra, sông Bạch Đằng còn gọi là sông Rừng, với bến đò Rừng, bến phà Rừng nối
đôi bờ Quảng Ninh - Hải Phòng. Người Yên Hưng trước đây từng lưu truyền câu
“Con ơi, nhớ lấy lời cha/ Nước lên, gió bấc chớ qua sông Rừng” để nói lên sự hiểm
yếu của sông. Bạch Đằng là cửa ngõ phía Đông Bắc và là đường giao thông quan trọng
từ biển Đông vào nội địa Việt Nam. Ngày nay, sau gần 8 thế kỷ kể từ trận chiến
bãi cọc Bạch Đằng năm ấy, địa lý dòng sông đã có nhiều thay đổi lớn. Theo sử
sách ghi lại, cửa biển ngày đó so với bây giờ cách nhau hàng chục km do phù sa
bồi đắp. Chắc nơi đây vào những tháng năm của thế kỷ bão táp thời nhà Trần, là
cửa sông sóng vỗ lưng trời như bờm ngựa tung trắng xoá? Thay đổi thế mà lòng
sông vẫn rộng ngút cả tầm mắt. Gió nắng quét những làn mỏng như chiếc chổi lau
bụi, sáng cả mặt gương sông! Chúng tôi háo hức cảm thấy mình như những thuỷ
binh trước giờ xung trận. Lại nhớ bài thơ của nhà vua Trần Minh Tông, trong đó
có hai câu: “Chạm mây gươm giáo xanh von vót/ Sóng tuyết khi đầy lại lúc vơi…”.
Thuyền đến Ngãnh Cốc, ngang địa phận thôn Đồng
Cốc (phường Nam Hoà) thì một sự cố bất ngờ đến với chúng tôi. Vào thời điểm ấy,
nước rặc mạnh, rút nhanh trơ lòng sông gần như tới đáy. Thuyền mắc cạn trên
bùn, ngay cạnh một khúc cồn nằm ngang sông. Nhà đò đã hết sức cố gắng rồ máy,
chống đẩy, lay đi lay lại, đò vẫn không thể nào nhích lên được. Chúng tôi đành
cắm sào đợi nước. Lại được dịp thả trí tưởng tượng khi có ai đó bảo: Biết đâu
thuở ấy bầy chiến thuyền hùng hậu của Nguyên Mông cũng mắc cạn như thế này và hoảng
loạn đè lên nhau bỏ chạy, đâm vào cọc mà tan thây…(!).
Hoàng Công Cư, nguyên Phó Giám đốc Công ty Quản
lý Đường Sông 3 (anh mới nghỉ hưu sau gần 40 năm bồng bềnh trên sông nước Quảng
Ninh), nói: “- Chúng ta đã không tính trước con nước, xuất phát chậm giờ nên gặp
phải lúc “con nước chết”, dòng sông cạn đáy… Ít nhất phải nằm chờ một tiếng nữa
mới may thoát khỏi bãi này!”. Mọi người ồ lên: Ái chà, chắc “các cụ” muốn cầm
chân đám cháu chắt hậu thế này tại đây để “thử thách” chăng? Vậy thì tranh thủ…
đọc thơ thôi!
Mọi người hào hứng hẳn lên. Tôi và Minh Đức - “nữ thi
sĩ miền sơn cước” - đứng ra dẫn chương trình giao lưu thơ ca ngẫu hứng ngay
trên đò. Nhà văn Vũ Thảo Ngọc cũng tham gia ý kiến ôn lại những ngày hoạt động
Trại Sáng tác VHNT của anh chị em văn nghệ sĩ Quảng Ninh ở Đà Lạt 2005.
Hoàng
Công Cư đọc một chùm thơ mở đầu. Rồi Đỗ Minh Tâm, Minh Đức, Vũ Thế Hùng, Tiên
Lãng, Chử Thu Hằng… ai cũng sôi nổi góp vui. Chợt nhớ có lần Vũ Thảo Ngọc nói sẽ
về thăm Hà Nam quê tôi nhưng sau đó đợi mãi không đến, khiến tôi rất buồn.
Nhưng cũng chính cái sự “lỡ hẹn” ấy đã giúp tôi có cảm xúc để viết bài thơ “Sao
chẳng về thăm” đăng trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội và Báo Hạ Long. Ký ức đánh
thức, tôi đọc một mạch bài thơ, vừa là để “hoá giải” lời trách, vừa là cho mọi
người cùng biết xuất xứ bài thơ…
Hoá ra không như Hoàng Công Cư nói, đã hơn một
tiếng trôi qua mà nước vẫn chưa lên, con thuyền vẫn không thể nhúc nhích ra khỏi
đáy sông. Tôi đề xuất “phương án 2”: Chuyển hướng, rút thuyền ra quay lên thượng
lưu sông Bạch Đằng! Tất cả đồng thanh: Rút! Rút! Bao nhiêu lời ví von vui đùa
được thốt ra theo con thuyền từ từ đẩy khỏi bãi cạn.
Ngược dòng, con thuyền lại hoà mình vào không
gian phơi phới gió nắng cửa sông nhằm hướng lên Cồn Khoai, Điền Công, Bo Gia
Đông... Đến đoạn sông Giá, một nhánh nhỏ chảy vào địa phận huyện Thuỷ Nguyên,
Vũ Nhang gợi ý: Ta ghé vào thăm khu quần thể di tích Tràng Kênh, Minh Đức (gồm
đền thờ Ngô Quyền, đền thờ Lê Đại Hành, đền thờ Đức thánh Trần, chùa Tràng Kênh
và Nhà tưởng niệm Chủ tịch HCM). Mọi người nhất loạt đồng ý.
Thuyền cập vào bến với những bậc đá lát rất
công phu. Mọi người bước lên, ngợp trong một không gian đền đài thật đẹp mang đậm
nét cổ kính kết hợp hài hoà hình khối, sắc màu kiến trúc thời hiện đại với hệ
thống cây xanh, cây cảnh được trồng và chăm sóc rất công phu. Chính khu quần thể
tâm linh nằm bên bờ tây sông Bạch Đằng này đã góp phần làm vợi bớt những gì sôi
động, bề bộn của không gian Khu công nghiệp Tràng Kênh, Minh Đức của nhà máy xi
măng, nhà máy điện đang ngày đêm toả nhiệt và khói bụi… Người ta có thể dạo bộ
dưới vòm cây xanh mát, lòng dịu đi và lắng đọng với hồn xưa muôn thuở. Có thể
nói đây là một điểm du lịch tâm linh và sinh thái mà các du khách cần biết và rất
đáng đến, đáng nhớ… Xem người lại ngẫm mình, khu quần thể Chiến thắng Bạch Đằng,
nơi chính trận chiến trên dòng sông Bạch Đằng ở Quảng Yên nay vẫn chưa làm được
điều này trong hệ thống du lịch để thu hút khách thập phương…
Chiều ngà ngà chuyển và dát vàng nắng trên mặt
sông! Thuyền chúng tôi quay về Bến Ngự, nơi sáng nay khởi hành. Bóng cao vút
nhà thờ bến Đạo Quảng Yên hiện ra mỗi lúc một lớn dần trong khung gầm cầu Sông
Chanh. Bóng nhà thờ soi xuống mặt sông long lanh, xao động bởi cây cầu Sông
Chanh như một nét mày thanh tú của thiếu nữ. Chiều sông nước gợi cảm đến bồi hồi!
Tức cảnh sinh tình, vì thế chăng mà bao đời nay có biết bao áng văn chương để đời
đã bắt đầu từ chính trên mảnh đất này?.
Dương Phượng Toại
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét