Người đương thời Thơ mới bàn về thơ Lưu Trọng Lư
Ngay từ
khi các bài thơ mới được in rải rác, trước ngày ra đời tập "Tiếng
thu" (1939), thơ Lưu Trọng Lư đã được bạn đọc hết sức quan tâm. Trên cả
hai báo Ngày nay và Văn học tạp chí (1935), Lê Tràng Kiều đã cho in bài "Một
nhà thơ mới rất chú trọng về âm luật: Lưu Trọng Lư", nhấn mạnh vai trò nhạc
điệu trong thơ Lưu Trọng Lư và chính chất nhạc đó đã kiến tạo nên một chất giọng
thơ kiểu mới.
Lưu Trọng Lư (1912-1991) - quê ở xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch,
tỉnh Quảng Bình - là một trong số những người khởi xướng và cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào
Thơ mới. Được ví như một “chiến tướng”, ngay từ đầu Lưu Trọng Lư đã xuất hiện cả
trên tư cách nhà thơ và người phê bình, luận thuyết, đấu tranh cho Thơ mới thắng
lợi. Hoài Thanh - Hoài Chân trong Một thời đại trong thi ca đã xác nhận
vai trò tướng Lưu: “Lần lượt những bài thơ mới, vốn làm từ trước, được đưa lên
mặt báo. Người hưởng ứng nhất là ông Lưu Trọng Lư. Sau khi đăng bài của ông
Phan Khôi chẳng bao lâu, Phụ nữ tân văn nhận được một bức thư hoan
nghênh ký cô Liên Hương (Faifo), một bài thơ mới Trên đường đời ký
Lưu Trọng Lư và một bài nữa Vắng khách thơ ký Thanh Tâm. Ký nhiều tên
cho rộn thế thôi chứ đi lại cũng chỉ một người” (Thi nhân Việt Nam, 1942)… Điều
chúng tôi đặc biệt quan tâm ở đây, bên cạnh những bài phát biểu quan niệm, trao
đổi với Phan Khôi, Tản Đà, Bùi Công Trừng về nghệ thuật Thơ mới và trực tiếp giới
thiệu thơ Xuân Diệu, Nam Trân… bản thân các tác phẩm thơ của Lưu Trọng Lư cũng
đã được người đương thời như Lê Tràng Kiều, Trần Thanh Mại, Việt Châu, Nguyễn Vỹ,
Hoài Thanh - Hoài Chân, Vũ Ngọc Phan, Kiều Thanh Quế… cùng phán xét, đánh giá
và tiếp nhận theo nhiều cung bậc khác nhau.
Ngay từ khi các bài thơ mới được in rải rác, trước ngày ra đời
tập Tiếng thu (1939), thơ Lưu Trọng Lư đã được bạn đọc hết sức quan
tâm. Trên cả hai báo Ngày nayvà Văn học tạp chí (1935), Lê Tràng
Kiều đã cho in bài Một nhà thơ mới rất chú trọng về âm luật: Lưu Trọng Lư.
Trong bài viết này, Lê Tràng Kiều nhấn mạnh vai trò nhạc điệu trong thơ Lưu Trọng
Lư và chính chất nhạc đó đã kiến tạo nên một chất giọng thơ kiểu mới: “Muốn chứng
tỏ các nhà thơ cổ biết rằng thơ mới là một thứ thơ có âm nhạc hẳn hoi, không gì
hay hơn là đưa thơ của Lưu Trọng Lư mà nói, một thi sĩ xưa nay rất chú trọng về
mặt âm nhạc của thơ. Lưu Trọng Lư chính là một người đầu tiên gieo hạt thơ mới
vào đất Bắc. Trong một số mùa xuân của báoPhong hóa, lần đầu Lưu quân cho đăng
mấy bài thơ của mình... rồi từ đó, mỗi kỳ luôn luôn trên mặt báo ấy người ta thấy
đăng những bài của Nguyễn Thế Lữ, của Tân Việt và của Vũ Đình Liên. Độc giả làm
quen với Thế Lữ dần dần quên lãng Trọng Lư. Điều ấy rất dễ hiểu, vì bao giờ người
ta cũng thích những cái thái quá hơn là những cái vừa chừng... Người ta ưa thơ
mới, người ta lại ưa thơ thật “mới”. Cứ bình tĩnh mà xét, thơ Trọng Lư không phải
là không mới, nhưng cái “mới” ở trong thơ Lưu Trọng Lư rất khó nhận vì nó mới ở
tình cảm, ở âm điệu, ở hình ảnh (images). Thơ Thế Lữ, thơ Huy Thông thì phần
nhiều “mới” ở tư tưởng, ở ý tứ, “mới” một cách rõ ràng hơn, “mới” một cách táo
bạo”... Lê Tràng Kiều nâng tầm so sánh thơ Lưu Trọng Lưu với các nhà thơ trong
nước và với thi sĩ tượng trưng nổi tiếng người Pháp Paul Marie Verlaine (1844-1896):
“Cũng như Paul Verlaine, Lưu Trọng Lư đã tạo thành một lối thơ riêng, hẳn là của
mình, một lối thơ vừa nhẹ nhàng, ngây ngô vừa mơ hồ, bóng bẩy, gợi những mối cảm
vừa phe phẩy vừa thâm trầm, một lối thơ mới mẻ, trong trẻo như nguồn mới chảy
ra, một lối thơ mà vần điệu rất là phóng túng, biết nương tựa vào nhau để tạo
nên một khúc nhạc thánh thót làm cho người nghe vừa
vui vừa buồn”…
Qua dẫn chứng bằng các bài Bên thành, Uyên ương, Lại nhớ,
Tiếng thu, Hoa bên đường… nhà phê bình cho rằng, ngay cả khi xuất hiện lớp nhà
thơ mới “mới một cách táo bạo” thì chất nhạc vẫn là mạch nguồn thơ Lưu Trọng
Lư và góp phần quyết định làm nên đặc trưng giọng điệu Thơ mới:
“Những tình cảm tả trong thơ Trọng Lư là một thứ tình cảm dồi
dào, mới mẻ, tế vi, tế vi quá cho nên người đọc khó nhận ra, vì thế, những bạn
hâm mộ thơ mới ít ưa thơ Trọng Lư bằng thơ Thế Lữ là một nhà thơ mới, “mới” một
cách táo bạo.
Nhưng đối phó với phái thơ cũ, thì thơ Trọng Lư là một cái
chiến lũy chắc chắn vô cùng, vì thơ Trọng Lư có một cái âm nhạc rất dồi dào, rất
phong phú”...
Sau khi tập Tiếng thu ra đời, nhà phê bình Trần
Thanh Mại đã có bài viết Lưu Trọng Lư: Thi sĩ giang hồ (Đông Dương tuần
báo, số Xuân Canh Thìn, 1940; in sách Đời văn II, 1942) và đặc biệt đề
cao chất thơ trong thơ Lưu Trọng Lư:
“Nếu như ngày nay trong cái thể thơ người ta đang hay làm bây
giờ, và người ta đã gọi là thơ mới, có người làm thơ “thuần túy” thì người ấy
chỉ có thể là Phạm Văn Dật, tác giả Bâng khuâng, và Lưu Trọng Lư, tác giả Tiếng
thu.
Lắm câu thơ của Lư có những âm hưởng của thơ Đường, nó dịu
dàng phơn phớt, mát mẻ, lơ thơ, và hay gợi cho người đọc những nỗi u hoài mênh
mang, bát ngát; những mối nhớ nhung nhè nhẹ xa xăm: Chiều sương, rừng tím,
lệ muôn hàng/ Xao xác ghe đầy bến Trúc Lang/ Cây, nước, say theo người tráng
sĩ/ Con đò quên cả chuyến sang ngang (Chiều cổ)”…
Một cách thành thực, Trần Thanh Mại cũng nêu ra những sở đoản
của thơ Lưu Trọng Lư mà theo ông, nó như hệ quả tất yếu của một chất thơ sở trường
đã đi quá giới hạn:
“Nhưng mà đại phàm không có việc gì không có bề mặt và bề
trái của nó, không có đồng thời với phần hay cái phần dở của nó.
Nếu như cái đời giang hồ của Lưu Trọng Lư đã cho chàng những
thi tứ dồi dào, những cảm hứng bồng bột, một nghệ thuật dễ dàng, thì chính nó lại
cũng không cho chàng có thì giờ để kiểm soát lại những thi tứ, cảm hứng và nghệ
thuật ấy: chàng còn phải chạy ngược, chạy xuôi chật vật để giành với đời sự sống
hằng ngày”...
Trần Thanh Mại cũng thẳng thắn chỉ ra những câu chữ, hình ảnh,
thi tứ mà ông cho là trùng lặp (cho dù hậu thế có thể cảm nhận khác hơn):
“Lưu Trọng Lư còn có cái tật xấu nữa là ít săn sóc đến những
câu của mình đã viết ra. Như trong bài Giang hồ mà cái năng lực dẫn
khởi, não nùng không còn chối cãi được nữa, chàng luôn luôn vấp phải những ý tứ
và những chữ lặp đi lặp lại nhiều lần. Vừa mới ta thấy:
Trăng vàng ở cuối non tây ngậm buồn
Thì cách đấy dăm hàng ta lại thấy:
Con thuyền còn buộc trăng buông lạnh lùng.
Rồi tiếp liền theo ngay:
Chừ đây trăng nước não nùng,
Chừ đây hoa cỏ bên sông rũ buồn.
Để cách đấy ít câu ta lại thấy:
Ngay sau đó, tác giả Việt Châu trong bài Đọc thơ tình cảm
(thơ Lưu Trọng Lư) và bàn với các ông Lê Tràng Kiều, Trần Thanh Mại in
trên báo Mai ở
Sài Gòn (số 85, ra ngày 12-5-1939, tr.9) đã nêu rõ quan niệm riêng của mình về
lối “thơ tình cảm” và đề cao thơ tình cảm của Lưu Trọng Lư:
“ Có người sẽ hỏi: Thơ nào chẳng là tình cảm?
Thơ tình cảm đây là sánh với những trường thơ lạ khác
mà mang danh. Đã chẳng có những trường thơ lạ… rất lạ đó sao?
Viết bài này tôi chủ ý nói đến một thứ thơ thuần
tình cảm mà thôi - thứ thơ mà ông Lưu Trọng Lư đứng đầu trong
phái… Vì thế, bài này cũng có thể đeo cái nhan đề làĐọc thơ Lưu Trọng
Lư.
Đọc và bàn Lưu Trọng Lư, tôi muốn hoàn toàn lấy một
hồn thơ để hiểu một hồn thơ bạn. Tôi không muốn dẫn một thành ngữ
nào, một châm ngôn của triết nhân nào; tôi cần phải bình dị"...
Sau khi xác định vai trò của ý thơ, lời thơ và chất nhạc
trong lối thơ tình cảm, Việt Châu chuyển sang phê phán kiểu thơ minh họa, vụ lợi,
chỉ biết nặn chữ nặn nghĩa mà thiếu chất trữ tình:
"Tóm lại, không văn hoa chi hết, ta phải nói
thẳng: 1- Thi nhân có cảm tình như thường nhân nhưng giàu hơn. 2- Thi
nhân có những ý đẹp lời êm. 3- Thi nhân vẫn là người, mà lại người
nhiều hơn chúng ta nữa. Thế thôi.
Vì đó, ta thấy say sưa thấm thía khi đọc thơ tình
cảm. Ta thấy ta được có người nói ra dùm những cõi lòng
của ta một cách đầy đủ, thỏa thích.
Vậy chỉ có thơ tình cảm mới là thơ "chính
danh" mà thôi.
Tại sao người ta còn cầu kỳ và lập dị để viết
những lời thơ mắc mớ không hợp với lòng người? Sự thực, những loại
thơ khác kia cũng có cái hay riêng của nó, nhưng đó chỉ là cái tiểu
xảo lòe người. Tôi quả quyết rằng thi sĩ của các phái thơ khác
kiahọ làm thơ bằng óc nhiều hơn bằng tim. Hay bảo là: họ chỉ làm
bằng óc, cũng được.
Sao lại nói là làm thơ bằng óc? Họ nghĩ rồi, bóp
đầu, bóp trán như những nhà khảo cứu khoa học, để rồi… phát minh.
Phải nên nói là họ "phát minh" ra mới đúng. Họ cầu kỳ đến
khó chịu, chúng tôi đã phải mệt với những câu lảm nhảm vô vị mà
gần đây người ta - vì theo thời thượng, trào lưu - xu phụ, tán
dương"...
Rồi sau khi bình giảng các bài Xoan đỏ, Cô bé vườn đông,
Một chút tình, Việt Châu đi đến kết luận:
"THƠ LƯU TRỌNG LƯ là thơ của người đời, thơ của
thiên nhiên.
Và chỉ như thế mới là THƠ mà thôi.
Tôi sẽ thấy ai rất đáng bỉ, khi họ sẽ phê bình thơ
Lưu Trọng Lư với những chữ: hứa hẹn, tài hoa, chân tài, thiên tài,v.v…
Ông Lưu Trọng Lư, cũng như tác phẩm của ông không cần một chút xíu
nào cái giọng phê bình rất nhạt (tuy rằng kêu) ấy.
Phải chăng, ông Lưu Trọng Lư! một tiếng khen thành
thật, một niềm tri kỷ thanh cao quí gấp vạn lần lời xu phụ, tán -
dương - vô - ý - thức?"...
Rồi đến khi Lưu Trọng Lư in bài thơ Vô liêu đến chiếc đồng
hồ trên Tiểu thuyết thứ Bảy và bị phê phán khá nặng lời thì Ngô
Vũ đã lên tiếng phản biện, phản vấn, công kích trở lại trong bài báo Hai
bài thơ... hài hước? (Tiểu thuyết thứ Bảy, số 343, ra ngày 1-1-1941)
và đi sâu bình giảng nghĩa lý bài thơ:
"Báo Đồng thanh trong Nam vừa đây có một bài
nói về hai bài thơ của Tiểu thuyết thứ Bảy đăng trong số 338, ra ngày
7 Dècembre 1940. Bài báo ấy không ký tên, và có ý nói rằng chúng tôi đã cho
đăng lên báo mình hai bài thơ “hài hước” mà không biết. Hài hước bởi vì tác giả
bài báo kia đọc lên không hiểu chi chi cả...
…Còn bài thứ hai của thi sĩ Lưu Trọng Lư thì lại càng dễ hiểu
hơn nữa, bởi thi sĩ đã để hai câu Kiều này lên trước:
Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ,
Một màu quan tái bốn mùa gió trăng.
Hai câu Kiều tỏ rõ cái tâm trạng của một kẻ nhớ cảnh xa xôi rộng
rãi của đời lang thang.
Đôi kim đã chết trên giờ thê nhi.
Thi sĩ ở một cái tỉnh nhỏ buồn tẻ mà.
Sông bờ thưa vắng biệt ly,
mà dân thì hiền, của thì rẻ:
Người lành của rẻ có đi cũng sầu.
Bởi vậy, rượu uống một mình hình như cũng nhạt, thơ cũng hóa
ra suông tình:
Thơ suông rượu cũng xuống mầu,
Người thơ rượu quanh quẩn chỉ những lên lầu rồi lại xuống lầu,
như con ngựa chồn chân đập chân trong tầu ngựa hẹp:
Lên lầu rồi lại xuống lầu, dở say.
Thơ như vậy, và ý tình như vậy mà trong làng văn tự cũng còn
có người chê bai được, thực đáng buồn quá lắm. Cho mới biết ở đời này bao giờ
cũng còn có nhiều người chỉ biết có lòng đố kỵ mà thôi chứ không cần gì nghệ
thuật hay tư tưởng!”…
Trong phần mở đầu công trình đại thành Thi nhân Việt Nam,
hai nhà phê bình Hoài Thanh - Hoài Chân trước hết xác định vai trò Lưu Trọng Lư
trên tư cách “Người hưởng ứng thứ nhất” phong trào Thơ mới: “Lần lượt những bài
thơ mới, vốn làm từ trước, được đưa lên mặt báo. Người hưởng ứng nhất là ông
Lưu Trọng Lư. Sau khi đăng bài của ông Phan Khôi chẳng bao lâu, Phụ nữ tân
văn nhận được một bức thư hoan nghênh ký cô Liên Hương (Faifo), một bài
thơ mới “Trên đường đời” ký Lưu Trọng Lư và một bài nữa “Vắng khách thơ” ký
Thanh Tâm. Ký nhiều tên cho rộn thế thôi chứ đi lại cũng chỉ một người. “Tình
già”, “Trên đường đời”, và “Vắng khách thơ” là ba bài mang tên thơ mới được
đăng báo trước nhất. Trong ba bài ấy thì bài thứ ba đã là một bài có giá trị. Kế
đó, Phụ nữ tân văn còn đăng thơ mới của Nguyễn Thị Manh Manh (tức
Nguyễn Thị Kiêm), của Hồ Văn Hảo và nhiều người nữa”...
Hai nhà phê bình tiếp tục nhấn mạnh chất thơ và “dòng thơ”
Lưu Trọng Lư, xác định những nét riêng đặc sắc của phong cách thơ đặt trong
tương quan một thời đại thi ca:
“Tôi muốn xếp riêng vào một dòng những nhà thơ tuy có chịu ảnh
hưởng phương Tây nhưng rất ít và cũng không chịu ảnh hưởng thơ Đường. Thơ của họ
có tính cách Việt Nam rõ rệt.
Đứng đầu dòng này là Lưu Trọng Lư. Điều ấy không có gì lạ.
Lưu Trọng Lư nhác đọc sách nhất trong các thi sĩ đương thời. Họ Lưu ưa sống
trong cuộc đời nhiều hơn trong sách vở. Sách Tàu hay sách Tây cũng vậy. Thi
nhân chỉ nhớ mang máng một ít Kiều, một ít Chinh phụ ngâm, năm bảy
câu trong bản dịch Tỳ bà hành cùng vài bài cổ phong từ khúc của Tản
Đà. Trong những thể thơ ấy, Lưu Trọng Lư đã gửi rất dễ dàng nỗi đau buồn riêng
của một người thanh niên Việt Nam thời mới…
Các nhà thơ về dòng này thường có lời thơ bình dị. Họ ít ảnh
hưởng lẫn nhau và cũng ít có ảnh hưởng đối với thi ca cận đại. Thi phẩm của họ
có tính cách vĩnh viễn nhiều hơn tính cách một thời. Vả họ nương vào thanh thế
phương Tây cũng ít. Lưu Trọng Lư có thơ đăng báo trước Thế Lữ. Nhưng đến khi Thế
Lữ ra đời, người ta tưởng không có Lưu Trọng Lư nữa. Gần đây trong hàng thanh
niên hình như có người lại sực nhớ tới tác giả Tiếng thu. Phải chăng thi
ca Việt Nam đã đi đến chỗ xoay chiều?”…
Rồi sau khi cảm nhận, phân tích, lý giải, biện luận về mối
quan hệ giữa đời và thơ, thế giới tưởng tượng, hình ảnh và âm điệu câu thơ Lưu
Trọng Lư, hai ông đi đến kết luận: “Sao lại có người có thể đọc những câu thơ
như thế mà vẫn dửng dưng. Họ bảo những nỗi đau thương ấy thường quá. Vâng, thường,
thường lắm, thường như hầu hết những nỗi đau thương thành thực của loài người.
Tôi không muốn nói nhiều. Trước sự đau thương của người bạn, tôi muốn im lìm,
kính cẩn. Tôi chỉ biết, dầu có ưa thơ người này người khác, mỗi lúc buồn đến,
tôi lại trở về với Lưu Trọng Lư. Có những bài thơ tôi cứ vương vấn trong trí
tôi hằng tháng, lúc nào cũng như văng vẳng bên tai. Bởi vì thơ Lư nhiều bài thực
không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là tiếng lòng
thổn thức cũng hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta”…
Trong tâm thế hướng đến phác họa toàn cảnh bức tranh văn học
nửa đầu thế kỷ, Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại (Quyển III, 1943)
đã nhấn mạnh tính phổ quát của những cảm thu, tình thu, cảnh thu, sắc thu, chiều
thu, ngày thu và tâm tưởng bốn mùa thu:
"Ấy, đọc Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, tôi
vừa tưởng nhớ đến tiếng thu, cái tiếng thu làm cho cỏ cây rầu rĩ úa
vàng, tôi lại vừa cảm thấy cái tiếng thu cứ ít lâu lại cứ văng vẳng
bên mình, cái tiếng mà ta không thể căn cứ vào thời gian và không gian
mà cho tinh chất..."
…"Tiếng thu" của Lưu Trọng Lư thật không khác
gì những tiếng đàn thu não nùng của Verlaine trong Bài hát thu
về. Thật nó nhẹ nhàng từ âm điệu đến ý tưởng, nó cám dỗ ta bằng
sự mơn man, rồi thấm dần vào cõi lòng ta, làm cho ta phải ngây ngất
về cái hiu quạnh ở bên sự sống của loài người. Người cô phụ, con nai
vàng, bất cứ là người hay vật, đã góp phần vào cuộc sống thì đều
phải rạo rực, ngơ ngác về cái tiếng thổn thức của mùa thu dưới ánh
trăng mờ.
Mà ngọn thu phong ấy còn đưa về cho ta những gì nữa?
Nó đưa về làn mây bạc với mọi điều mơ mộng của tuổi xanh, làm cho
người thanh niên, dẫu có cái buồn vơ vẩn, nhưng vẫn chứa chan trong
lòng biết bao tình yêu đằm thắm: Mây trắng bay đầy trước ngõ tre/
Buồn xưa theo với gió thu về (Mây trắng)…
Tiếng thu đã đến khắp muôn vật muôn loài, thì trong
những lúc u sầu, tiếng gì buồn dịu chả có thể làm cho ta kể là
tiếng thu? Cho nên “tiếng thu” có thể là tiếng giọt mưa đông tí tách,
giọt mưa hạ rào rào, hay tiếng chuông phảng phất trong bầu trời xuân.
“Người buồn cảnh có vui đâu…”. Lúc nào trong tâm
hồn ta còn vẳng tiếng thu, thì lúc ấy ta còn thấy cái sầu man mác
nó tràn lan đến cảnh vật bên mình; rồi bất kỳ một âm thanh gì nhè
nhẹ chìm chìm, có thể gợi nỗi buồn trong lòng ta, đều làm cho ta
vấn vương thắc mắc…
…Nhưng Lưu Trọng Lư là một người buồn, nên thơ ông, khi
đọc lên, buồn vô hạn. Ngay như ngày nắng mới là một ngày vui cho tất
cả mọi người, mà riêng ông lại mượn ngày nắng mới để thở than về một
thời ký vãng đau thương: Mỗi lần nắng mới hắt bên song/ Xao xác
gà trưa gáy não nùng”...
Từ đây Vũ Ngọc Phan đi sâu phân tích những đặc điểm thuộc về
thi tứ, cảm xúc, âm điệu, nội dung và hình thức nghệ thuật các bài thơ, câu
thơ:
“Cái hay trong thơ của Lưu Trọng Lư ở sự thành thực,
tấm lòng sầu não của ông thế nào, sự ước mong của ông thế nào và
có thể thổ lộ ra được chừng nào, ông thổ lộ ra chừng ấy. Ông không
hề gò từng chữ, bó từng câu để cho lạc mất ý mình; thơ ông nếu lời
tinh tế thì tự nó tinh tế, chứ thật ông không bao giờ gọt dũa. Những
chữlao đao, la đà, tần ngần trên này là những chữ rất tự nhiên,
người nào say đều biết nói ra cả, không riêng gì ông. Cái hay ở như
toàn bài, ở như cái ý say nó bao trùm hết cả bài thơ, không ở riêng
một chữ nào.
Ông không hề nắn nót lời thơ, nên trong những bài
trường thiên, thường có rất nhiều chữ trùng, ý điệp. Trong một bài
(Bài Giang hồ trong tập Tiếng thu) - đã đành rằng dài -
mà có tới bốn câu đều có chữ "lạnh lùng":
- Con thuyền còn buộc, trăng buông lạnh
lùng;
- Gió đùa trăng lên bãi lạnh lùng;
- Vội vàng khép cửa gió heo lạnh lùng;
Vẫn biết những câu ấy ở cách xa nhau mươi dòng, nhưng
nếu đứng vào phương diện nghệ thuật mà xét thì cũng khí "lạnh
lùng" nhiều quá. Rồi lại có những câu na ná một điệu như những
câu trong Tỳ bà hành:
Khoan đừng tơ tưởng vợ con chuyện nhà;
Giang hồ rượu ấy còn pha lệ người;
Đợi trầm bay rộn rã lời ca;
Nghe xong ta ngắm trời xa; vân vân…
Một bài như thế, nhưng lại có những câu tuyệt diệu như
sau này:
Hết say vẫn bàng hoàng trong mộng,
Xót xa thay cái giống giang hồ!
Ngón đàn thêm một tiếng tơ,
Mà người sương gió nghìn thu nhọc nhằn.
…
Thôi rồi ra chốn nước non,
Lồng son lại để sổ con chim trời.
Đọc thơ Lưu Trọng Lư, ta nên coi như những tiếng buồn
thảm của lòng mà không nên xét về nghệ thuật. Tuy thế, thơ ông vẫn
có một cái đặc biệt là rất giàu về âm điệu, nên đọc dễ nhớ, dễ
thuộc lắm. Còn ý và lời thơ thì nửa cũ, nửa mới, làm cho những
người chuộng hẳn cũ và những người thích hẳn mới đều không ưa, nhưng
thơ họ Lưu đã tự vạch lấy cái địa vị rất xứng đáng của mình. Có
thể nói thơ ông là tấm gương phản chiếu tâm hồn một hạng thanh niên
Việt Nam buồn nản trong lúc hai văn hóa Đông Tây giao nhau.
Thử hỏi những người thanh niên trí thức Việt Nam, mấy
ai không nghe văng vẳng "tiếng thu" ngân trong những lúc lặng
lẽ mơ màng với hồn thơ và hồn đất nước? "...
Từng có lần nhà phê bình Kiều Thanh Quế sau khi điểm danh 32
tác giả và số tập thơ kèm theo (cả thơ mới và cũ) trong sách Ba mươi năm
văn học (1941), đã xác định: "- Lưu Trọng Lư trong rừng thẳm,
trên lưng “con nai vàng ngơ ngác”, nâng niu chiếc sáo trúc thổi khúc Tiếng
thu (1939) tuyệt vời”...; thì qua ba năm sau, ông viết bài Thi sĩ Lưu
Trọng Lư với Tiếng thu (Tri tân, số 138, tháng 4/1944). Trong phần mở đầu,
Kiều Thanh Quế tán đồng các ý kiến của Trần Thanh Mại, Nguyễn Vỹ và đi đến xác
quyết thơ Lưu Trọng Lư “bao giờ cũng chỉ biết chú trọng có âm thanh và nhạc điệu”
gắn với các thuộc tính “Khi thì nỉ non…”, “Khi thì lẳng lơ…”, “Khi thì sang sảng
như tiếng hát đò đưa…”, “Khi thì buồn bã lạ…”, “Khi thì ai oán não nùng, đầy
vơi niềm trắc ẩn, tràn ngập lòng xót thương”… Ở phần sau, Kiều Thanh Quế cho biết:
“Nhưng du dương nhứt, réo rắt nhứt và tượng trưng nhứt, có lẽ
là khúc Tiếng thutuyệt vời:
Em không nghe mùa thu
dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
hình ảnh kẻ chinh phu
trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu,
lá thu kêu xào xạc,
con nai vàng ngơ ngác
đạp trên là vàng khô?
Giá trị của bài Tiếng thu này là ngoài việc phá được
một âm thanh du dương, một nhạc điệu réo rắt, còn tượng trưng một bức họa chấm
phá: một bức thủy mặc Tàu, hay một tấm Kakemono Nhựt cũng nên!
Một tấm Kakemono Nhựt thì có lẽ đúng hơn! Vì tôi đã may mắn
tìm ra được một tấm tranh Nhựt có những nét chấm phá hệt như bức họa Tiếng
thu của Lưu Trọng Lư. Xin trình bày dưới đây, để tặng thi sĩ họ Lưu và để
hiến tất cả độc giả từng nâng niu tập thơ Tiếng thu:
(1) Oku - yama ni
(2) Momiji fumi wake
(3) Naku shika no
(4) Koe kiku tokizo
(5) Aki wa kamshiki
Bài thơ Nhật ấy, tôi bất tài, không thể dịch y nguyên tác ra
quốc văn nổi. Còn thoát ý nó, lại là việc thừa. Vì trước tôi, Lưu Trọng Lư đã
thoát ý nó, viết nên bài Tiếng thurồi.
Vậy để làm quà cho những bạn đọc hiếu kỳ, tôi chỉ xin chép
hai bản Pháp văn của bài thơ Nhựt ấy:
Bản Pháp văn I:
(1) Au coeur de la montagne,
(2) Foulant l’erable qu’il écarte,
(3) la cerf gémit:
(4) Et à l’écouter, jamais
(5) L’automne ne m’a pesé plus triste!
Bản Pháp văn II:
(5) Combien triste est l’automne
(4) Quand fentends la voix
(3) Du cerf qui brâme
(2) En foulant et dispersant les feuilles des érables
(1) Dans les profondeurs de la montagne! ”...
Tuy nhiên, Kiều Thanh Quế không cho biết xuất xứ. Nay xin nói
thêm, bài thơ này từng được dẫn với đầy đủ nguyên bản tiếng Nhật, phiên âm, dịch
nghĩa và dịch thơ trong tập Le problème de la poésie Japonaise, Paris,
1938; tr.38-39 (Tư liệu do cố Nguyễn Hữu Đang cung cấp cho chúng tôi vào năm
1994 - NHS)...
Qua trường hợp này, có thể thấy Lưu Trọng Lư đã thực sự chịu ảnh
hưởng, tiếp thu, mô phỏng bài thơ Nhật và “thoát ý nó”. Tuy nhiên, đây hoàn
toàn không phải là bản dịch thuần túy. Có thể khẳng định Lưu Trọng Lư đã tiếp
nhận tứ thơ và sáng tạo lại, chuyển hóa bài thơ từ năm câu thành chín câu với
ba phân đoạn, kết thúc mỗi phân đoạn là một câu hỏi, tạo nên một tác phẩm thi
ca giàu hình ảnh, nhạc điệu và man mác chất trữ tình. Trên tất cả, thơ Lưu Trọng
Lư đã được người đương thời yêu mến, tiếp nhận, luận bình, đánh giá cao bằng
chính thước đo giá trị nghệ thuật.
Trả lờiXóađại lý vé máy bay eva tại tphcm
vé máy bay giá rẻ đi mỹ khuyến mãi
phong ve korean air
mua vé máy bay đi mỹ
vé máy bay đi canada giá rẻ
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Kien Thuc Du Lich