Có thể căn cứ vào các chữ kỵ húy để xác minh thời điểm Nguyễn Du viết Truyện Kiều
Vấn đề này trước đây đã được mọi người căn cứ vào quyển Đại
Nam chính biên liệt truyện của Quốc sử quán triều Nguyễn, mà tin rằng Nguyễn
Du đã viết Truyện Kiều sau khi đi sứ nhà Thanh về và ông chỉ kỵ húy về đời Gia
Long thôi.
Nhưng năm 1943, học giả Đào Duy Anh đã có bài Nguyễn Du viết
Đoạn trường tân thanh vào lúc nào?(1), cho rằng Nguyễn Du đã viết Truyện Kiều
trước khi đi sứ nhà Thanh nên đã gây ra một số nghi vấn.
Cụ đã phủ nhận điều ghi chép trong Đại Nam chính biên liệt
truyện và cho là: “Sách liệt truyện nói rằng, Nguyễn Du đi sứ về thì có bộ Bắc
hành tạp lục và Thúy Kiều truyện hành thế, nhưng sách Liệt truyện sơ tập soạn
ở đời Tự Đức thứ 5, tức là sau khi Nguyễn Du mất đến 30 năm cũng có thể chép
sai được”. (Thực lục cũng có chỗ chép sai huống hồ là Liệt truyện).
Cụ đã theo bài Tựa Kim Vân Kiều án của Nguyễn Văn Thắng để
chứng thực cho ức thuyết của mình nhưng cụ đã không nhận thấy những sai lầm
trong bài viết ấy, mà chỉ căn cứ mỗi chức vị của Nguyễn Du là “Quan Đông các”
để lập luận.
Sau bài viết ấy của cụ Đào Duy Anh, có hai ức thuyết chính
đã được đặt ra, cho rằng quyển Đoạn trường tân thanh, tức Truyện Kiều đã được
Nguyễn Du viết ra từ trước thời Gia Long.
Ức thuyết thứ nhất
Ức thuyết này do GS Hoàng Xuân Hãn chủ trương cho rằng,
Nguyễn Du đã viết Truyện Kiều từ đời Tây Sơn (1788-1801). Giáo sư đã nêu ra
lý do là trong Đoạn trường tân thanh có những lời phê bình của Vũ Trinh và
Nguyễn Lượng(2) mà Nguyễn Lượng (Hoàng Xuân Hãn đã ghi sai là Nguyễn Thành) đã
mất từ năm 1807 thì làm sao có thể viết lời phê bình, trong khi Truyện Kiều mãi
tới năm 1814 mới được ra đời?
Chúng tôi nhận thấy phải đặt lại vấn đề vì các lời phê bình
ấy có phải là của Vũ Trinh và Nguyễn Lượng không?
Nếu so hai bản Đoạn trường tân thanh của Thám hoa Nguyễn Hữu
Lập san cải và của Giá Sơn Kiều Oánh Mậu chú thích thì những lời bình ấy đều
không giống hẳn nhau(3). Chính Nguyễn Hữu Lập đã có nhận xét rằng: “Tôi không
vì quyển Truyện Kiều là một truyện phong tình mà không trân trọng nó, nhưng
xem các lời phê bình của hai ông Vũ Trinh và Nguyễn Lượng thì thấy còn chưa
được mười phần xác đáng”.
Chiêm Vân Thị trong quyển Thúy Kiều truyện tường chú đã có
nhận xét về các lời phê bình của hai ông Vũ Trinh và Nguyễn Lượng như sau: “Kinh
bản có lời phê bình của họ Vũ và họ Nguyễn. Có người xưng hai nhà này là bậc
danh nhân đồng thời với Hồng Sơn tiên sinh song xét những lời phê bình đó đều
thấp kém quê mùa. Có lẽ là một tay xoàng xĩnh nào mượn tiếng đó thôi, chứ
không phải là danh nhân”.
Lời nhận xét đó cũng đúng thôi và trong các lời phê bình ấy
có câu còn ghi sai lầm là của Nguyễn Lượng như thí dụ sau đây:
Thân tàn gạn đục khơi trong,
Là nhờ quân tử khác lòng người ta.
Mấy lời tâm phúc ruột rà,
Tương tri dường ấy mới là tương tri.
Chở che đùm bọc thiếu gì,
Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay.
Thoắt thôi tay lại cầm tay,
Càng yêu vì nết càng say vì tình.
Thêm nến giá, nối hương bình,
Cùng nhau lại chúc chén quỳnh giao hoan.
Lời phê: 二 人 復 入 繡 幃 百 種 歡 娛 只 不 言 雲 雨 事.
Nhị nhân phục nhập tú vi bách chủng hoan ngu chỉ bất ngôn
vân vũ sự (Kim Trọng và Thúy Kiều, hai người lại vào trong màn gấm vui mọi
cách khoái lạc chỉ không nói đến chuyện mây mưa thôi).
Chép như vậy thì sai hẳn vì câu đó là của Thanh Tâm Tài
Nhân trong Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc, chứ không phải của Nguyễn Lượng.
Vậy căn cứ vào những nhận xét trên, chúng tôi cho rằng, ức
thuyết của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã không thể chấp nhận được và các chữ kỵ
húy nếu có phải thuộc về triều Tây Sơn chứ không thể thuộc triều Gia Long được.
Ức thuyết này do GS Nguyễn Tài Cẩn chủ trương cho rằng,
Nguyễn Du đã viết Truyện Kiều từ trước đời Gia Long. Trên tạp chí Nghiên Cứu
Văn Học số 11-2005, Giáo sư đã dựa vào niên đại Cảnh Hưng 40 (1779) và khảo
sát về ngôn từ cho là kỵ húy cùng với các từ địa phương mà cho rằng, Nguyễn
Du đã viết Truyện Kiều từ trước đời Gia Long (1802) trải qua nhiều giai đoạn
như sau:
“Giai đoạn thai nghén bắt đầu bằng việc tóm lược toàn bộ cốt
truyện của Thanh Tâm Tài Nhân khoảng năm 1779, giai đoạn khởi thảo 900 câu đầu
tiên khoảng năm 1783-1785, giai đoạn hoàn thành cơ bản diễn âm tại quê hương
vợ ở Thái Bình năm 1787-1790, giai đoạn tổng duyệt và sửa chữa tại vùng quê
Tiên Điền khoảng năm 1796-1802, và giai đoạn tiếp thu ý kiến của bạn bè, tự
nhuận sắc thêm một số câu, một số chữ cho tận đến khi qua đời ở Huế (1820)”.
Như vậy, theo Nguyễn Tài Cẩn thì từ khi thai nghén đến khi
hoàn thành Nguyễn Du đã phải bỏ ra 41 năm, mà thực sự viết chỉ khoảng 20 năm.
Chúng tôi nhận thấy những lời phỏng đoán ấy của GS Nguyễn
Tài Cẩn đã không có một chứng cứ nào cụ thể nên không thể chấp nhận được. Điều
vô lý hết sức là khi Nguyễn Du mới 14 tuổi đang ở Thăng Long cư tang mẹ(4)
thì còn quá nhỏ, mới đi học và lấy đâu ra quyển Kim Vân Kiều truyện của Thanh
Tâm Tài Nhân mà tóm lược toàn bộ cuốn sách. Điều suy đoán này không có một
căn cứ khoa học nào và chỉ có tính cách hoàn toàn hoang tưởng. Giáo sư cũng
không theo một cách thống nhất nào trong việc xét các chữ kỵ húy, như ở 900
câu đầu không kỵ húy Chiêu Thống vì cho rằng, Nguyễn Du viết trước khi Chiêu
Thống lên ngôi mà phần sau, khi viết ở Thái Bình mới lại kỵ húy.
Nói tóm lại, ức thuyết của GS Nguyễn Tài Cẩn không thực tế
chút nào nên không thể chấp nhận được.
Ức thuyết này do học giả Đào Duy Anh đưa ra để bác bỏ điều
ghi nhận trong quyển Đại Nam chính biên liệt truyện cho rằng, Nguyễn Du đã viết
Truyện Kiều sau khi đi sứ nhà Thanh về.
Cụ đã không kiểm chứng lại để biết, theo lời cụ Nguyễn Đình
Ngân(5) thì khi Nguyễn Du mất ở kinh đô Huế, thư viện của triều đình đã thu
được
- Một cuộn tròn giấy lớn gồm các tư liệu linh tinh.
- Thư từ của bạn bè gửi Nguyễn Du trong đó có thư của Phạm
Quý Thích.
- Một số ghi chép có tính cách như nhật ký.
- Một bản thảo Truyện Kiều với những chỗ xóa chữ này, thay
chữ kia.
Tiếc thay, sau năm 1945, các tài liệu ấy đã không còn giữ
được.
Cụ Đào Duy Anh lại dựa vào bài Tựa Kim Vân Kiều án của Nguyễn
Văn Thắng cho rằng, Nguyễn Du đã viết Truyện Kiều khi làm Đông các học sĩ
(1805-1809) nhưng trong bài ấy chính Nguyễn Văn Thắng đã có nhiều sai lầm như
sau:
- Sai lầm về tên sách, đúng ra phải gọi là Kim Vân Kiều
truyện chứ không phải là Thực lục.
- Sai lầm về chức vị của Nguyễn Du, đúng ra là Lễ tham Nguyễn
hầu chứ không phải Đông các Học sĩ.
- Sai lầm về số câu trong truyện Đoạn trường tân thanh,
đúng ra là 3254 câu chứ không phải chỉ có 1575 câu.
- Sai lầm khi cho rằng, bản Thực lục của nhà Ngũ văn lâu
bên Trung Quốc đã lưu hành khắp chỗ ở Việt Nam. (Cuốn Kim Vân Kiều truyện mà
Nguyễn Văn Thắng gọi là Thực lục đâu có thể phổ biến sâu rộng
ở Việt Nam, vì ở bên Trung Quốc khi ấy đã rất hiếm rồi).
Như vậy, ức thuyết của cụ Đào Duy Anh chỉ là phỏng đoán,
không có một chứng cớ gì xác thực nên không thể chấp nhận được, vì nếu không
đi sứ nhà Thanh bên Trung Quốc thì làm gì Nguyễn Du có được quyển truyện của Thanh
Tâm Tài Nhân để phỏng theo đó mà viết ra quyển Truyện Kiều.
Cụ Đào Duy Anh cho là quyển truyện ấy được viết ra từ đầu
triều Gia Long nhưng không có một lý do nào xác thực đã được viện dẫn ra, nên
quyển Đại Nam chính biên liệt truyện chép vẫn đúng là “sau khi đi sứ nhà
Thanh về”.
Các bản Nôm cổ như Liễu Văn đường, Thịnh Mỹ đường, Quan Văn
đường… đều có những dấu vết kỵ húy về đời Gia Long do chính Nguyễn Du viết ra
như:
- Chữ Lan 蘭
Chữ này là tên húy của bà Huy Gia từ phi, vợ cả của Nguyễn
Phúc Cốn, mẹ cả của vua Gia Long.
Các bản Nôm trên còn lưu lại dấu vết của sự kỵ húy trong
các câu:
Nhà hương thanh vắng một mình (c.375)
Huệ hương sực nức một nhà (c.1471)
So vào với thiếp hương đình nào thua (c.1988).
Qua ba thí dụ trên, chúng ta thấy chữ LAN 蘭 đã bị thay bằng
chữ HƯƠNG 香.
- Chữ Chủng 種 (đọc Nôm là Giống)
Chữ chủng là tên húy của vua Gia Long.
Bản Liễu Văn đường còn lưu dấu vết kỵ húy trong các câu:
Tuồng chi là giống 扌重 hôi tanh (c.853)
Hồng nhan phải giống 衆 ở đời mãi ru (c.1194)
Dức rằng: “Những giống bơ thờ quen thân” (c.1728)
Khen rằng: “Khéo giống 种 của nhà Hoạn nương” (c.2066)
Các chữ “giống” đều viết kỵ húy bằng cách bớt nét hoặc đổi
chữ khác.
Các chữ kỵ húy này là do Nguyễn Du viết ra khi viết quyển Truyện
Kiều vào thời Gia Long, sau khi đi sứ nhà Thanh về.
Sau này việc sao chép để tái bản quyển Truyện Kiều thì các
bản in vào đời Tự Đức đều không kỵ húy chữ THÌ, tên của nhà vua. Chúng tôi chỉ
xin nêu ra 5 thí dụ trong số 94 câu như sau:
Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ (c.70)
Thì chi chút ước gọi là duyên sau (c.76)
Người mà đến thế thì thôi (c.179)
Thì treo giải nhất chi nhường cho ai (c.210)
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha (c.334)
Bản Đoạn trường tân thanh do Tiểu Tô Lâm - Nọa Phu - Nguyễn
Hữu Lập san cải sao chép lúc ông đang làm quan ở Bộ Công triều Tự Đức thì lại
kỵ húy tất cả các chữ THÌ, tên của nhà vua:
Thà chi chút đích gọi là duyên sau (c.76)
Người mà đến thế là thôi (c.179)
Chẳng sân ngọc bội cũng phường kim môn (c.410)
Nguyện đem vàng đá mà liều với thân (c.422)
Đã lòng dạy đến kính vì phải vâng (c.466)
Nhận xét như vậy, chúng tôi cho rằng chỉ có những chữ Lan và
Chủng (Giống) là do chính Nguyễn Du đã viết kỵ húy từ đời Gia Long, sau khi
đi sứ nhà Thanh về mà viết ra quyển Truyện Kiều, còn tất cả các chữ kỵ húy
khác đều do người đời sau, theo mỗi thời đại, đã viết thêm kỵ húy.
Vậy căn cứ vào các chữ kỵ húy của chính Nguyễn Du đã ghi,
chúng ta có thể kết luận là quyển Truyện Kiều đã được tác giả viết ra sau khi
đi sứ nhà Thanh về đúng như Đại Nam chính biên liệt truyện đã ghi rằng:
攸 長 於 詩 尤 善 國 音 自 清 使 還 以 北 行 詩 集 及 翠 翹 傳 行 世
Du trường ư thi vưu thiện quốc âm tự Thanh sứ hoàn dĩ Bắc
hành thi tập cập Thúy Kiều truyện hành thế.
(Nguyễn Du có tài về thơ chữ Hán lại giỏi về thơ chữ Nôm, từ
khi đi sứ nhà Thanh về, có Bắc hành thi tập cùng với truyện Thúy Kiều ra đời).
(1) Đăng trên tạp chí Đại Việt số 13 ra ngày 16-4-1943; tạp
chí Tri Tân số 96 ra ngày 20-5-1943 và tạp chí Thanh Nghị số 32 ra tháng
3-1943.
(2) Xem bài Những lời mặc bình và châu bình trong quyển Đoạn
trường tân thanh phải chăng là của Vũ Trinh và Nguyễn Lượng? đã đăng trên tạp
chí Hồn Việt, số 6-2007.
(3) Xem bài Từ bản gốc quyển Kiều Nôm năm 1870, thử xét lại
những lời bình của Vũ Trinh và Nguyễn Lượng trong quyển Đoạn trường tân thanh,
đã đăng trên tạp chí Nghiên Cứu và Phát triển số 4 (57)/2006.
(4) Mẹ Nguyễn Du mới mất có một năm trước, năm 1778.
(5) Nguyễn Đình Ngân đậu Cử nhân năm 1916, từng làm Kiểm
giáo Quốc tử giám triều Nguyễn, sau năm 1945 làm Giám đốc Văn hóa Viện Trung
Bộ.
|
Nguyễn Quảng Tuân
hãng bay eva
vé máy bay từ mỹ đi việt nam
korean air ho chi minh
đặt vé máy bay đi mỹ online
vé máy bay đi canada giá bao nhiêu
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thức Du Lịch