1. C
|
ăn nhà chúng tôi thuê nằm ở
cuối đường Nguyễn Thái Học, thuộc khu 6, Qui Nhơn. Đây là nơi gặp gỡ thường
xuyên của chúng tôi: Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn, Nguyễn Huy Hoàng, Hoàng Ngọc
Châu, Lê Văn Trung, Phạm Cao Hoàng…
Nguyễn Phương Loan ở tận
trên Pleiku, thi thoảng mới ghé lại. Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn, Nguyễn Huy
Hoàng ở ngoài mặt trận,thường cuối tuần mới về. Hoàng Ngọc Châu có nhà ở dưới
phố. Lê Văn Trung ở với anh chị dưới khu 2. Còn tôi là người “trụ trì”.
Nói là một căn nhà nhưng thật
ra chỉ là một căn phòng không lớn lắm, đủ chỗ ở cho một hoặc hai người; tuy
nhiên khi cần thiết mười người cũng không sao. Cuối tuần, Lê Văn Trung và tôi lóng ngóng xem anh em ngoài mặt
trận có ai về không.
Hồi ấy, mỗi khi gặp nhau
chúng tôi thường kéo nhau ra quán cà phê, và nơi chúng tôi thường đến là cà phê
Dung. Phương tiện đi lại bấy giờ cũng không dễ dàng. Cần đi đâu chúng tôi phải
đón xe lam. Bây giờ nói đến xe lam chắc một số bạn trẻ không biết nó là
xe gì, vì hầu như loại xe này đã không còn thấy từ lâu. Đây là loại xe chở
khách, chở được khoảng 10 hành khách, chạy loanh quanh trong thành phố hay trên
những đoạn đường ngắn. Vòng quanh thành phố Qui Nhơn có một beltway, nếu ngồi suốt
trên xe lam thì một lát sau sẽ về chỗ cũ.
Mỗi người một tính. Anh Nguyễn
Huy Hoàng ân cần, chu đáo. Phạm Văn Nhàn vui vẻ cởi mở.Trần Hoài Thư lang bạt, bất
cần đời. Hoàng Ngọc Châu từ tốn. Lê Văn Trung thâm trầm, ít nói. Cửa của căn
phòng không có ổ khóa vì chúng tôi chẳng có gì để mất. Bên trong chỉ có vài ba
ký gạo và một ít quần áo. Ai đến cứ tự nhiên vào, có gì ăn đấy, nghỉ ngơi và viết
lách. Ai muốn viết kiểu gì cứ viết, muốn đăng báo nào cứ đăng. Người viết khỏe
nhất là Trần Hoài Thư. Anh viết rất dễ dàng, viết bất kỳ ở đâu, kể cả những nơi
ồn ào nhiều tiếng động.
Với một đám văn nghệ văn gừng
độc thân vui tính như vậy thì bữa no bữa đói là chuyện thường. Mô tả cảnh sống của chúng tôi, Trần Hoài Thư có làm mấy câu thơ vui:
Anh no ngày nào em không biết
Anh đói ngày nào em không
hay
Hôm nay đi về mưa bay bay
Vậy mà chúng tôi quí mến
nhau vô cùng. Gặp lúc nào là vui lúc ấy, và chưa bao giờ chúng tôi có điều gì
xích mích. Năm 1968 chiến trận trở nên khốc liệt hơn. Trung và tôi rất lo cho
các bạn ở ngoài mặt trận. May mà tất cả đều trở về, trừ Nguyễn Phương Loan vĩnh
viễn nằm lại với núi rừng Pleime.
Năm 1969 chúng tôi mỗi người
một ngã. Tôi vào Phan Thiết. Lê Văn Trung ra Quảng Ngãi. Hoàng Ngọc Châu lên Bảo
Lộc. Nguyễn Huy Hoàng, Phạm Văn Nhàn, Trần Hoài Thư trôi giạt hết chiến trường
này đến chiến trường nọ. Hồi đó đâu có điện thoại như bây giờ nên có một thời
gian chúng tôi thất lạc nhau. Rồi Sài Gòn thất thủ. Anh Nguyễn Huy Hoàng bệnh nặng
và qua đời.Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn đi nước ngoài. Hoàng Ngọc Châu vẫn khói sương
sương khói ở Bảo Lộc. Lê Văn Trung làm công nhân xây dựng.
Năm 1999, tôi về Qui Nhơn thăm người chị ruột; nhân dịp đó tôi tìm đến căn nhà văn
nghệ ấy. Người chủ nhà không còn nữa. Tất cả đã đổi thay sau 30 năm xa cách. “Lối
xưa xe ngựa hồn thu thảo. Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”.
2. V
|
ề tình bạn, Nguyễn Bắc Sơn
viết:
Có khi nghĩ trời sinh một
mình ta là đủ
Vì đám đông quậy bẩn nước hồ
đời
Nhưng lại nghĩ trời sinh
thêm bè bạn
Để choàng vai ấm áp cuộc
rong chơi
Đối với tôi, Từ Thế Mộng là
một người bạn hoàn hảo, một người bạn mà khi choàng vai nhau lòng thấy vô cùng ấm
áp. Đúng ra, anh là một người bạn vai anh vì anh lớn tuổi hơn tôi nhiều. Năm
1969, anh và tôi cùng dạy học ở Phan Rí, bầu bạn với Đài Nguyên Vu, Nguyễn Lệ
Tuân, Lê Văn Chính, Nguyễn Bắc Sơn, Huỳnh Hữu Võ, Nguyễn Dương Quang, Tô Duy Thạch,
Hàn Sa, Phan Anh Dũng, Nguyễn Như Mây, Thương Đài Giao, Hồ Dạ Thoại ....Cuối
tuần anh và tôi thường ra quán bên đường của Huỳnh Hữu Võ tán dóc chuyện văn
chương cùng bạn bè văn nghệ. Vợ anh, chị Mộng Giao, thì ở Phan Thiết, mà bấy giờ đường sá đi lại đầy mìn bẫy rất nguy hiểm, nên phải đợi vài ba
tháng khi quân đội mở đường mới về thăm được. Mỗi lần như vậy tôi
luôn đi cùng với anh bằng xe gắn máy. Hàng chục xe quân đội đi trước, dân theo
sau.
Anh nói với tôi, “Đi thế này ngán thật. Lỡ bị phục kích khó mà toàn mạng”. Nhưng không đi thì không về thăm nhà được.
Anh nói với tôi, “Đi thế này ngán thật. Lỡ bị phục kích khó mà toàn mạng”. Nhưng không đi thì không về thăm nhà được.
Về tới Phan Thiết, sau khi cất
đồ đạc, thăm chị Mộng Giao và hai cô con gái rất dễ thương của anh, Giao Tiên
và Giao My, anh và tôi lòng vòng xuống phố gặp gỡ anh em văn nghệ, cà phê
cà pháo đến tối mới về. Ngày hôm sau là ngày chị Mộng Giao cho anh em nhậu. Anh
rất khoái nhậu, nhậu vì vui khi có bạn bè. Tửu lượng anh khá cao. Tuy nhiên, uống
nhiều hay ít thì anh vẫn vậy, vẫn tỉnh táo, chính xác, không bao giờ nói bậy
khi có rượu vào. Anh tốt bụng, hết lòng, và chung thủy với bạn bè. Đọc bài thơ
THƯƠNG NGƯƠI KHÔNG THỂ CẦM TRONG TAY (*) mà anh viết khi nhà văn Y Uyên qua đời
thì có thể hiểu phần nào tấm lòng của anh đối với bạn bè. Tính anh khiêm
tốn, hào phóng, thích giao du nên bạn bè rất nhiều. Điều đặc biệt là bạn bè ai
cũng quí mến, kímh trọng anh. Tôi chưa bao giờ nghe ai than phiền về anh.
Anh sống có trách nhiệm với
gia đình, với bạn bè. Anh sống hết lòng với thi ca, với cuộc đời, nhưng cuộc đời
không hết lòng với anh. Sau 1975, anh cơ cực, thiếu trước, hụt sau. Tháng trước
Phạm Văn Nhàn báo tin anh bị bệnh nặng. Tôi vội
vàng gọi điện thoại về thăm. Dù rất vui nhưng giọng anh khá mệt nhọc. Anh nói,
“Hôm qua Nguyễn Bắc Sơn có ghé thăm anh. Tuần trước Huỳnh Hữu Võ cũng có vào”.
Tôi hỏi đùa, “Anh em tới thăm có tổ chức nhậu không?”. Anh cười buồn, “Gặp anh
em mà không nhậu kể cũng tức thiệt. Nhưng nhậu sao được. Bệnh thận mà”.
Những ngày anh lâm trọng bệnh,
Giao Tiên tập hợp bản thảo để in tập thơ cuối cùng của anh: THƠ TỪ THẾ MỘNG. Bạn
bè khắp nơi tìm cách chạy chữa cho anh, nhưng đời người hữu hạn, dù rất sợ phải
nói lời vĩnh biệt, rồi cuối cùng cũng phải chia tay. Chỉ ân hận một điều là tôi
đã không gặp anh một lần trước lúc anh đi. Giờ thì chẳng bao giờ còn thấy nhau,
chẳng bao giờ còn được choàng vai nhau để ấm áp cuộc rong chơi. Nhớ vô cùng những
ngày tháng ấy và tiếc vô cùng những kỷ niệm của một thời.
(*) Thơ Từ Thế Mộng
THƯƠNG NGƯƠI
KHÔNG THỂ CẦM TRONG TAY
ta với ngươi tuy quen đã lâu
lênh đênh ngàn dặm tình
không sâu
bỗng dưng một sáng nghe
ngươi mất
buông thỏng hai tay ta cúi đầu
nhớ khi ta đổi về Tuy Hòa
trời chưa muốn sáng
trăng còn xa
bảo: “suốt đêm nay ta đánh
phé”
rủ: “hôm nào cậu đến chơi
cùng ta”
cái thằng hiền khô con gà chết
thấy ta để râu con cá chốt
cậu cười, ta đưa ống sáo
nâng ngang mày
chào tuốt người thương và kẻ
ghét
ta yêu tiếng nấc sầu em xanh
sầu như em Thúy sầu lênh
đênh
ngươi yêu tiếng hí xa ngàn dặm
Hòn Vọng Phu hơi sương còn
long lanh
có lần ngươi muốn ngươi thay
đổi
ánh mắt ngươi buồn hơn thuở
xưa
trời mới lên cao trời sáng lấm
mắt ngươi chìm khuất phương
trời xa
ta đi biền biệt ngươi biền
biệt
hồn trai không kín mộng
giang hồ
nghe ngươi vào lính ta đang
lính
súng đạn như đùa với kẻ thơ
ta tròn hai mắt ra kinh ngạc
mắt ngươi dìu dịu màu ca dao
ngươi áo quần xanh đường kẻ
mới
hai hàng ánh sáng ngã lao
đao
ngươi về Phan Thiết đang mùa
gió
chuyện vãn chưa vừa được mấy
câu
đã mịt mùng xa ngươi lửa đạn
ta phương trời cách mấy
trùng sâu
mấy trùng sâu cách ngươi nằm
xuống
Nora còn chùng bông cỏ may
Nora chùng lòng dăm đứa bạn
thương ngươi không thể cầm
trong tay
thương ngươi lũ bạn quây quần
lại
đánh phé vui tràn suốt cả
đêm
vui quá nên vui tràn nước mắt
hồn buồn không thấy mộng Y
Uyên
3. S
|
au một thời gian lưu lạc,
năm 1970 tôi quay về lại Tuy Hòa.
Tuy Hòa là một thành phố biển,
giữa Nha Trang và Qui Nhơn, nằm bên bờ sông Đà Rằng, dưới chân núi Nhạn. Người
Tuy Hòa hiền hòa, hiếu khách, đặc biệt rất yêu thơ.
Về đây tôi có dịp gần gũi với
những người cầm bút của Tuy Hòa và tham gia các sinh hoạt văn học nghệ thuật của
thành phố dễ thương này.
Người tôi gặp gỡ nhiều nhất
là anh Trần Huyền Ân, tác giả tập thơ THUYỀN GIẤY, nổi tiếng với những bài thơ
đậm đà màu sắc quê hương. Thơ của anh đã từng được dùng
trong sách giáo khoa dành cho học sinh bậc tiểu học do ông Bùi Văn Bảo
biên soạn. Trần Huyền Ân chơn chất, đôn hậu, nhã nhặn, và khiêm tốn. Anh có khả
năng ở nhiều lĩnh vực: văn, thơ, biên khảo, và cả hội họa nữa..Một người luôn
sát cánh bên Trần Huyền Ân và tôi là Đỗ Chu Thăng, tác giả tập
thơ CHÂN CẦU CŨ. Đỗ Chu Thăng là giáo sư toán thuộc loại giỏi, nổi tiếng là một
nhà giáo rất nghiêm khắc với học trò. Ngoài đời anh là một thi sĩ hiền lành,
nhũn nhặn, được nhiều người quí mến và kính trọng. Sáng nào ba chúng tôi cũng gặp
nhau ở bãi biển rất sớm để tắm biển, sau đó tỏa ra các trường để dạy học. Cuối
tuần chúng tôi thường gặp nhau ở nhà anh Lê Công Minh, bút hiệu Lê Phương
Nguyên, ở đó rất nhiều đêm thức trắng, cùng làm thơ, đọc thơ. Lê Công Minh có
viết nhưng không nhiều.
Hầu như chiều nào tôi cũng gặp
Phạm Ngọc Lư. Phạm Ngọc Lư gốc ở Huế, sau khi tốt nghiệp sư phạm được bổ nhiệm
về dạy ở Tuy Hòa. Lư xuất sắc cả văn xuôi lẫn thơ, đặc biệt có tài thổi sáo và
rất giỏi chữ Hán. Có một bài thơ của Phạm Ngọc Lư hồi đó tôi thuộc lòng, nghĩ rằng
đây là một bài thơ hay, nhưng sau này trong hai tập thơ Lư xuất bản tôi không
thấy có bài thơ này.
KỲ HUÊ
Đêm nay trong cõi tôi về
Ngát hương xuân động Kỳ Huê
ra đời
Xin vàng ươm nụ đầu môi
Thếp sơn cành lạ vẽ chồi lộc
non
Đêm nay tôi mất hay còn
Gieo tình xuống cát đợi mòn
dấu cây
Ơn xin rễ mọc lòng tay
Nâng niu tuổi mọn xuân đầy
trong Huê
(Thơ Phạm Ngọc Lư, 1971)
Một khuôn mặt cũng rất gần
gũi với tôi là Mang Viên Long, nổi tiếng với những truyện ngắn sắc sảo và tinh
tế. Anh gốc ở Bình Định, vào Tuy Hòa dạy học. Mang Viên Long sôi nổi và
năng nổ. Giai đoạn ấy, trong số những cây bút ở Tuy Hòa, Mang Viên Long là người
viết khỏe nhất. Đi dạy thì thôi, về tới nhà là cứ ngồi trước máy đánh chữ gõ lọc
cọc. Lúc nào cũng thấy anh tất bật với việc viết lách.
Tuy Hòa là nơi sản sinh ra
nhiều cây bút viết truyện ngắn xuất sắc. Môt trong những cây bút xuất sắc đó là
Nguyễn Lệ Uyên. Nguyễn Lệ Uyên dạy học ở Gò Công, chỉ về Tuy
Hòa vào dịp nghỉ hè hay Tết Nguyên Đán. Nguyễn Lệ Uyên mê
sách, báo, đọc nhiều, và nắm được nhiều nguồn tư liệu.
Tuy Hòa có một thi sĩ nổi tiếng
rất sớm: Hoàng Đình Huy Quan, tác giả tập thơ MỞ CỬA. Lúc tuổi chưa tới hai
mươi, Hoàng Đình Huy Quan đã có tên trong ban biên tập của tạp chí VĂN HỌC ở
Sài Gòn. Khi tôi quay về lại Tuy Hòa thì Hoàng Đình Huy Quan đã lưu lạc vào nam
bộ, thỉnh thoảng mới về gặp gỡ anh em. Thời gian này Hoàng Đình Huy Quan thành
lập nhà xuất bản ĐỒNG DAO. Các tập thơ ĐỜI NHƯ MỘT KHÚC NHẠC BUỒN của Phạm Cao
Hoàng, CHIẾN TRANH VIỆT NAM VÀ TÔI của Nguyễn Bắc Sơn, NĂM NĂM DÒNG SÔNG
THƠ của Trần Huiền Ân, DẠO NÚI MÌNH TA của Hà Thúc Sinh, CHÂN CẦU CŨ của Đỗ Chu
Thăng, TRÊN THẢM CỎ XANH ĐỜI của Khánh Linh, GIỮA MUÔN NGÀN LY BIỆT của Quan
San… do nhà xuất bản ĐỒNG DAO ấn hành trong những năm ấy là nhờ một phần
công sức của Hoàng Đình Huy Quan.
Nhắc đến văn nghệ Tuy Hòa
không thể không nhắc đến Khánh Linh, Triều Hạnh, Nguyễn Tường Văn, Phan Bá Chức,
Nguyễn Sông Ba, Nguyễn Duy Tẩm. Khánh Linh và Triều Hạnh tôi gặp khá thường
xuyên. Còn Nguyễn Tường Văn, Phan Bá Chức, Nguyễn Sông Ba và Nguyễn
Duy Tẩm ở Đà Lạt, lâu lâu về nhập bọn, rất vui.
Không gian văn nghệ Tuy Hòa
những năm đầu thập niên 70 vô cùng ấm cúng.
Trong một lần sinh hoạt chung với anh em văn nghệ Tuy Hòa, nhà văn Duyên Anh rất bất ngờ về sự ấm cúng này. Sau này, Duyên Anh có viết lại kỷ niệm lần gặp gỡ ấy trong bút ký CŨNG GỌI LÀ MỘT CHUYẾN ĐI.
Trong một lần sinh hoạt chung với anh em văn nghệ Tuy Hòa, nhà văn Duyên Anh rất bất ngờ về sự ấm cúng này. Sau này, Duyên Anh có viết lại kỷ niệm lần gặp gỡ ấy trong bút ký CŨNG GỌI LÀ MỘT CHUYẾN ĐI.
Văn nghệ Tuy Hòa có số thân
hữu lên đến hàng trăm, mà hầu như lúc nào họ cũng có mặt trong những buổi sinh
hoạt văn học nghệ thuật và những đêm thơ nhạc do chúng tôi tổ chức. Họ dành cho
chúng tôi những tình cảm thân thương, những chia sẻ ân cần, và những khích lệ
quí báu. Bên cạnh đó, nhiều cây bút ở các địa phương khác lâu lâu ghé lại
làm cho Tuy Hòa ấm áp thêm. Vùng đất Tuy Hòa dạo ấy đã
có dịp đón tiếp nhiều cây bút tài hoa: Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn, Lê Văn
Trung, Tạ Chí Đại Trường, Đỗ Toàn, Thế Vũ, Nguyễn Âu Hồng, Nguyễn Sa Mạc, Lê Ký
Thương, Nguyễn Việt Nam, Huỳnh Hữu Võ, Nguyễn Lệ Tuân, Tô Duy Thạch, Lê Văn Thiện,
Trần Vạn Giã, Nguyên Minh, Võ Tấn Khanh... Riêng Nguyên Minh và Võ Tấn Khanh
sau này bám rễ và thành rể Tuy Hòa luôn.
Chúng tôi có nhiều kỷ niệm với
hai quán cà phê: cà phê CÂY PHƯỢNG ở gần trường trung học Nguyễn Huệ, và cà phê
NHỚ gần ga xe lửa.
Chủ nhân quán
CÂY PHƯỢNG là anh Lê Tăng Mính, một người yêu thích văn chương.
Sách của chúng tôi gửi ở các nhà sách bán không chạy lắm, nhưng gửi ở quán CÂY
PHƯỢNG thì bán được khá nhiều. Trong sân quán có một cây phượng rất
lớn. Các áp-phích giới thiệu sách mới xuất bản được treo trên các cành phượng.
Chủ nhân quán NHỚ là cô V, nhân vật đã từng được Duyên Anh nhắc đến trong bút
ký tôi đề cập ở trên. Sau này tôi gọi quán NHỚ là QUÁN CỦA NGƯỜI TÊN V. (Thi
sĩ Cao Thoại Châu có một bài thơ nổi tiếng, tựa đề QUÁN
CỦA NGƯỜI TÊN V (*). Tôi mượn anh Cao Thoại Châu tựa đề này
để đặt tên cho quán NHỚ ở Tuy Hòa). Mỗi một người trong chúng ta đều
gắn bó với một góc quán, một con đường nào đó. Anh Lê Tăng
Mính không còn, nhưng QUÁN CỦA NGƯỜI TÊN V ở Tuy Hòa thì vẫn còn đó. Nếu có dịp trở lại Tuy
Hòa, một trong những nơi tôi cần đến để tìm lại những kỷ niệm
của một thời sẽ là QUÁN CỦA NGƯỜI TÊN V.
Tuy Hòa 1970-1972 là những
tháng năm đầy ắp kỷ niệm trong tôi. Bước giang hồ tưởng đã dừng lại, nhưng rồi
tôi lại ra đi, và lần đi này là biền biệt. Tôi trôi giạt về Đơn Dương, Đức
Trọng, Đà Lạt; cho đến một ngày tôi phải làm chuyến đi xa của đời mình.
Trong hành trang mang theo ngày tôi rời xa có những giọt sương của cao
nguyên Lâm Viên, có tiếng sóng biển của Qui Nhơn, có tiếng gió biển của Phan
Thiết, và có mây khói của Tuy Hòa mà một thời đã làm nhẹ bước chân tôi.
Phạm Cao Hoàng
eva air của hãng nào
vé máy bay từ sài gòn đi mỹ
phong ve korean air
mua vé máy bay đi mỹ hãng nào rẻ
giá vé máy bay từ tphcm đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngẫu Hứng Du Lịch
Kien Thuc Du Lich