Trên đường hành hương qua
non nước Lam Hồng mà không viếng nhà lưu niệm danh họa Nguyễn Phan Chánh thì quả
là một thiếu sót. Đấy là lời nhắc nhở của anh bạn văn nghệ Hà Tĩnh, sau gần suốt
cả ngày đường chúng tôi được dịp thưởng ngoạn khắp các địa chỉ văn hóa và lịch
sử trên xứ sở “Trước Lam Thủy sau Hồng Sơn” vang danh văn vật.
Danh họa Nguyễn Phan Chánh
(1892-1984) - Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 năm 1996, là bậc thầy tranh lụa Việt
Nam. Ông sinh ra tại thôn Tiền Bạt, xã Trung Tiết, huyện Thạch Hà, nay là phường
Tân Giang, thành phố Hà Tĩnh. Nói đến tranh Nguyễn Phan Chánh là nói đến trường
phái tranh lụa Việt Nam, suốt một cuộc đời hội họa, ông đã để lại một sự nghiệp
to lớn với hơn cả trăm tác phẩm. Tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, danh họa Nguyễn
Phan Chánh là người giữ kỷ lục về số tác phẩm được trưng bày tại đây.
Nhưng tôi lại muốn nói về một
thời những “Hoa sớm” bừng nở như thơ Phạm Hầu viết Cành mai vừa hé vài hoa sớm
trong bài thơ “Mơ xuân” của ông. Phạm Hầu cũng là một họa sĩ xuất thân từ Trường
Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Nhưng Nguyễn Phan Chánh là lớp sinh viên khóa đầu
tiên của trường từ những năm 1925, còn Phạm Hầu là khóa sau cùng 1940.
Và cho dù số phận mệnh yểu dở
dang, Phạm Hầu cũng đã kịp ghi tên mình thành một nét son trong buổi đầu lịch sử
mỹ thuật Việt Nam hội nhập cùng thế giới. Tuổi tên các họa sĩ đoạt giải cao nhất
tại các triển lãm tranh quốc tế như: Nguyễn Phan Chánh, Trần Văn Cẩn, Nguyễn
Gia Trí, Phạm Hầu… là những đóa “hoa sớm” tỏa ngát hương sắc, tạo dựng nên một
bình minh huy hoàng cho nền mỹ thuật, thuở đất nước còn lầm lũi trong bóng đêm
Cha trốn ra Hòn Gai cuốc mỏ. Anh chạy vào đất đỏ làm phu. Sự tỏa sáng của lớp họa
sĩ thuộc Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương tại các giải quốc tế lúc bấy giờ,
đã chứng minh sự vươn tới một đỉnh cao nghệ thuật của những tài năng hội họa Việt
Nam, không chỉ riêng trong nước mà còn là cho cả nhân loại.
Sức sống vĩnh hằng của cái đẹp
đã vinh danh những Tô Ngọc Vân, Nguyễn Phan Chánh, Nam Sơn, và kế tiếp là Bùi
Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên, Nguyễn Tư Nghiêm, Diệp Minh Châu. Đến
như một Phạm Hầu, chỉ là một “hoa sớm” xuất hiện mong manh thoáng qua một quãng
đời hoạt động nghệ thuật ngắn ngủi, vậy mà huyền thoại về lớp họa sĩ ban đầu ở
Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam, vẫn còn lưu giữ trong ký ức cái bức tranh
siêu thực ông vẽ một hòn đá rêu xanh mang tên “Cô đơn” từng đoạt giải nhất tại
triển lãm tranh Tokyo vào năm 1940.
Tranh Chơi ô ăn quan.
|
Trời mưa bụi mỏng mảnh nhẹ
như khói, tôi theo anh bạn văn nghệ Hà Tĩnh chạy xe máy lòng vòng khắp phố phường
ngoại ô, rồi ngoặt vào một con đường đất dọc theo một dòng sông đã khô cạn. Hóa
ra cái dòng sông Tân Giang từng tắm gội tuổi thơ Nguyễn Phan Chánh thuở trăm
năm trước giờ nó bồi lấp như thế này đây! Cạn khô nứt nẻ trơ vơ bùn đất. Vài
chiếc thuyền gỗ mục như tự thời cổ tích xa xăm nằm gối bãi giống như bức tranh
thủy mặc màu lam khơi gợi lại quá vãng một thời sông nước. Nhà lưu niệm danh họa
Nguyễn Phan Chánh được xây dựng trong một khu vườn nhỏ bên cạnh dòng sông. Gọi
là nhà lưu niệm nhưng thực ra chẳng thấy hiện vật lưu niệm gì. Tôi lại đứng bên
bệ thờ thắp nén hương tưởng nhớ người xưa rồi bước ra lang thang dọc theo bờ
sông cạn.
Có lẽ khác với những danh họa
cùng thời, Nguyễn Phan Chánh ngay từ thời còn nhỏ ở làng quê này đã là một họa
sĩ… tí hon. Người ta kể lại rằng, do mồ côi cha từ sớm, cảnh nhà nghèo khó,
Nguyễn Phan Chánh từ thuở lên mười đã tập tành vẽ tranh, và biết vẽ đẹp các loại
tranh dân gian, truyền thống để bán phụ giúp mẹ nuôi các em thơ. Thực ra không
hẳn đã thế, chuyện thời hoa niên ông đã sớm vẽ tranh bán ở các chợ, nhất là những
phiên chợ Tết, có chút gì đó như là dự báo một định mệnh cho cả cuộc đời tài
hoa của ông về sau này. Tranh ông, nơi đâu cũng phảng phất cái thần hồn quê Việt.
Nào: Tắm cho trâu, Đi chợ, Đi lễ chùa, Đôi chim bồ câu, cho đến: Cầu ao, Xóm
chài, Đền làng, Mùa đông đi cấy… Hàng bao nhiêu đề tài là bấy nhiêu hồi quang rực
rỡ về những làng quê xưa.
Người ta còn nhớ cái bức
tranh mang lại thành công buổi đầu của Nguyễn Phan Chánh là bức Ruộng lúa, ông
vẽ tham dự giải thi tem Bưu chính Đông Dương do Pháp tổ chức, và đã đoạt giải
nhất vào năm 1928 lúc đang còn là sinh viên. Từ bức Ruộng lúa cho đến mãi về
sau này những bức Lội suối, Tiên Dung và Chử Đồng Tử và Kiều tắm là cả một hành
trình thăm thẳm trải qua nửa thế kỷ lao động sáng tạo, đã mang lại vinh quang
không chỉ riêng ông mà còn cho cả nền Mỹ thuật đất nước.
Các nhà phê bình khi viết về
hội họa Nguyễn Phan Chánh thường nhắc đến người thầy của ông: Họa sĩ Victor
Tardieu, với khuynh hướng đào tạo cho các sinh viên Việt Nam trở thành những họa
sĩ thuần túy Việt Nam. Quan điểm đó không có gì bàn cãi, nhưng xét về phạm trù
tương quan giữa thế giới và cái tôi nghệ sĩ của từng cá nhân thì sự thành công
của mỗi tác phẩm nghệ thuật còn là kết quả của từng cái tôi độc đáo. Và chính
Nguyễn Phan Chánh là mẫu nghệ sĩ độc đáo ấy. Đồng lúa - nương dâu - sân đình -
cánh cò bay tít tắp đồng xa…, tất cả hình ảnh, sắc màu đẹp đẽ đó đã là máu huyết
tuần hoàn nuôi dưỡng ông ngay từ thuở ấu thơ Cành mai vừa hé vài hoa sớm.
Đi loanh quanh trên những
con đường làng Tân Giang, quả thật những hình ảnh xưa trong tranh Nguyễn Phan
Chánh chừng như mơ hồ đâu đây. Vẫn biết đấy là từ vọng tưởng mà ra, nhưng nhìn
đàn trẻ nhỏ tụ năm tụ ba vui chơi trên con đường làng, hình ảnh ấy khiến tôi
liên tưởng đến tác phẩm tranh lụa Chơi ô ăn quan của Nguyễn Phan Chánh. Thông
thường, người ta có thể thuộc lòng thơ, nhạc của ai đó mà họ yêu thích, thuộc đến
nỗi hòa tan vào vô thức, nhưng để thuộc lòng một bức tranh thì quả là hiếm. Vậy
mà tranh Nguyễn Phan Chánh, những Chơi ô ăn quan hay Em bé cho chim ăn, hoặc
còn nhiều hơn thế nữa, công chúng thưởng ngoạn khối kẻ cũng thuộc nằm lòng, thuộc
như thơ, như nhạc, cứ như sông suối chảy vào hòa tan trong mọi tâm hồn vĩnh cửu
một quê xưa!.
Nguyễn Nhã Tiên
eva air
book vé máy bay đi mỹ
số điện thoại hãng korean air
đại lý vé máy bay đi mỹ
giá vé máy bay đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngau Hung Du Lich
Kien Thuc Du Lich