Chuyện phiếm bàn về Chữ trinh
Trong
truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du, người ta đọc được 5 lần hoặc trực tiếp hoặc
gián tiếp, Kiều nhắc đến chữ “Trinh” và một lần Kim Trọng biện giải về chữ này.
Lần
thứ nhất, giữa đêm khuya, sau khi Kiều gãy đàn nơi hiên Lãm Thúy, thì Kim Trọng
đã muốn ép liễu nài hoa với nàng:
… “Sóng
tình dường đã xiêu xiêu,
Xem
trong âu yếm có chiều lả lơi”…
Nàng
nghiêm trang cảnh tỉnh người yêu bằng những lời lẽ thanh tao, và trong vài câu
mở đầu, đã nói đến chữ “Trinh”, như một thứ vũ khí, có hiệu quả làm dịu đi được
cơn sóng tình đang bộc phát kia:
…
Nàng rằng: “Đừng lấy làm chơi,
Để
cho thưa hết một lời đã nao!
Vẻ
chi một đóa yêu đào,
Vườn
hồng đâu dám ngăn rào chim xanh.
Đã
cho vào bực bố kình,
Đạo
tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
Ra
tuồng trên Bộc trong dâu,
Thì
con người ấy ai cầu làm chi.
Phải
điều ăn xổi ở thì,
Tiếc
trăm năm cũng bỏ đi một ngày. Với
mẫu người được mô tả là quân tử như Kim Trọng, thì “chữ trinh” nêu ra
ở đây, quả là một gáo nước tưới tắt được “lửa lòng” đang thèm khát ân ái trong
chàng!. Vì họ mới lén lút yêu nhau, mà đã dám hò hẹn gặp nhau để thề
thốt là đã bạo gan lắm rồi!. Lại còn uống rượu, ngâm thơ, gảy đàn, là càng
đi quá lễ giáo gia phong. Nếu biết giữ gìn trong sạch cho nhau, thì may ra còn
có thể châm chước được phần nào. Còn muốn ra tuồng “trên Bộc trong dâu” và
lại “ăn xổi ở thì” nữa, thật không xứng đáng là kẻ học sách thánh hiền.
Nàng
cũng đã nhẹ nhàng phân tích bằng lời lẽ đoan chính rằng, tấm thân của thiếp như
một mảnh vườn hồng đầy hương sắc, đâu dám ngăn chàng là một con chim xanh muốn
bẻ khóa động đào. Nhưng chúng ta đều là người có học, biết đạo nghĩa ở đời, thề
quyết kết duyên chồng vợ trọn kiếp cùng nhau, chứ đâu phải nhân tình nhân ngãi.
Cho nên chuyện gối chăn hãy để khi cưới hỏi cùng nhau, chứ đừng như chuyện của
cặp tình nhân Thôi, Trương chưa chi mà đã chiều nhau ân ái, khiến về sau này họ
phải chia lìa vì có sự khinh rẽ bên trong.
Gẫm
duyên kỳ ngộ xưa nay,
Lứa
đôi ai lại đẹp tày Thôi, Trương?,
Mây
mưa đánh đổ đá vàng,
Quá
chiều nên để chán chường yến oanh.
Trong
khi chắp cánh liền cành,
Mà
lòng rẻ rúng đã dành một bên!
Mái
Tây để lạnh hương nguyền,
Cho
duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng!
Gieo
thoi trước chẳng giữ giàng,
Để
sau nên thẹn với chàng bởi ai?
Vội
chi liễu ép hoa nài,
Còn
thân ắt sẽ đền bồi có khi!”
Thấy
lời đoan chính dễ nghe,
Chàng
càng thêm nể thêm vì mười phân…
Lần
thứ hai, bằng lời lẽ gián tiếp, sau khi được Mã Giám Sinh - một gã trung niên
có vẻ điếm lận - mua về làm hầu thiếp. Nàng sắp phải chung chăn gối với hắn,
nên đã tiếc tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình, phải rơi vào một kẻ phàm
phu tục tử, nên đã thốt:
…
“Phẩm tiên rơi đến tay hèn,
Hoài
công nắng giữ mưa gìn với ai!
Biết
thân đến bước lạc loài,
Nhụy
đào thà bẻ cho người tình chung!
Vì
ai ngăn đón gió đông,
Thiệt
lòng khi ở, đau lòng khi đi.
Trùng
phùng dù họa có khi,
Thân
này thôi có còn gì mà mong!”
Rõ
ràng là cái “phẩm của tiên”, và cái “nhụy của hoa đào”, nay đã về tay
kẻ ô trọc. Giá mà nàng biết được tấm băng trinh đó phải bị như thế, thì thà
dâng hiến cho người tình chung là Kim Trọng trong cái đêm gảy đàn đó vẫn còn
hơn. Cũng tại mình“ngăn đón gió đông” không cùng chàng ái ân trong đêm hôm
ấy, khiến cho chàng phải“thiệt lòng khi ở, đau lòng khi đi”, và sau này
mình có gặp lại chàng, thì tấm thân nhụy rữa hoa tàn này “có còn gì nữa mà
mong”.
Lần
thứ ba, lúc bị giam ở lầu Ngưng Bích, nàng vì mắc mưu Tú Bà và Sở Khanh, nên bỏ
trốn rồi bị bắt trở lại, bị đánh đập tàn nhẫn, đành cất tiếng lạy van, đau lòng
mà trình thưa:
…
Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,
Nước
non lìa của lìa nhà đến đây!
Bây
giờ sống thác ở tay,
Thân
này đã đến thế này thì thôi.
Nhưng
tôi nào xá chi tôi,
Phận
tôi đành vậy, vốn người để đâu?
Thân
lươn bao quản lấm đầu,
“Xin
chừa chút lòng trinh bạch!” thật là tiếng than đứt ruột!. Không
muốn làm gái làng chơi, để giữ cái trinh bạch của người đàn bà cũng không được;
thôi thì quản gì thân phận của một “con lươn” phải chịu lấm đầu!
Lần
thứ tư, trong buổi tiệc đoàn viên, cha và em đều một lòng muốn nối duyên nàng
trở lại với kim Trọng; Kiều nại lý do để từ chối:
…
Nàng rằng: “Gia thất duyên hài,
Chút
lòng ân ái, ai ai cũng lòng.
Nghĩ
rằng trong đạo vợ chồng,
Hoa
thơm phong nhụy trăng vòng tròn gương.
Chữ
trinh đáng giá ngàn vàng,
Đuốc
hoa chẳng thẹn với chàng sau xưa!
Thiếp
từ ngộ biến đến giờ,
Ong
qua bướm lại, đã thừa xấu xa!
Bấy
chầy gió táp mưa sa,
Mấy
trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn.
Còn
chi là cái hồng nhan,
Đã
xong thân thế, còn toan nỗi nào?
Nghĩ
mình chẳng hổ mình sao?
Dám
đem trần cấu dự vào bố kinh!
Đã
hay chàng nặng vì tình,
Trông
hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru?
Từ
rày khép cửa phòng thu,
Không
tu, thì cũng như tu mới là.
Chàng
dầu nghĩ đến tình xa,
Đem
tình cầm sắt đổi ra cầm cờ.
Nói
chi kết tóc xe tơ?
Đã
buồn cả ruột, lại dơ cả đời!”…
Ôi! thân nàng giờ đây “ong qua bướm lại” lắm rồi!. Chữ
trinh ngàn vàng còn đâu nữa? mà dâng hiến cho kẻ tình chung! Thôi
thì xin khép cửa phòng thu, không tu thì cũng như tu, và tình vợ chồng xin đổi
ra nghĩa bạn bè cho hết cuộc đời!. Nàng đã nhất mực chối từ, nhưng
cuối cùng vì vâng lịnh song thân, đành phải cắn răng ưng chịu động phòng hoa
chúc với chàng Kim.
Còn
chàng Kim thì hết lòng bào chữa cho chữ trinh đã hoen ố đó:
…
Chàng rằng: “Khéo nói nên lời,
Mà trong
lẽ phải có người có ta.
Xưa
nay trong đạo đàn bà,
Chữ
trinh kia cũng có ba, bảy đường.
Có
khi biến, có khi thường,
Có
quyền nào phải một đường chấp kinh?
Ví
nàng lấy hiếu làm trinh,
Bụi
nào cho đục được mình ấy vay?
Trời
còn để có hôm nay,
Tan
sương ngoài ngõ, vén mây giữa trời.
Hoa
tàn mà lại thêm tươi,
Trăng
tàn mà lại hơn mười rằm xưa!
Có
điều chi nữa mà ngờ,
Khách
qua đường để hững hờ chàng Tiêu!”…
Nàng
vì hiếu phải bán mình chuộc tội cho cha, thì dầu tấm băng trinh phải nhơ nhuốc
đến ngần nào, dưới con mắt của chàng vẫn cho là còn trong trắng. Chàng lý luận
rằng, chữ trinh cũng có đến ba, bảy đường. Có “Kinh” mà cũng có “Quyền”. Nếu cứ
khư khư giữ lấy chữ trinh theo nghĩa chấp “Kinh”, thì làm sao bán mình chuộc tội
cho cha được?. Cho nên đành phải “Quyền” biến mà hy sinh chữ trinh để
cứu cha. Ta biết Kim là môn đồ trong cửa Khổng, với lý thuyết luôn bó chặt
trinh tiết của người phụ nữ thời đó, như một món hàng quý giá khi lấy chồng, và
gần như là không có gì đánh đổi được. Thế mà lại quan niệm rất rộng rải trong
trường hợp này, phải chăng vì quá yêu nàng Kiều?.
Lần
thứ năm, trong đêm động phòng với Kim Trọng theo lịnh song thân. Chàng Kim muốn
vầy duyên ân ái, nàng cũng nghiêm trang khôn khéo chối từ, để biến đổi tình vợ
chồng ra tình bằng hữu thâm giao:
…
Nghe chàng nói đã hết điều,
Hai
thân thì cũng quyết theo một bài.
Phải
lời khôn lẽ chối lời,
Cúi
đầu, nàng những ngắn dài thở than!
Nhà
vừa mở tiệc đoàn viên,
Hoa
soi ngọn đuốc, hồng chen bức là.
Cùng
nhau giao bái một nhà,
Lễ
đà đủ lễ, đôi đà sánh đôi.
Động
phòng dìu dặt chén mồi,
Bâng
khuâng duyên mới, ngậm ngùi tình xưa!
Những
từ sen ngó đào tơ,
Mười
lăm năm mới bây giờ là đây!
Tình
duyên ấy, hợp tan này,
Bi
hoan mấy nỗi, canh chầy trăng cao.
Đêm
khuya bức gấm rũ thao,
Ngọn
đèn tỏ rạng, má đào thêm xuân!
Tình
nhân lại gặp tình nhân,
Hoa
xưa ong cũ mấy phân chung tình!
Nàng
rằng: “Phận thiếp đã đành,
Có
làm chi nữa, cái mình bỏ đi.
Nghĩ
chàng nghĩa cũ tình ghi,
Chiều
lòng gọi có xướng tùy mảy may.
Riêng
lòng đã thẹn lắm thay,
Cũng
là mặt dạn mày dày khó coi!
Những
là âu yếm vành ngoài,
Còn
toan mở mặt với đời cho qua.
Lại
như những thói người ta,
Vớt
hương dưới đất, bẻ hoa cuối mùa!
Khéo
là dở nhớp bày trò,
Người
yêu ta xấu với người,
Yêu
nhau, thì lại bằng mười phụ nhau!
Cửa
nhà dù tính về sau,
Thì
đà em đó, lọ cầu chị đây.
Chữ
trinh còn một chút này,
Chẳng
cầm cho vững, lại giầy cho tan!
Còn
nhiều ân ái chan chan,
Hay
gì vầy cánh hoa tàn mà chơi!
Chàng
rằng: “Gắn bó một lời,
Bỗng
dưng cá nước chim trời lỡ nhau!
Xót
người lưu lạc bấy lâu,
Tưởng
thề thốt nặng, cũng đau đớn nhiều.
Thương
nhau sinh tử đã liều,
Gặp
nhau, còn chút bấy nhiêu là tình!
Chừng
xuân tơ liễu còn xanh,
Nghĩ
rằng chưa thoát khỏi vành ái ân.
Gương
trong chẳng vướng bụi trần,
Một
lời, quyết hẵn một phần kính thêm!
Bấy
lâu đáy bể mò kim,
Là
nhiều vàng đá, lọ tìm trăng hoa?
Ai
ngờ lại hợp một nhà,
Lựa
là chăn gối mới ra sắt cầm!?
Nghe
lời sữa áo, cài trâm,
Khấu
đầu lạy tạ, nghĩa thâm nghìn trùng!
Thân
tàn gạn đục, khơi trong,
Là
nhờ quân tử khác lòng người ta.
Mấy
lời tâm phúc ruột rà,
Tương
tri dường ấy, mới là tương tri!
Chở
che đùm bọc thiếu gì,
Trăm
năm danh tiết cũng vì đêm nay!”…
Với
lý do như thế, nàng xin Kim hãy coi nàng như bạn tri kỷ tri âm. Tiếng là vợ chồng
nhưng không chung đụng xác thịt. Chỉ cùng nhau “Khi chén rượu lúc cuộc cờ.
Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên” mà thôi. Kim cũng bằng lòng, và họ giữ vậy
cho đến mãn đời.
Trong
tất cả các sách vỡ nói đến đoạn này, đều đồng quan điểm như lời giải thích của
hai cụ Bùi Kỹ và Trần Trọng Kim: “Chữ Trinh đây là là một cái lòng trinh
tiết của Kiều vốn giữ với Kim Trọng tự xưa đến nay. Dẫu có phải ong qua bướm lại
cũng là bất đắc dĩ, chứ cái lòng thỉ chung vẫn không đổi. Đấy là nói cái trinh
của Kiều đối với Kim Trọng: Cái trinh ấy Kiều muốn giữ cho được trọn
vẹn, không nỡ đem cái thân tồi tàn mà đãi kẻ tình chung”.
Tuy
nhiên, cũng xin được có một nhãn quan khác, để phiếm bàn về “Chữ Trinh” đó như
sau
Kim Trọng là mối tình đầu khi Kiều vừa mới “cặp kê” tức khoảng 15 - 16 tuổi, và mẫu người thư sinh quân tử, nho nhã phong lưu như chàng Kim hẳn là kẻ trong mộng tưởng của nàng rồi. Nên suốt quảng đường sương gió, có rất nhiều lần nàng nhớ đến người yêu. Nay được tái hồi trong đèn hoa chúc, trong tiệc hợp cẩn giao bôi, thì hà tất gì mà nàng nỡ để hoa xưa ong cũ chẳng được hưởng cái tình chung?
Kim Trọng là mối tình đầu khi Kiều vừa mới “cặp kê” tức khoảng 15 - 16 tuổi, và mẫu người thư sinh quân tử, nho nhã phong lưu như chàng Kim hẳn là kẻ trong mộng tưởng của nàng rồi. Nên suốt quảng đường sương gió, có rất nhiều lần nàng nhớ đến người yêu. Nay được tái hồi trong đèn hoa chúc, trong tiệc hợp cẩn giao bôi, thì hà tất gì mà nàng nỡ để hoa xưa ong cũ chẳng được hưởng cái tình chung?
Lấy
lý do theo giải thích trên, bề ngoài thì đúng. Nhưng chắc còn có ẩn tình?. Bởi nàng cũng biết, chính Kim đã hết lời binh vực cho chữ trinh
hoen ố của nàng…rằng không có chi là dơ bẩn. Thế thì việc ăn nằm với chàng đâu
có gì là tồi tàn?. Cố chấp quá chăng?. Câu trả lời là
không.
Xin
thử lý luận một vài sự kiện xảy ra trong suốt thời gian luân lạc của nàng, để
tìm hiểu cho điều này.
Nàng
và Kim Trọng đúng là một cặp tài tử giai nhân hiếm có. Họ yêu nhau thật tương xứng!. Nhưng yếu tố về kinh nghiệm trường đời đối với họ trong tuổi cặp
kê này, hầu như không có. Nhất là đối với Kiều, một cô gái chỉ biết có phòng
khuê. Giá mà mọi việc đều cứ bình thản trôi qua, không có ba đào sóng gió đổi dời,
thì không có gì để nói.
Nhưng
ngay sau đó, Kiều bị ném ra ngoài xã hội, phải lăn mình vào giữa đống bùn nhơ
nhớp của cuộc đời. Kinh nghiệm sống mỗi ngày một chồng chất thêm lên. Cho nên mẫu
người “mọt sách” như kiểu chàng Kim, bây giờ đã có phần bị xói mòn trong tâm
não của Kiều, vì chính nàng lại là nạn nhân của loại người này quá nhiều!
Nào
là Mã Giám Sinh - tức là người họ Mã học trường Quốc Tử Giám - không biết là thực
hay giả, nhưng theo tên gọi thì cũng là hạng sách đèn, nhưng lại chuyên nghề ăn
bẩn lầu xanh!
Nào
là Sở Khanh với cái vẻ “hình dong chải chuốt áo khăn dịu dàng”, ngâm
thơ xướng họa đúng là hạng thư sinh thứ thiệt. Thế mà lại là “một cốt một
đồng” với mụ Tú Bà chuyên gạt gẫm gái lành!
Rồi
đến Thúc sinh viên, Truyện Kiều đã tả:
…“Khách
du bỗng có một người,
Kỳ
Tâm họ Thúc vốn nòi thư hương”…
Nòi
thư hương!. Ba tiếng đó đủ xác định là con người có ăn học. Chàng lại
là rễ của quan lớn đầu triều, cũng có tác phong nho nhã văn vẻ hơn người, nhưng
về nhà thì sợ vợ hơn cha!
Kịp
đến lúc Hồ Tôn Hiến xuất hiện, Kiều càng thấy chán chường thêm cho kẻ sĩ có
quan danh. Hồ là một trọng thần của triều Minh, lại giữ chức Tổng Đốc với kinh
luân gồm đủ, hẳn là văn võ toàn tài. Nhưng mưu mô lừa đảo thì quá bỉ ổi, lại
còn ép vợ của tướng địch phải thị yến dưới màn để chuốc rượu nài hoa. Điều này,
nếu một tướng lãnh biết trọng danh dự thì không ai làm…
Đó
là chưa kể nàng hết sức ghê tởm cho hạng quan lại bất công, chuyên ăn của lót
như tên quan huyện tại quê nhà đã xử ép cha nàng.
Bên
cạnh đó, trái lại, là một Từ Hải sáng rực hào quang trí dũng có thừa. Kiều gặp
nhân vật này thật đúng với câu mà Tiên Điền tiên sinh đã tả:
…“Trai
anh hùng, gái thuyền quyên,
Phỉ
nguyền sánh phụng, đẹp duyên cỡi rồng”…
Qua
kinh nghiệm bản thân trong suốt gần mười năm lưu lạc phong trần, nàng nhìn được
cái chân giá trị trong chí khí hào kiệt của Từ:
…“Thưa
rằng, lượng cả bao dong,
Tấn
dương được thấy mây rồng có phen.
Rộng
thương nội cỏ hoa hèn,
Họ
thật là ý hợp tâm đồng, vì Từ cũng nhận xét về nàng:
…“Khá
khen con mắt tinh đời,
Anh
hùng đoán giữa trần ai mới già”…
Chỉ
có Từ Hải mới đích thực là ý trung nhân đánh giá đúng về nàng. Còn Kim Trọng chỉ
là kẻ thấy hương thì luyến, thấy ngọc thì thương, chứ không nhìn được tim óc của
người đẹp.
Trong
lần tái hợp này, thực tình mà nhận xét, thì cán cân tâm hồn của Kiều đã nặng về
phía họ Từ mất rồi! Kim Trọng dù có hiện diện bằng xương bằng thịt,
cũng chỉ là cái bóng mờ của dĩ vãng. Chăn gối với chàng chắc gì có mặn nồng âu
yếm, thà tìm cách từ chối là hơn. Nếu ân ái, biết đâu Kim Trọng tìm hiểu được sự
miễn cưỡng này, sẽ đau xót đến ngần nào!
Lại
nữa, trong năm năm chung sống với Từ, tuy miệng đời cho là vợ của tướng giặc,
nhưng cũng:
…“Triều
đình riêng một góc trời,
Gồm
hai văn võ, rạch đôi sơn hà”…
… với đầy đủ thể thức của bậc
mẫu nghi thiên hạ. Dân chúng lại rất cảm phục sự nhân nghĩa của nàng. Đó cũng
là một kỹ niệm khó quên!.
So
sánh như thế để thấy ân tình của nàng muốn thủ tiết với Từ, vì Từ mới thật là
người chồng lý tưởng. Nhờ Từ mà nàng trả được ân oán đủ đầy. Từ chết thảm cũng
vì nàng!. Không thủ tiết mới là bội nghĩa. Dù nàng không có cái băng
trinh ngọc khiết để dâng hiến Từ, nhưng còn cái tiết phải giữ cho chàng. Cái tiết
phụ đó là: lấy chồng phải theo chồng, vinh nhục cùng chồng, chồng
chết thủ phận thờ chồng đúng theo đạo lý.
Bây giờ hoàn cảnh có khác,
tuy nàng không chính thức công bố thủ tiết với Từ, nhưng âm thầm cư xử như vậy
bằng chính tâm hồn và thể xác của mình, vẫn đỡ ân hận hơn.
Có
thể người đời không biết, nhưng linh hồn Từ ắt biết. Chung chăn gối với Kim Trọng
là làm đau lòng kẻ đã bỏ xác vì mình ! Trong khi sự thủy chung của
Kim đối với nàng, nay đã được đền đáp bằng Thúy Vân kia rồi.
Quả thật nàng nợ chàng Kim
thì có ít, mà nợ với Từ thì lại quá nhiều.
Cho
nên trước khi nại lý do “chữ trinh còn một chút này…” để quyết định dứt
khoát từ chối sự ăn nằm với Kim, nàng cũng đã thốt :
…“Khéo
là dở nhớp bày trò,
Còn
tình chi nữa, là thù đất thôi”…
… như muốn nói ra rằng: “Nếu
chàng cứ nhất định đòi giao tiếp xác thịt thì chỉ là bày trò nhơ nhớp, khiến
cái tình cũ mà thiếp đã từng dành cho chàng 15 năm về trước, nay biến ra thù hận
mà thôi! Hãy để cánh hoa này được phụng thờ linh hồn Từ Hải. Vì
chính Từ đã từng vớt nó khi còn ở lầu xanh, đem nó về đưa lên ngôi tuyệt đỉnh,
trân trọng nó, và chết đứng vì nó. Hãy giữ trong lòng cô Kiều ở tuổi cặp kê, và
để yên cho cái thể xác của Kiều sau 15 năm luân lạc này!.
Chính đó là hai hình ảnh của
một con người, nhưng xin đừng nhập nhằng lẫn lộn. Đừng phong thánh bằng những mỹ
từ “lấy hiếu làm trinh” rồi cho cả hai vào làm một. Bắt cô Kiều sau
phải trả nợ gối chăn cho cô Kiều trước…bằng cái võ đạo đức luân thường. Nếu
hành động như thế, thì cũng bỉ ổi chẳng kém gì Hồ Tôn Hiến đã bắt nàng thị yến
dưới màn…trong đêm thắng trận”.
Có
người còn thắc mắc rằng sau khi Từ chết, nàng đã thất thân với hai kẻ khác nữa,
đó là Tôn Hiến và Thổ Quan…thì tiết hạnh còn đâu mà giữ?
Ắt
hẳn ai cũng biết đó là do ép buộc chứ lòng nàng đâu muốn. Phải “đành nhắm
mắt đưa chân” mà thôi!. Và có muốn chăng là cố ý liếc mắt đưa
tình với Hồ Tôn Hiến, để ép tên dâm quan này uống rượu ngà say, mà bằng lòng
cho “cảo táng di hình” thân thể của Từ Hải, được đem chôn ở một mảnh đất xấu
ven sông. Nếu không thì xác của chàng phải phơi ngoài chiến địa, làm mồi cho quạ
diều cùng thú dữ!.
…
Và biết đâu…nàng cũng coi hai gã này như những bọn đã từng “vào trước ra
sau” đối với nàng khi ở lầu xanh, để:
…“Mặc
người mưa Sở mây Tần,
Riêng
mình nào biết có xuân là gì ?”…
Chắc
linh hồn Từ cũng hiểu, mà thông cảm cho nàng.
Còn
bây giờ, tuy cũng trong hoàn cảnh bị cha và gia đình ép buộc động phòng hoa
chúc với Kim, nhưng còn chủ động tìm cách biến tình chồng vợ ra nghĩa bạn bè, để
được khước từ chăn gối, tại sao không làm?
Theo
thiển kiến người viết, Kiều khéo lập luận “Chữ Trinh còn một chút này”…để
an lòng Kim Trọng, chứ thật sự bề trong nàng muốn thủ tiết vớt Từ. Nhìn rộng
hơn, có lẽ đây cũng là tâm sự của Tiên Điền tiên sinh khi mà thể xác mặc triều
phục nhà Nguyễn, nhưng trong lòng vẫn hoài vọng vua Lê.
đại lý vé máy bay eva tại tphcm
đại lý vé máy bay đi mỹ
hãng hàng không korean air tại việt nam
cách mua vé máy bay đi mỹ
săn vé máy bay giá rẻ đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngau Hung Du Lich
Tri Thức Du Lịch