1. Trong truyện ngắn Tướng về hưu của nhà văn Nguyễn
Huy Thiệp có một đoạn ngắn gọn: “Đường về, vợ tôi bảo xe đi chậm. Ông Bổng lần
đầu mới được đi xa thích lắm. Ông bảo: “Nước mình thật đẹp như tranh. Bây giờ
tôi mới hiểu vì sao phải yêu đất nước. Chứ ở quê ta, dù ngay Hà Nội có văn minh
thật, tôi chẳng thấy yêu gì cả”. Vợ tôi bảo: “Tại chú quen đấy. Ở nơi khác người
ta cũng thế, họ lại thấy yêu Hà Nội”. Ông Bổng bảo: “Thế là nơi này yêu nơi
kia. Tất cả đều đất nước mình, nhân dân mình cả. Vậy thì đất nước muôn năm,
nhân dân muôn năm! Hoan hô đèn cù”... Như thế là nhu cầu hiểu biết, khám phá, đổi
thay không khí, nhu cầu xê dịch Đi và Xem chính là tâm trạng “nơi này yêu nơi
kia” - cơ sở cội nguồn của những chuyến viễn du và hình thành nên những trang
du ký.
Một cách khái quát, các nhà lí luận xác định: “DU KÝ- Một thể
loại văn học thuộc loại hình ký mà cơ sở là sự ghi chép của bản thân
người đi du lịch, ngoạn cảnh về những điều mắt thấy tai nghe của chính mình tại
những xứ sở xa lạ hay những nơi ít người có dịp đi đến. Hình thức của du ký rất
đa dạng, có thể là ghi chép, ký sự, nhật ký, thư tín, hồi tưởng, miễn là mang lại
những thông tin, tri thức và cảm xúc mới lạ về phong cảnh, phong tục, dân tình
của xứ sở ít người biết đến [...]. Dạng đặc biệt của du ký phát huy cái chất
ghi chép về miền xa lạ của nó là du ký về các xứ sở tưởng tượng, có tính chất
không tưởng hay viễn tưởng khoa học [...]. Dạng du ký khác đậm đà phong vị
phương Đông là ghi chép cảm tưởng, nhận xét về những nơi danh lam thắng cảnh đất nước
[...]. Thể loại du ký có vai trò quan trọng đối với văn học thế kỷ XVIII- XIX
trong việc mở rộng tầm nhìn và tưởng tượng của nhà văn. Sang thế kỷ XX, du ký
mang nhiều tính chất tư liệu khoa học do các nhà địa chất, nhà dân tộc học viết.
Loại du ký khoa học cũng rất thịnh hành”(1). Định nghĩa trên đây đã khái quát
được những đặc điểm cơ bản nhất của du ký - mà chúng tôi duy danh là thể
tài du ký. Tuy nhiên, thể tài du ký là một bộ phận văn học còn chưa được chú ý
đúng mức. Khi nói đến “thể tài du ký” cần được hiểu nhấn mạnh hơn ở phía đề tài,
phía nội dung và cảm hứng nghệ thuật nơi người viết, chứ không phải ở phía thể
loại. Thu hút vào địa hạt du ký có các sáng tác bằng thơ, phú, tụng và các bài
văn xuôi theo phong cách ký, ký sự, phóng sự, ghi chép, khảo cứu, hồi ức về các
chuyến đi, các điểm du lịch, các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, sinh
thái, kiến trúc, mỹ thuật; thậm chí có thể liên quan tới nhiều phương diện của
xã hội học, văn hoá học, khảo cổ học, dân tộc học và văn hoá- văn nghệ dân gian
khác nữa… Do đó đã xuất hiện thực tế có tác phẩm nằm ở trung tâm thể tài du ký
và nhiều trang viết khác lại nằm ở đường biên hoặc hỗn hợp, pha tạp với những sắc
độ đậm nhạt khác nhau, cả về đối tượng, phạm vi đề tài, nội dung hiện thực lẫn
phong cách thể loại.
Trong nền văn học trung đại Việt Nam đã có nhiều sáng tác thuộc
thể tài du ký như thơ ca đề vịnh phong cảnh Thăng Long, núi Bài Thơ, Yên Tử,
Hoa Lư, sông Hương núi Ngự, Gia Định, Hà Tiên... Qua mười thế kỷ đã xuất hiện
nhiều tác gia, tác phẩm nổi bật như Vịnh Vân Yên tự phú của Huyền
Quang Lý Đạo Tái (1254-1334); Bài ký tháp Linh Tế núi Dục Thuý của
Trương Hán Siêu (?- 1354); Tịnh cư ninh thể phú và Đại Đồng
phong cảnh phú của Nguyễn Hàng (Thế kỷXV-XVI); Hà Tiên thập vịnh của
Mạc Thiên Tích (1706-1780) và nhiều tác giả khác; Nam trình liên thi tập của
Ngô Thì Ức (1709-1736); Phụng sứ Yên Đài tổng ca của Nguyễn Huy Oánh
(1713-1789); Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác (1720-1791); Nhị
Thanh động phú, Tây Hồ phong cảnh phú của Ngô Thì Sĩ (1726-1780); Tụng
Tây Hồ phú, Ngự đạo hành cung nhật trình của Nguyễn Huy Lượng (1750-1808); Bài
ký chơi núi Phật Tích của Nguyễn Án (1770-1815); Tây hành nhật ký của
Phạm Phú Thứ (1821-1882); Hương Sơn hành trình của Chu Mạnh Trinh
(1862-1905), v.v... Xin nhấn mạnh thêm, riêng với các tác phẩm thi ca có sự
giao thoa với lối thơ đề vịnh, đan xen giữa cảm hứng du ngoạn với lối thơ vịnh
sử, vịnh cảnh, vinh vật và xướng họa về những cảnh vật đó.
2. Trước hết, các tác phẩm thơ du ký của Phan Thúc Trực
(1808-1852) cần được đặt trong tổng thành 375 bài hiện còn và đã được PGS. TS.
Nguyễn Thị Oanh tuyển dịch, công bố 160 bài (2). Có thể thấy ngay nhan đề các tập
(phần, mục?) Hiệu tần thi tập (tập thơ sáng tác khi còn ở quê nhà,
khoảng trước năm Tân Sửu (1841), khi chưa thi đỗ), Bắc hành thi thảo (sáng
tác nhân chuyến ra Bắc năm Quý Mão (1843), có 20 bài), Nam hành thi thảo (sáng
tác trên đường vào kinh đô Huế cuối năm Ất Tị (1845), có 24 bài) của Phan Thúc
Trực cũng đều in đậm sắc thái cảm hứng du ký, liên quan đến các vùng đất và các
chuyến đi…Qua Cẩm Đình thi tuyển tập có thể thấy, từ quê sinh Vân Tụ
(Yên Thành – Nghệ An), Phan Thúc Trực đã từng ngược ra Bắc đến với thành nhà Hồ,
miếu Ông Trần, núi Diệu Sơn, động Hồ Công, Long Quang, đường Nông Cống, đền
Sòng – Sùng Sơn (Thanh Hóa), núi Dục Thúy (Ninh Bình), chùa Bạch Mã, quán Trấn
Vũ, Hồ Tây, phố Tràng Tiền, Quốc Tử Giám, sông Hồng (Hà Nội), Tiên Du, Thuận
An, lăng Sĩ Vương (Bắc Ninh), Nam Sách, Tứ Kỳ, Khinh Dao, Ngọc Lặc, Kinh Môn,
Giáp Sơn, chùa Quang Khánh (Hải Dương), chùa Thái Bình, núi Bằng Sơn, Độc Sơn,
Đồ Sơn (Hải Phòng); núi Thứu, chùa Quỳnh Lâm, Lôi Âm, Yên Tử, Yên Hưng, Bạch Đằng,
Đông Triều, Tiên Minh (Quảng Ninh)…; xuôi vào Nam qua thành Lục Niên, núi Di Lặc,
Quỳnh Đôi, Diễn Thủy, Diễn Châu, sông Lam, Lãng Điền, Cơ Sơn, Việt Yên Thượng,
Thái Xá, Nho Lâm, Đông Thành (Nghệ An), núi Hồng Lĩnh, Hương Sơn, Thành Hạc,
Nguyệt Viên (Hà Tĩnh), Hoành Sơn, Động Hải, Tân Phong, Quảng Xá (Quảng Bình), cửa
biển Tam Giang, trường thi Thừa Thiên, nhà Quốc học – Quốc Tử Giám, thành Huế
(Thừa thiên - Huế)… Liên quan trực diện đến nguồn cảm hứng và nội dung thể tài
du ký, Phan Thúc Trực nhấn mạnh ngay từ nhan đề bài thơ với các câu chữ như “du
sơn” (chơi núi), “đăng sơn” (lên núi), “quan hải” (ngắm biển), “hiểu đăng” (buổi
sớm lên), “đồng du” (cùng lên), “hạ nhật du” (ngày hè đi chơi), “phỏng sơn
phòng” (thăm sơn phòng), v.v… Xét ở trung tâm chủ điểm du ký, có thể
thấy Phan Thúc Trực thường có những bài thơ viết về các cuộc đi chơi, thăm thú
núi non, sông hồ, thăm các điểm di tích lịch sử, đền đài, chùa miếu và nơi danh
lam thắng cảnh.
Như đã nêu trên, Phan Thúc Trực gắn bó với quê hương mình và
có nhiều bài thơ nhắc nhớ đến các địa danh như thành Lục Niên, núi Di Lặc, Quỳnh
Đôi, Diễn Thủy, Diễn Châu, sông Lam, Lãng Điền, Cơ Sơn, Việt Yên Thượng, Thái
Xá, Nho Lâm, Đông Thành…Ở đây xin dẫn bài thơ Vãn vọng (Ngắm buổi
chiều) được Phan Thúc Trực ghi chú “Tứ nguyệt sơ tam nhật” (Ngày 3 tháng 4),
khoảng từ năm Tân Sửu (1841) về trước:
Hạ
sơ khí hậu dị xuân ôn,
Hữu
khách thừa lương vãn ỷ môn.
Hồng
nhật dư quan đê viễn chướng,
Xích
hà tán ảnh xạ thiên thôn.
Thử
hồi vọng nhãn phiên thành tưởng,
Kỷ
hứa sầu trường tại bất ngôn.
Độc
thị ưu du quan vật tính,
Thiên
biên sổ điểu chính phi phiên.
(Đầu hè khí hậu khác hẳn với mùa xuân ấm áp,
Có
người khách chiều tà tựa cửa hóng mát.
Ánh
mặt trời còn sót lại chiếu lên rặng núi xa xa,
Ráng
chiều đỏ tản bóng chiếu xuống ngàn làng.
Lúc
này xa ngắm lại thấy thương nhớ,
Bao
nỗi đau lòng chẳng nói nên lời.
Riêng
chỉ muốn du chơi ngắm nhìn muôn vật,
Bên
trời vài cánh chim bay lượn)
Rõ
ràng ngay khi còn ở giữa nơi quê hương mình, Phan Thúc Trực đã bộc lộ sở thích
được làm khách lãng du, bâng khuâng với bóng chiều, rặng núi xa và khẳng định ý
nguyện: Độc thị ưu du quan vật tính (Riêng chỉ muốn du chơi ngắm nhìn
muôn vật). Câu kết của bài thơ: Thiên biên sổ điểu chính phi phiên (Bên
trời vài cánh chim bay lượn) cũng chính là nỗi ám ảnh về biểu tượng cánh chim tự
do, ước vọng bay cao, bay xa đến mọi phương trời.Phan Thúc Trực hết lời ngợi ca
vẻ đẹp núi Dục Thúy với “cảnh tuyệt kỳ”, “chốn thanh u”, “hùng tráng” và hào hứng
cảm nhận con thuyền lướt sóng như là “chiếc thuyền tiên”.
Khi đến núi Dục Thúy (thường gọi Non Nước) thuộc Ninh Bình,
Phan Thúc Trực có bài thơ Vọng Dục Thúy sơn tự ngẫu đề (Ngắm chùa
trên núi Dục Thúy ngẫu hứng đề thơ):
Càn
khôn kỳ tạo thiết,
Sơn thủy biệt thanh u.
Hiểm địa thiên niên tráng,
Cao thành tứ vọng thu.
Bàng nham tàng Phật tự,
Thừa lãng phiếm tiên chu.
Kim cổ đăng lâm kỉ,
Dư hành vi nhất du.
(Trời đất dựng lên cảnh tuyệt kỳ,
Núi sông riêng một chốn thanh u.
Nơi đất hiểm ngàn năm còn hùng tráng,
Lên thành cao xa ngắm thu lại cả bốn bề.
Vách đá ẩn mình một ngôi chùa Phật,
Cưỡi sóng lướt trên chiếc thuyền tiên.
Xưa nay bao người về thăm nơi này,
Riêng tôi lần này mới đi lần đầu)
Ông
bộc lộ đúng tâm trạng của mình, ghi nhận xưa nay đã có bao lớp người qua nơi
đây nhưng bản thân mình mới được đến lần đầu. Câu kết của bài thơ mang nghĩa
kép, vừa biểu cảm nỗi hứng khởi vì lần đầu mới được qua thăm và cũng là niềm tự
hào bởi từ nay mình đã được ghi danh vào số những người từng “Kim cổ đăng lâm”
với núi Dục Thúy.
Cũng
như bao người khác, Phan Thúc Trực là bậc khoa bảng, một quan chức – thi nhân. Trên
đường công vụ qua Hoành Sơn - Đèo Ngang, hồn thơ của người du khách ấy đã hòa
nhập trong tiếng sóng biển:
Hành đáo Hoành Sơn bắc,
Nhân quan đại hải Đông.
Phàm lai vi vũ ngoạn,
Lâu khởi bích ba trung.
Tín hữu thừa phong chí,
Hà nan phá lãng công,
Tầm thường đồ trắc lãi,
Nhất vọng tư hà cùng.
(Khách trình quan hải)
(Đi tới phía bắc Hoành Sơn,
Nhân được ngắm nhìn biển Đông lớn.
Cánh buồm đi lại bên ngoài làn mưa lất phất,
Lầu gác nổi lên giữa lớp sóng xanh.
Nếu thật có chí “cưỡi sóng”,
Sao khó có công trong việc “phá sóng”.
Chỉ là anh học trò tầm thường suy nghĩ hạn hẹp,
Ngắm nhìn xa tít, ý tứ khôn cùng)
(Trên đường ngắm biển)
Với
trí tưởng tượng phong phú, Phan Thúc Trực thấy những cánh buồm trong mưa tựa
như những lầu gác nổi lên giữa muôn trùng sóng xanh và xa gần suy tưởng về số
phận con người giữa mênh mang thế giới tự nhiên. Con người có thể có chí “cưỡi
sóng” (kiểu như Dã Tràng xe cát lấp biển đông hay Ngu Công dời núi) nhưng chưa
thấy ai làm được việc “phá sóng” bao giờ. Trước không gian biển vô cùng vô tận,
Phan Thúc Trực thấy mình thật nhỏ bé, lại chỉ là anh học trò suy nghĩ hạn hẹp.
Phải đến bây giờ ông mới có dịp so sánh và đối sánh những suy nghĩ của mình với
mênh mông trời biển: Nhất vọng tư hà cùng (Ngắm nhìn xa tít, ý tứ
khôn cùng)…
Trên
đường qua vùng đất Tân Phong thuộc tỉnh Quảng Bình, Phan Thúc Trực một mình suy
tưởng giữa bóng đêm:
Cô quán nhân hiêu định,
Nghiêm quan lậu khắc tề.
Khiêu đăng hoàn bất mị,
Thao bút khước vô đề.
Lương vũ Hoành Sơn bắc,
Hà vân Động Hải tê.
Tân Phong tiêu độc chước,
Mao điếm thúc văn kê.
(Quảng Bình quan vũ trung lữ hoài)
(Quán khách lẻ loi, tiếng người huyên náo đã yên,
Cửa ải trang nghiêm, đồng hồ nhỏ giọt đều đều.
Khêu sáng ngọn đèn, trằn trọc không ngủ,
Cầm bút mà chẳng có thơ đề.
Mưa lạnh phía bắc Hoành Sơn,
Mây rét phía tây Động Hải.
Đêm ở Tân Phong, ngồi uống rượu một mình,
Điếm cỏ bỗng vang lên tiếng gà gáy)
Bài thơ phản ánh kiểu tâm trạng “tha hương lữ thứ” vốn phổ biến
trong thi ca trung đại. Hai câu thơ mở đầu tô đậm vẻ yên tĩnh của nhà quán, nhấn
mạnh tiếng động của đồng hồ nhỏ giọt, qua đó càng khắc sâu được vẻ yên tĩnh, lẻ
loi, trống vắng. Hai đôi câu thực và luận tiếp theo nhấn mạnh
sự đối lập giữa ngọn đèn sáng cùng lòng người thao thức với việc không làm được
câu thơ nào, rộng mở hai chiều cảnh ngộ và không gian Mưa lạnh – Mây rét, tây –
bắc, Hoành Sơn – Động Hải để đi đến xác lập trạng thái cô đơn với hình ảnh người
buồn uống rượu thâu đêm, đâu đó ngoài điếm cỏ mới vang lên tiếng gà báo sáng.
Một lần đến động Long Quang, còn gọi Mắt Rồng (nay thuộc
thành phố Thanh Hóa), Phan Thúc Trực kết hợp cả phong cách vịnh sử với vịnh cảnh
và xướng họa:
Hà niên trú tất thử sơn đầu,
Kiến thuyết Lê hoàng động lý du.
Sơn ảnh loạn tùy ba ảnh động,
Thụ quang đạp hợp thủy quang lưu.
Đối ngạn Châu Hàm thương hải nguyệt,
Cách thôn ngư xướng bạch tần châu.
Đồng châu hữu khách tương thù họa,
Vị tận kì quan vị khẳng hưu.
(Mộ du Long Quang động họa Cao Nghị phu nguyên xướng)
(Không biết năm nào xa giá dừng ở đầu ngọn núi,
Nghe nói vua Lê du chơi tới hang này.
Bóng núi chập chờn theo sóng nước,
Ánh cây theo sóng, nước đẩy bóng nắng trôi.
Núi Hàm Châu đối diện bên bờ, trăng vời vợi,
Cách thôn bên bãi lau vẳng lại tiếng hát người đánh cá.
Trong châu ấy có khách muốn cùng xướng họa,
Chưa tận hưởng kì quan này thì chưa thể về)
(Chiều tới chơi động Long Quang họa bài thơ của Cao Nghị phu)
Từ
điểm nhìn thể tài du ký, tác giả bài thơ này có thêm lời chú: “Ngày 19 tháng
10, đêm nghỉ lại ở nhà ông Tú tài Ngô Cao Trí, xã Nguyệt Viên hai đêm. Giờ Ngọ
ngày 21 ngồi thuyền quan theo dòng sông Nguyệt đi lên mạn trên…Động tại xã Nam
Ngạn, huyện Đông Sơn. Núi ấy từ tây bắc ngoằn ngoèo hơn 10 dặm, men theo sông
kéo dài đến tận đây thì dừng lại, trông giống với đầu rồng. Phía trên có hõm đá
đông rộng, tây hẹp, trông như mắt rồng cho nên gọi là động Long Quang. Trong động
có thơ đề của hai vua thời nhà Lê. Dưới có núi Bàn Thạch chạy ra tận mép nước
trông như hàm con rồng. Bên hàm có bến đò qua, đá lởm chởm. Đỉnh núi ở xã Yên
Thành, huyện Hoằng Hóa, trông giống như con rồng đang nhả châu, cho nên gọi là
Châu Phong. Trên núi có chùa, gọi là chùa Thần Đồng, dưới có khối đá trông như
hình người gọi là đá Thần Đồng. Xa trông thấy thuyền cá, thuyền buôn qua lại,
khói bếp nhà nhà trong chợ tụ tập đông đúc, âu cũng là một trong thắng cảnh đẹp”.
Xin
liên hệ với bài thơ cùng có cảm hứng đề vịnh – du ký của Thiên Nam Động Chủ Lê
Thánh Tông (1442-1497) được khắc trên vách động vào năm Bính Thìn (1496), đúng
một năm trước khi ông qua đời:
Thúy vi hữu địa khả bồi hồi,
Vọng viễn đăng cao vũ trụ khôi.
Khước nhạ cáo thành phong ngọc kiểm,
Thù tri thất lộ nhập Thiên Thai.
Nhàn vân mãn địa vô nhân tảo,
Hư thất lăng tiêu trấn nhật khai.
Yểu điệu giản cùng lâm tận ngoại,
Thời yêu hoàng ốc thúy hoa lai.
Vọng viễn đăng cao vũ trụ khôi.
Khước nhạ cáo thành phong ngọc kiểm,
Thù tri thất lộ nhập Thiên Thai.
Nhàn vân mãn địa vô nhân tảo,
Hư thất lăng tiêu trấn nhật khai.
Yểu điệu giản cùng lâm tận ngoại,
Thời yêu hoàng ốc thúy hoa lai.
(Cảnh đẹp trên sườn núi xanh, khiến lòng ta bồi hồi xao xuyến,
Lên cao nhìn ra xa thấy đất trời rộng lớn bao la.
Lên cao nhìn ra xa thấy đất trời rộng lớn bao la.
Những nghĩ rằng làm lễ cáo Tiên tổ xong, mở tráp ngọc xem xét
những di huấn của vua cha căn dặn, niêm phong rồi ra về,
Nào ngờ lại lạc lối đi vào chốn Thiên Thai này.
Mây trôi lơ lửng ngập đất không người quét,
Động rỗng vượt tầng không suốt ngày ánh mặt trời soi.
Cảnh đẹp kéo dài mãi tới tận ven rừng, chân suối,
Thi thoảng lại mời xa giá nhà vua đến thăm)
Nào ngờ lại lạc lối đi vào chốn Thiên Thai này.
Mây trôi lơ lửng ngập đất không người quét,
Động rỗng vượt tầng không suốt ngày ánh mặt trời soi.
Cảnh đẹp kéo dài mãi tới tận ven rừng, chân suối,
Thi thoảng lại mời xa giá nhà vua đến thăm)
Bài thơ của Lê Thánh Tông cũng có nguyên chú: “Trẫm bái yết
Sơn lăng xong, bóng cờ ra về phấp phới. Bấy giờ, sông núi dưới ánh mặt trời sưởi
ấm, hoa cỏ xanh tươi, cảnh xuân như vẽ. Trên bước đường về, bỗng qua động đá,
liền rời thuyền lên bờ, bước theo lối đá lên cao, hơi rừng bốc lên đẫm áo, tiếng
chim líu lo bên tai, hồn thơ lai láng, tình quê dạt dào, liền làm bốn vần để
mãi mãi lưu lại trên vách đá… Lúc đó là ngày 22 tháng 2, niên hiệu Hồng Đức 7
(1496)”(3)…
Vào cuối năm Tân Hợi (1851), Phan Thúc Trực được cử ra Bắc
tìm sách vở cổ. Khi ở Hà Nội, ông đi thăm thú nhiều nơi, trong đó có đến Tây Hồ
và viết hai bài thơ với nhan đề Hạ nhật du Tây Hồ hoài cổ chi tác nhị thủ (Làm
hai bài thơ khi du chơi Tây Hồ vào ngày hè):
I. Như hà Bắc hải tinh tra phiếm,
Bất cập Tây Hồ thủy các lương.
Thả vũ ngẫu nhiên tuy sở chỉ,
Trạc anh trạc túc vịnh Thương Lang.
(Chẳng biết đi bè ở biển Bắc ra sao,
Có lẽ cũng chẳng bằng hóng gió mát trên lầu gác ở Tây Hồ.
Bỗng gặp mưa nên đành tùy nơi dừng tạm,
Giặt giải mũ, rửa chân, ngâm bài thơ Thương Lang)
II. Vị ái Tây Hồ thắng,
Liêu vi hạ nhật ngu.
Hà hương phong lí viễn,
Trúc ảnh vũ trung u.
Thành quách y nhiên tại,
Giang sơn định bất thù.
Khả lân ca vũ địa,
Thủy các nhất cô bồ.
(Vì yêu thắng cảnh Tây Hồ,
Nhờ thế ngày hè thêm vui vẻ.
Hương sen theo gió đưa xa,
Bóng trúc trong mưa vắng vẻ.
Thành quách vẫn như xưa,
Núi sông chẳng thay đổi.
Đáng thương thay đất ca vũ này,
Dặt cỏ bồ xung quanh lầu gác)
Đến với Tây Hồ, Phan Thúc Trực xem nơi đây mát mẻ hơn cả thả
bè trên biển Bắc. Điển tích Trạc anh trạc túc vịnh Thương Lang (Giặt
giả mũ, rửa chân, ngâm bài thơ Thương Lang) có ý chỉ việc rũ bỏ bụi trần, giữ lối
sống thanh cao. Ông bày tỏ tình yêu với thắng cảnh Tây Hồ, nơi có hương sen và
bóng trúc, ngọn gió và cơn mưa cùng thành quách, núi sông kinh kỳ ngàn năm kim
cổ. Một cách kín đáo, ông hoài cảm, tỏ ý tiếc nuối cho chốn đô hội đã hóa hoang
tàn: Khả lân ca vũ địa - Thủy các nhất cô bồ (Đáng thương thay đất ca
vũ này - Dặt cỏ bồ xung quanh lầu gác)… Đúng như nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Oanh
nhận xét, Phan Thúc Trực có nhiều bài thơ viết về Hà Nội, gắn bó với Hà Nội: “Lần
đầu tiên thi sĩ họ Phan ra Hà Nội là vào năm 1843, nhưng thiên nhiên của Hà Nội
luôn chiếm một vị trí đặc biệt trong sáng tác của ông. Đối với nhà thơ, một Hà
Nội với hàng ngàn di tích lịch sử như đền Trấn Vũ, đền Bạch Mã, nổi tiếng khắp
trong Nam ngoài Bắc… đã là đề tài hấp dẫn để nhà thơ hoài niệm về quá khứ,
nhưng khung cảnh thiên nhiên với cuộc sống thường nhật của người dân kinh thành
Thăng Long ven sông Nhị cũng là điểm nhấn để ông nhớ tới một trong ba mươi (tam
thập vịnh) danh thắng của Hà Nội đã được các nhà Nho chọn vịnh thơ. Trong bài Nắng
sớm trên sông Nhị, chỉ bằng vài nét chấm phá, bức tranh tả cảnh sinh hoạt
trên sông dưới bến bên dòng Nhị hiện ra sống động (…). Thiên nhiên luôn là đối
tượng thẩm mỹ quan trọng của thơ ca, nhưng viết về thiên nhiên, các nhà thơ
không chỉ nhằm gửi những cung bậc cảm xúc của mình trước vẻ đẹp của đất trời,
trăng sao, cỏ cây, hoa lá mà còn gửi gắm tâm sự, ngụ ý, ngụ tình”, đồng thời đi
đến khái quát một phương diện đặc điểm tư duy nghệ thuật liên quan chặt chẽ với
dòng thơ du ký: “Những đoạn dẫn của các bài thơ không chỉ góp phần làm sáng tỏ
lịch sử của một danh thắng, mà còn có khả năng lưu giữ hình ảnh của thiên nhiên
bằng hình tượng nghệ thuật. Nó còn thể hiện tri thức lịch sử, địa lý của người
viết, đồng thời cũng cho thấy lối điều tra ghi rõ sự việc mang tính “điều tra
điền dã sử liệu” như chúng ta làm ngày nay, giúp người đọc dễ dàng tiếp cận và
hiểu biết rõ hơn về một vùng đất hoặc di tích lịch sử nào đó”(4)…
Một lần khác, ông lên núi Độc Sơn (còn gọi Độc Ngạn) ở xã Đồ
Sơn, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn (nay thuộc phường Ngọc Hải, quận Đồ Sơn,
thành phố Hải Phòng) chỉ để ngắm biển và suy tư:
Dư dục đông du quan cự hải,
Độc Sơn sơn thượng vị đình xa.
Vô cùng sơn thủy vi mang ngoại,
Kỷ tịch tang thương biến cải dư.
Loạn thích lâm lưu như dục quá,
Khinh phàm bàng ngạn ngẫu tương ư.
Thừa phong phá lãng hoài Tôn Ý,
Tằng phủ đương niên tố ốc lư.
(Thướng Độc Sơn đỉnh quan hải)
(Tôi muốn đi về phía đông xem biển lớn,
Dừng xe lại ở đỉnh núi Độc Sơn.
Ngoài kia núi và nước tít tắp mờ ảo,
Trải qua bao tang thương, thay đổi nhiều.
Đá sỏi ngổn ngang mép nước như muốn lấn qua,
Ngẫu nhiên thấy mấy cánh buồm mỏng cùng neo bên bờ,
Muốn cưỡi gió phá sóng như chí của Tôn Ý,
Có phải nơi đây năm đó cũng từng có nhà ở)
(Lên đỉnh Độc Sơn xem biển)
Có ý thức du ngoạn, khám phá, tìm hiểu, Phan Thúc Trực đã cất
công lên núi Độc Sơn để được xem “cự hải” (biển lớn). Đối diện với không gian
biển “tít tắp mờ ảo”, thi nhân chạnh lòng nghĩ đến chuyện vật đổi sao dời, bãi
biển hóa thành nương dâu và cánh buồm mỏng manh neo bên bờ biến lớn. Từ đây ông
nhớ đến điển tích nói về cái chí của Tôn Ý “Muốn cưỡi trên gió lớn phá tan con
sóng vạn dặm” và tưởng tượng, liên tưởng xa xôi: Tằng phủ đương niên tố ốc
lư (Có phải nơi đây năm đó cũng từng có nhà ở). Phải chăng ngoài cõi xa
xanh kia từng một thuở có những ngôi nhà, có con người sinh sống mà nay đã hóa
thành biển khơi ngàn trùng sóng vỗ? Có thể nói chính cuộc du chơi ngắm biển
trên núi Độc Sơn đã khơi gợi khả năng suy tưởng ở thi nhân về mối liên hệ giữa
cõi người với thế giới tự nhiên, không gian biển rộng và kiếp người vô thủy vô
chung…
3. Lời kết
Nghiệm sinh trên cõi đời 45 năm và thời gian làm quan chỉ có
hơn mười năm nhưng Phan Thúc Trực đã kịp để lại số lượng tác phẩm phong phú,
bao gồm cả về lịch sử, địa lý, văn chương. Nói riêng sáng tác thi ca, bên cạnh
các nội dung phản ánh “bức tranh hiện thực làng quê”, “nhà Nho có lòng thương
dân sâu sắc”, “tình cảm với những người thương yêu trong gia đình”, “tình cảm với
những người bạn”, “tình yêu thiên nhiên”(5),…ông còn có nhiều bài thuộc dòng
thơ du ký. Đi đến vùng quê nào ông cũng tìm đến thăm các điểm di tích lịch sử,
danh lam thắng cảnh và đề thơ, ghi lại những suy nghĩ và tình cảm sâu sắc của
mình. Dõi theo dòng thơ du ký của Phan Thúc Trực, ngay cả con người thời hiện đại
cũng có thể “ngồi một chỗ mà thấy ngoài muôn dặm”, thấy được cả vẻ đẹp đất trời,
quê hương xứ sở và những điểm di tích văn hóa do cha ông tạo lập nên. Phải
chăng với mỗi điểm di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh mà Phan Thúc Trực từng
đề vịnh, chúng ta có thể khắc in thơ du ký của ông (cũng như thơ du ký của nhiều
thi gia khác), góp phần tô điểm non sông, phát huy các giá trị tinh thần truyền
thống dân tộc và cũng chính là góp phần quảng bá cho ngành văn hóa du lịch thời
hiện đại. Có thể khẳng định dòng thơ du ký là một bộ phận độc đáo trong sáng
tác thi ca của Phan Thúc Trực và sẽ còn sức sống, tỏa sáng mãi với thời gian.
(1) Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc
Phi (Chủ biên): Từ điển thuật ngữ văn học. NXB Giáo dục, H., 1992,
tr.75-76.
Tham khảo Nguyễn Hữu Sơn: Thể
tài du ký trên Tạp chí Nam Phong. Nghiên cứu văn học, số 4-2007, tr.21-38.
- Du ký Việt Nam -
Nam phong tạp chí (1917-1934), ba tập (Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, giới thiệu). Nxb
Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2007; 1918 trang.
(2) Phan Thúc Trực: Cẩm Đình thi tuyển
tập (Nguyễn Thị Oanh giới thiệu - phiên âm - dịch chú). Nxb KHXH, H.,
2011, 508 trang. Các trích dẫn tác phẩm Phan Thúc Trực trong bài đều theo sách
này.
(3) Lê Thánh Tông - Thơ văn và cuộc đời (Mai
Xuân Hải sưu tầm, tuyển chọn). Nxb Hội Nhà văn, H., 1998...
(4) Nguyễn Thị Oanh: Vài nét về văn bản,
tác giả và tác phẩm, trong sách Cẩm Đình thi tuyển tập. Sđd, tr.37-38, 41.
(5) Nguyễn Thị Oanh: Vài nét về văn bản,
tác giả và tác phẩm, trong sách Cẩm Đình thi tuyển tập. Sđd, tr.11-46.
Nguyễn Hữu Sơn
vé máy bay eva air
vé máy bay đi mỹ khoảng bao nhiêu
hãng hàng không korean air vietnam
vé máy bay đi mỹ bao nhiêu
giá vé máy bay từ tphcm đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich