Đã bỏ xứ một tâm hồn hoang vắng
Ngày tôi sinh, với tác phẩm
thơ phản chiến Chiến tranh Việt Nam và tôi (1972) ông đã danh nổi
như cồn. Nhưng ngay cả cái tập thơ trứ danh đó, lớn lên tôi cũng chỉ đọc bài được,
bài mất, chưa bao giờ được cầm trên tay nguyên tập. Thơ cũng như người, Nguyễn
Bắc Sơn là của…chế độ cũ. Một thời gian dài ông vẫn sống nhưng không tồn tại,
nghĩa là suốt ngày rong chơi nhưng cứ phải giấu giấu giếm giếm, phù du đâu đó
trong trí nhớ và sự ngưỡng mộ, yêu mến của bạn bè, người yêu thơ, trong đó có
tôi.
Thì
đã làm sao? Cái thời mới lớn, nói nghiêm túc về một vấn đề không nghiêm túc,
thơ Nguyễn Bắc Sơn đã chất đầy trong hành trang tán gái của tôi và nhiều gã
trai khác. Thơ ông có những câu bình dị mà ấm áp, đẹp đến nhức lòng:
Ở Ðà Lạt, ngoài khung cửa
kính
Giàn su xanh thở ấm má em hồng
Và tôi, kẻ mười năm không áo lạnh
Biết đời mình đủ ấm hay không?
Ở Ðà Lạt ta tha hồ cuốc đất
Và tha hồ ẩn hiện giữa ngàn cây
Sẽ đi tìm cây cần trúc nhỏ
Ra hồ ngồi, câu đá câu mây…
Giàn su xanh thở ấm má em hồng
Và tôi, kẻ mười năm không áo lạnh
Biết đời mình đủ ấm hay không?
Ở Ðà Lạt ta tha hồ cuốc đất
Và tha hồ ẩn hiện giữa ngàn cây
Sẽ đi tìm cây cần trúc nhỏ
Ra hồ ngồi, câu đá câu mây…
Mê thơ, nhưng mãi đến
năm 1989, khi có một thời gian ngắn trọ học ở Phan Thiết, tôi mới có dịp gặp
người. Gặp thôi, không quen. Phải lòng những câu thơ thổn thức, gã trai mới
lớn là tôi dứt khoát sắp xếp thì giờ để đi, đến và gặp cho bằng được hai biểu
tượng thi ca đang ẩn dật đâu đó giữa đất trời Phan Thiết mặn mòi mùi gió biển.
Một là Mộng Cầm nữ sĩ – nàng thơ của Hàn Mặc Tử - bà chủ quán chè nhỏ
bé lọt thỏm trong xóm lao động nghèo Hưng Long nằm ngay mép biển. Hồi đó,
bà Mộng Cầm đã ngoài thất thập. Bà vẫn tự tay nấu chè nhưng không mấy khi đứng
bán. Tôi và lũ bạn không lấy đó làm buồn. Dù sao thì cái lúm đồng
tiền và chiếc răng khểnh của cô hàng nước không biết tên, cháu gái nữ sĩ
một thời cũng hay hay, rất ưa nhìn.
Người thứ hai, dĩ nhiên là
Nguyễn Bắc Sơn, gã nhà thơ kiêu bạc nhất Việt Nam mà tôi từng nghe danh, hình
hài đã già nhưng tuổi thì chưa nhiều mấy... Ở Đồi Dương hôm đó, Nguyễn Bắc
Sơn đang say, đang rượt đuổi một gã nào đó to như hộ pháp, râu ria xồm xoàm.
Thơ cũng giống như món nợ, đuổi thì người ta chạy chứ sợ hay thua thì chắc là
không, tôi đoán thế. Bởi lẽ, nhà thơ là người lẻo khoẻo, râu ria lém đém. Nói
chung là vừa đủ cho tôi hơi thất vọng. Trước đó, đọc thơ, tôi cứ nghĩ ông là một
tráng sĩ lừng lững, ngang tàng. Không ngang tàng, sao viết được thế này:
Những hào sĩ đứng bên bờ nhật nguyệt
Vỗ tay cười khinh lớp sóng lô nhô.
Những hào sĩ đứng bên bờ nhật nguyệt
Vỗ tay cười khinh lớp sóng lô nhô.
Sau này, đi viết, ra Phan Thiết thường xuyên, tôi gặp, ngồi quán chung với ông
nhiều lần. Lần nào ông cũng bảo: “Tụi mày là Trung ương, về địa phương muốn bắn
thì mang theo đạn. Tụi tao chỉ dọn bãi”. Nói vậy thôi, chứ gặp nhau, ông
chỉ uống một ly cà phê đen, chẳng bia rượu hay nhậu nhẹt gì. Chục lần như một,
bất kể sáng chiều, cứ gặp là tôi thấy ông đã say trước. Bảo say là vì mặt ông vừa
đỏ vừa tái, đi chân nam đá chân chiêu, chứ trước đó có uống hay không thì thật
tình tôi không biết.
Gặp nhau, ông toàn nói chuyện
tào lao, chẳng kể gì về đời mình, dù trước mặt ông là một tôi chân thành ngưỡng
mộ. Cơ hồ muốn tâm sự điều gì, ông đã gửi hết vào thơ. Như tự nhận: “Ta
đọc ba ngàn quyển sách/ Xong rồi chẳng nhớ điều chi”, ông coi sách vở
“như lá mít”, luôn tự nhạo báng mình là vô dụng. Tôi chẳng thấy ông làm gì cả,
suốt ngày rong chơi, đi đâu không ai biết, về đâu không ai hay hoặc chỉ “ngồi
khua ly trong quán cô hồn” để tự nhấm nháp “cái ngu đần của kẻ thông minh”
mà ưu thời mẫn thế. Ông tự trào: “Bậc thánh triết là những tay biếng
nhác/ Sống khề khà quanh bữa tiệc nhân sinh”. Khi vui hoặc cao hứng, ông không
làm thơ mà buông vài tiếng… chửi thề. Vậy là qua ngày.
Thạo chữ Hán, rành Anh Văn, Pháp Văn, giỏi võ, am hiểu đông y, ông làm thơ đau
đời rồi bốc thuốc xoa dịu nỗi đau đời. Lớn lên, chưa kịp thỏa hùng tâm
tráng chí, Nguyễn Bắc Sơn đã bị bắt lính, trở thành một binh nhì địa
phương quân. Bi kịch ở chỗ, cụ thân sinh của ông lại tham gia Cách mạng, đã đi
hết hai mùa kháng chiến. Năm 1976 cụ về hưu với cấp bậc Trung tá Quân đội
Nhân dân Việt Nam khi đang là Phó Chủ nhiệm Chính trị Khu 6. Cảm thức cô
độc, chán ghét, thậm chí tuyệt vọng về sự phi nghĩa, vô nghĩa của cuộc chiến và
màu áo lính Cộng hòa, Nguyễn Bắc Sơn trút hết vào thơ.
Ông viết:
Lỡ mai đụng độ ta còn sống
Về ghé sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm
Bỏ tiền mua vội một ngày vui
Về ghé sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm
Bỏ tiền mua vội một ngày vui
Tập “Chiến tranh Việt Nam và
tôi” rặt một giọng đập phá, vô chính phủ, bi quan cười cợt mọi
giáo điều hay sự tung hô, nhưng vẫn đẫm tình thương với con người đã đưa tên tuổi
Nguyễn Bắc Sơn lên thành một hiện tượng lạ, hiếm hoi, đầy kiêu bạc của
thơ ca miền Nam trước 1975. Bởi, nỗi niềm của ông cũng là tiếng thở
dài của một thế hệ thanh niên miền Nam đang tuyệt vọng với rằn ri đời
lính, cha con, bè bạn gầm gừ chĩa súng vào nhau:
Lũ chúng ta sống
đời vô vị
Nên chọn rừng sâu núi
cả đánh nhau
Thua ông gần 30 tuổi - Nguyễn
Bắc Sơn sinh năm 1944 - nhưng may mắn tôi được ông xem như một người bạn
vong niên. Bài viết của tôi ông đọc khá nhiều, nhất là những bài báo có
liên quan đến nắng gió Phan Thiết hoặc con người toàn xứ “ma Bình Thuận”. Một lần,
có việc đang đi chung với nhà văn Hồ Việt Khuê, nhà báo Phương Nam, tôi bất ngờ
bị ông đang ngồi cà phê với các anh Hà Thanh Tú, Huỳnh Thanh….của báo Bình Thuận
- chặn ngay đầu cầu Trần Hưng Đạo. Kéo riêng tôi ra một khoảng xa, đứng ngay giữa
đường, bộ mặt rất quan trọng, nhà thơ dấm dẳn: “Hồng Lam, mày đi nhiều, để anh
chỉ cho mày một tuyệt chiêu phòng thân. Khỏi cần dao súng gì, mày cứ chơi chiêu
này là chắc cú…”. Trong tay
đang cầm một chiếc túi vải kéo giải rút đầu miệng, Nguyễn Bắc Sơn lập tức quật
mạnh ba nhát vào ngực tôi. Tôi….gục ngay giữa đường, đau lịm cả người, hoa cả mắt.
Gượng tỉnh, bung nút áo, tôi thấy ngực mình hằn sâu ba vết, mép thâm tím và ứa
máu. Trời ạ, tuyệt chiêu của gã nhà thơ – giang hồ già là ba cái…ổ khóa Viro bằng
đồng nặng trịch bỏ trong túi dết giộng thẳng vào ngực gã đàn em giang hồ - là
tôi - một cách không thương tiếc. Không đề phòng, hôm đó tôi lãnh đủ! Còn may,
ông mới thử vô ngực chứ không thử hàm răng hay khuôn mặt. Nguyễn Bắc Sơn cực
điên những khi rất tỉnh, có việc gì mà ông chẳng dám làm!
Năm 1998, tôi ra tìm cuốn “300 năm Phan Thiết” làm tư liệu. Sách đã phát hành trước đó hai năm nên cả ở Sở VHTT lẫn báo Bình Thuận cũng chẳng ai còn cuốn nào dư để cho tôi. Nguyễn Bắc Sơn bảo: “Sao mày không hỏi anh. Dễ ợt, theo anh về nhà, anh lấy cho”. Dẫn tôi đến trước một căn nhà gỗ, nhỏ nhưng gọn gàng, nằm nép bên một động cát phía sau trường Dục Thanh, Nguyễn Bắc Sơn điềm nhiên đẩy cánh cổng bằng gỗ đã bong sơn mời tôi vào. Trong khi tôi đang đứng quan sát một vòng, anh điềm nhiên mở nốt cánh cửa nhà không khóa, vào thẳng giá sách, không cần tìm mà rút ngay cuốn sách tôi cần, bảo: “Bỏ vô cặp liền đi”.
Năm 1998, tôi ra tìm cuốn “300 năm Phan Thiết” làm tư liệu. Sách đã phát hành trước đó hai năm nên cả ở Sở VHTT lẫn báo Bình Thuận cũng chẳng ai còn cuốn nào dư để cho tôi. Nguyễn Bắc Sơn bảo: “Sao mày không hỏi anh. Dễ ợt, theo anh về nhà, anh lấy cho”. Dẫn tôi đến trước một căn nhà gỗ, nhỏ nhưng gọn gàng, nằm nép bên một động cát phía sau trường Dục Thanh, Nguyễn Bắc Sơn điềm nhiên đẩy cánh cổng bằng gỗ đã bong sơn mời tôi vào. Trong khi tôi đang đứng quan sát một vòng, anh điềm nhiên mở nốt cánh cửa nhà không khóa, vào thẳng giá sách, không cần tìm mà rút ngay cuốn sách tôi cần, bảo: “Bỏ vô cặp liền đi”.
Không hiểu ý, tôi điềm nhiên lật vài trang sách, xem ngay tại
chỗ. Nguyễn Bắc Sơn không buồn mời trà pha nước gì cả, cứ giục hoắng củ tỏi: “Cất đi. Đi lẹ lên!”. Rồi chụp tay tôi, ông già nhỏ thó lôi xềnh xệch ra cửa như
ma đuổi. Chưa đến cửa thì một phụ nữ đứng tuổi bước vào, đon đả chào: “Anh Sơn
lâu mới lại chơi hí? Chú em đây là…?”.
Rất kỳ quặc, Nguyễn Bắc Sơn vẹt chị phụ nữ sang một bên, kéo tôi lách nhanh qua cửa, giục: “Chạy (xe) đi!”. Không hiểu gì sất, tôi nổ máy, ông nhà thơ già tót ngay lên sau yên…
Quay lại quán cà phê, kể cho các nhà văn đàn anh là Hồ Việt Khuê và Lê Nguyên Ngữ nghe, hai ông anh cười ngất. Anh Ngữ bảo: “Cha Sơn vừa đưa mày đi ăn cắp sách đó. Chả làm gì có nhà. Hồi nãy, anh em mày vừa vào nhà ...Nguyễn Như Mây (nhà văn, có thời là chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Thuận). May mà vợ nó không la làng lên, không thì mày chết!” Tôi nghe suýt ngất, chỉ mong đất nứt cho mình độn thổ. Nhìn sang, lão tiền bối Nguyễn Bắc Sơn, mặt không chút hối hận, nói tỉnh bơ: “Ừ, thì nhà thằng Mây. Nhà ai kệ nó chớ. Mày cần sách thì cứ lấy mà đọc. Để đó nó mục, uổng, có ai đọc đâu!”
Rất kỳ quặc, Nguyễn Bắc Sơn vẹt chị phụ nữ sang một bên, kéo tôi lách nhanh qua cửa, giục: “Chạy (xe) đi!”. Không hiểu gì sất, tôi nổ máy, ông nhà thơ già tót ngay lên sau yên…
Quay lại quán cà phê, kể cho các nhà văn đàn anh là Hồ Việt Khuê và Lê Nguyên Ngữ nghe, hai ông anh cười ngất. Anh Ngữ bảo: “Cha Sơn vừa đưa mày đi ăn cắp sách đó. Chả làm gì có nhà. Hồi nãy, anh em mày vừa vào nhà ...Nguyễn Như Mây (nhà văn, có thời là chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Thuận). May mà vợ nó không la làng lên, không thì mày chết!” Tôi nghe suýt ngất, chỉ mong đất nứt cho mình độn thổ. Nhìn sang, lão tiền bối Nguyễn Bắc Sơn, mặt không chút hối hận, nói tỉnh bơ: “Ừ, thì nhà thằng Mây. Nhà ai kệ nó chớ. Mày cần sách thì cứ lấy mà đọc. Để đó nó mục, uổng, có ai đọc đâu!”
Hồn nhiên, Nguyễn Bắc Sơn cứ sống rong rêu như cái bóng của mình. Sau 1975, ông
không sáng tác thêm được bao nhiêu. Thơ ông thuộc vể ngày cũ. Đời ông thuộc về
miền hoang vắng. Nhưng bạn bè, người yêu thơ chưa bao giờ quên ông. Nguyễn Bắc
Sơn thuộc tuýp nghệ sĩ tác phẩm không nhiều nhưng giai thoại không ít. Ông sống
lẫn lộn giữa hiện tại và quá khứ, giữa hoài niệm trong veo và thực tại đua
chen, giữa hư và thực. Rất nhiều năm, như một người thừa không thể thiếu.
Mười năm nay, tôi ít ghé lại Phan Thiết. Tôi cũng hầu như không gặp ông, chỉ thỉnh thoảng hỏi thăm qua anh em văn nghệ, nghe về ông qua một vài giai thoại mới. Từ cơn đau tim thi ca, khi tuổi lớn, đời ông chuyển dần sang cơn đau tim bệnh lý. Những giai thoại nhạt dần, lịm dần, thoi thóp. Và đến sáng mùng 4-8-2015, tôi nghe tin ông đã về cõi tiêu diêu....
Chợt nhớ ra, chơi với ông bảo nhiêu năm, tôi cũng chẳng còn giữ được tấm ảnh nào chụp chung cùng ông cả. Hình như cứ phải có ai đó ra đi, có gì đó mất mát, người ta mới nhận ra mình là kẻ vô tâm...
Mười năm nay, tôi ít ghé lại Phan Thiết. Tôi cũng hầu như không gặp ông, chỉ thỉnh thoảng hỏi thăm qua anh em văn nghệ, nghe về ông qua một vài giai thoại mới. Từ cơn đau tim thi ca, khi tuổi lớn, đời ông chuyển dần sang cơn đau tim bệnh lý. Những giai thoại nhạt dần, lịm dần, thoi thóp. Và đến sáng mùng 4-8-2015, tôi nghe tin ông đã về cõi tiêu diêu....
Chợt nhớ ra, chơi với ông bảo nhiêu năm, tôi cũng chẳng còn giữ được tấm ảnh nào chụp chung cùng ông cả. Hình như cứ phải có ai đó ra đi, có gì đó mất mát, người ta mới nhận ra mình là kẻ vô tâm...
Ừ thôi, đã nhạt một
kiếp người. Muốn đọc lại vài câu thơ ông viết, không hiểu sao tôi chẳng nhớ được
gì khác ngoài duy nhất những câu trong bài “Bỏ xứ”. Cơ hồ trong đó, thơ ông đã
soạn sẵn lời giã biệt:
Kỳ lạ nhỉ, giờ đây ta bỏ xứ
Kỳ lạ nhỉ, giờ đây ta bỏ xứ
Theo trái phong du níu
gió lên trời
Xin bái biệt cổ thành với nhà ga hoang không thiết lộ
Khói của chòi rơm, bãi cát trăng soi.
Xin bái biệt cổ thành với nhà ga hoang không thiết lộ
Khói của chòi rơm, bãi cát trăng soi.
Đi nhé, anh Sơn! Xin
chào nhé, một tâm hồn hoang vắng!.
máy bay eva air
tìm vé máy bay đi mỹ
hãng máy bay hàn quốc
vé máy bay đi mỹ bao nhiêu tiền
mua vé máy bay đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich