Trong những bài thơ tác giả ẩn
danh hoặc ký tên nhưng không biết rõ người ấy là ai, Hai sắc hoa ti gôn và
TTKh là một huyền thoại lãng mạn đã gây mối trắc ẩn cho nhiều thế hệ yêu
thơ.
Câu chuyện bắt đầu cách đây
70 năm, ngày 27/9/1937 trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy, số 174 xuất bản tại
Hà Nội, có đăng truyện ngắn Hoa ti gôn của Thanh Châu, nội dung kể lại
mối tình tan vỡ của đôi trai gái ngày trước đã hò hẹn dưới giàn hoa ti gôn. Ít lâu
sau, có người đàn bà trẻ, dáng dấp bé nhỏ, nét mắt u buồn, mang đến tòa soạn Tiểu
Thuyết Thứ Bảy một phong bì dán kín, gửi cho ông chủ bút, trong có bài thơ Hai
sắc hoa ti gôn, ký tên TTKh. Bài thơ Hai sắc hoa ti gôn được đăng trên Tiểu
Thuyết Thứ Bảy số 179, ra ngày 30/10/1937, và sau đó còn ba bài nữa cũng ký tên
TTKh được gửi bằng đường bưu điện đến tòa soạn:
- Bài thơ thứ nhất, Tiểu
Thuyết Thứ Bảy số 182 (20/11/1937),
- Đan áo cho chồng, đăng
trên Phụ Nữ Thời Đàm,
- Bài thơ cuối cùng, Tiểu
Thuyết Thứ Bẩy, số 217 (23/7/1938).
Bài thơ thứ nhất xuất
hiện sau Hai sắc hoa ti gôn gần một tháng, và Bài thơ cuối cùng đăng
tám tháng sau.
Ngay khi Hai sắc hoa ti gôn ra đời, giới văn nghệ sĩ đã xôn xao, thi sĩ J. Leiba, người cùng tâm sự
với TTKh và là tác giả hai câu thơ nổi tiếng "Người đẹp vẫn thường hay chết
yểu. Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai", chép lại nguyên văn bài Hai sắc
hoa ti gôn trên Ngọ Báo với lời mở đầu:
Anh chép bài thơ tự trái tim
Của người thiếu phụ lỡ làng
duyên
Lời thơ tuyệt vọng ca đau khổ
Yên ủi anh và để tặng em.
Nguyễn Bính sau khi đọc Bài
thơ thứ nhất đã viết bài Dòng dư lệ để tặng TTKh, in lại trong tập Lỡ
bước sang ngang và Thâm Tâm có ba bài Màu máu ti gôn, Dang dở và Gửi
TTKh, và nhiều thế hệ sau còn có những bài thơ khác sụt sùi thương cảm cho
số phận TTKh. Vậy TTKh là ai?
Giọt lệ tương tư mới
Hai sắc hoa ti gôn mở
đường cho một lối lãng mạn khác với lãng mạn Đông Hồ, Tương Phố. Có thể nói Hai
sắc hoa ti gôn là giọt lệ tương tư mới, nơi TTKh, không phải là
giọt lệ khóc chồng của Tương Phố, khóc vợ của Đông Hồ, mà là giọt lệ khóc
cho tình yêu; hơn thế nữa, khóc người tình ngoài hôn nhân, một đối tượng
tự do, phóng khoáng, vượt khỏi khuôn khổ lễ giáo thời bấy giờ. Và lần đầu tiên
hai chữ người ấy được chính thức đưa vào thi ca, sau này nó sẽ trở
thành "cổ điển", trở thành ngôn ngữ gối đầu giường của giới trẻ trong
nhiều thế hệ:
Một mùa thu trước, mỗi hoàng
hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy
buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái
tóc,
Tôi chờ người đến với yêu
đương.
Người ấy thường hay ngắm lạnh
lùng
Dải đường xa vút bóng chiều
phong,
Và phương trời thẳm mờ
sương, cát,
Tay vít dây hoa trắng chạnh
lòng.
Người ấy thường hay vuốt tóc
tôi,
Thở dài trong lúc thấy tôi
vui,
Bảo rằng:"Hoa, dáng như
tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ
thôi!"
Thuở ấy, nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh
ly,
Cho nên cười đáp:"Màu
hoa trắng
Là chút long trong chẳng biến
suy."
Đâu biết lần đi một lỡ làng,
Dưới trời đau khổ chết yêu
đương.
Người xa xăm quá! - Tôi buồn
lắm,
Trong một ngày vui pháo nhuộm
đường...
Từ đấy, thu rồi, thu lại
thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi
thương nhớ...
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu
chết,
Vẫn giấu trong tim bóng
"một người".
Buồn quá! hôm nay xem tiểu
thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim tan
vỡ.
Và đỏ như màu máu thắm pha!
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa
xôi...
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu, hoa đỏ rụng chiều
thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy ngang sông đứng
ngóng đò.
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi! Người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa...
vỡ
Người ấy
Trong văn xuôi Việt Nam,
hai chữ người ấy đã được Nguyễn Trọng Quản dùng để chỉ người
tình trong truyện ngắn Thày Lazaro Phiền từ 1887. Vậy Nguyễn Trọng
Quản là người đầu tiên đưa danh từ Người ấy vào trong văn Việt. Và
Thanh Châu xướng lên hình ảnh hoa ti gôn trong truyện ngắn đăng trước
bài thơ của TTKh một tháng, trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy.
Nhưng TTKh là người đầu tiên
sử dụng hai chữ "người ấy" và hình ảnh "hoa ti gôn" vào thơ, như một hình tượng nghệ thuật mơ hồ và phiếm định về
người tình và cuộc tình tan vỡ. Về mặt tâm lý xã hội, người đàn bà có chồng
những năm 36 - 37, mấy ai dám nói đến người tình một cách công khai? TTKh đã
viết nên những lời tâm sự của bao nhiêu người đàn bà cùng cảnh ngộ ngang trái,
sống trong xã hội Khổng Mạnh đầu thế kỷ:
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu
chết,
Vẫn giấu trong tim bóng
"một người".
TTKh là ai?
Trong Bài thơ thứ nhất,
in sau Hai sắc hoa ti gôn hai tháng, có những yếu tố xác định rõ hơn
về cuộc tình này:
Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn
canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên
áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt
mành.
và nhất là hai câu cuối :
Biết đâu tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống
tuổi rồi.
Vườn Thanh và chồng
nghiêm là hai yếu tố gây tranh luận về nơi xẩy ra cuộc tình và tên người
chồng. Vườn Thanh ở đâu? Có phải ở Thanh Hóa không? Và người chồng của TTKh tên
là gì? Có phải là Nghiêm không?
Đến bài thơ thứ ba, bài Đan
áo cho chồng, lời thơ xa xót đầy nước mắt:
Ngoài trời mưa gió xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng
nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ trọn kiếp trong
duyên trái đời.
Và Bài thơ cuối cùng có
những câu gần như khó hiểu:
Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết tình em được ích gì?
Bởi nếu TTKh là người đem
chuyện của mình ra viết thành thơ, thì tại sao nàng lại trách ai? Vậy ai đây
là ai? Nàng trách chính nàng hay nàng trách người yêu? Nhất là đoạn sau, lời hờn
giận càng thêm gay gắt:
Là giết đời nhau đấy biết
không?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa
rung
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối
cùng.
Tất cả những lời trách móc u
uẩn này với nhịp điệu du dương, lời thơ tha thiết, gắn bó, làm cho toàn bộ
tác phẩm trở thành huyền thoại.
Nếu so sánh 4 bài thơ ký tên
TTKh và 3 bài thơ "trả lời" của Thâm Tâm in trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy
sau đó, người ta có thể mở được những nấc cửa đầu tiên vào những bí ẩn này. Bài Gửi
TTKH của Thâm Tâm có những câu sau đây:
...Tiếng xe trong vết bụi hồng
Nàng đi thuở ấy nhưng trong
khói mờ
Tiếng xe trong xác pháo xưa,
Nàng đi có bốn bài thơ trở về
Tiếng xe mở lối vu qui
Nay là tiếng khóc nàng chia
cuộc đời!
Miệng chồng, Khánh gắn trên
môi
Hình anh, mắt Khánh sáng ngời
còn mơ.
Từ ngày đàn chia đường tơ
Sao tôi không biết hững hờ
nàng đan
Kéo dài một chiếc áo len
Tơ càng đứt mối, nàng càng nối
dây.
Nàng còn gỡ mãi trên tay,
Thì tơ duyên mới đã thay hẳn
màu.
Góp hai thứ tóc đôi đầu,
Sao còn đan nối những
câu tâm tình?
Khánh ơi còn hỏi gì anh?
Lá rơi đã hết màu xanh màu
vàng."....
Thâm Tâm nhắc đến người yêu
tên Khánh. Vậy TTKh là gì? Có phải là những chữ Thâm Tâm - Khánh, viết tắt?
Hay là Tuấn Trình - Khánh (vì Thâm Tâm tên thật là Nguyễn Tuấn Trình). Hay TTKh
là Trần Thị Khánh, người yêu của Thâm Tâm?
Có thể nói hầu hết những nhà
biên khảo từ Hoài Thanh, Hoài Chân, trong Thi Nhân Việt Nam (1940),
Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên (1965), Nguyễn
Hữu Long, Nguyễn Tấn Trọng trong Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến (1968)
... và gần đây trong Tuyển Tập Thơ Mới 1932-1945 Tác Giả và Tác
Phẩm do Lại Nguyên Ân và Ý Nhi tập hợp phát hành năm 1992, tất cả đều đánh
dấu hỏi về TTKh.
Lập luận của Nguyễn Tấn Long
và Nguyễn Hữu Trọng
Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu
Trọng là hai nhà biên khảo đầu tiên có ý tìm hiểu kỹ nhất về cái mà hai ông gọi
là "Nghi án TTKH và Thâm Tâm". Trong bộViệt Nam Thi Nhân Tiền
Chiến, hai ông đưa ra những nhân chứng và những giả thuyết đã xuất hiện trên
báo chí, văn đàn từ năm 38 đến 68 của các ông Giang Tử, Thạch Hồ, Y Châu,
Nguyễn Bá Thế, Lê Công Tâm, Anh Đào. Người thì cho rằng TTKh chính là
Thâm Tâm. Người lại quả quyết TTKh là Trần Thị Khánh, người yêu của
Thâm Tâm.
Ông Giang Tử thuật lại cuộc
gặp gỡ với nhà thơ Tế Hanh vào tháng 11 năm 1944 trên chuyến xe đi Quảng Ngãi:
"Tế Hanh cho biết TTKh chính là Trần Thị Khánh, người em gái đồng tông với
mình ở Thanh Hoá và kể rõ thiên tình hận của nàng và thi sĩ Thâm Tâm. Giả thuyết
này không đứng vững vì Tế Hanh không phải người Thanh Hoá mà Quảng Ngãi và vườn
Thanh trong bài thơ không chắc đã là Thanh Hoá.
Ông Thạch Hồ và ông Y
Châu đều cho biết: TTKh là nhân vật có thật, đã đôi ba lần đến thăm thi sĩ
Thâm Tâm ở Khâm Thiên, lúc ông này ở chung với Nguyễn Bính và Trần Huyền Trân
(giả thuyết này phù hợp với lời tường thuật của Nguyễn Vỹ sau này).
Ông Nguyễn Bá Thế, tức nhà
văn Thế Nguyên lại xác định: TTKh chính là nhà văn Thẩm Thệ Hà, có tên thật là
Tạ Thành Kỉnh, TT là Tạ Thành còn K và H là chữ Kỉnh viết tắt. Việc này bị Thẩm
Thệ Hà phủ định hoàn toàn.
Nhưng có ba giả thuyết đáng
chú ý:
- Trên tạp chí Giáo Dục Phổ
Thông, số 49, ra ngày 1/11/1959, tại Sài Gòn, ông Lê Công Tâm cho
biết: TTKh chính là thi sĩ Thâm Tâm, người đã dàn cảnh một thiếu phụ bị ép
duyên, khóc tình dang dở bằng những bài thơ Hai sắc hoa ty gôn và Bài
thơ thứ nhất.
- Báo Sống ra ngày
15/4/1967, ông Nguyễn Tố, xác định đã sống chung với Thâm Tâm năm 1936, cùng với
Trần Huyền Trân, Vũ Trọng Can. Thâm Tâm có mấy bài thơ ký tên TTKh như bài Hai
sắc hoa ty gôn. Lúc đó Khánh là người mà Thâm Tâm yêu say đắm, lúc Khánh đi lấy
chồng, Thâm Tâm đau khổ gần như phát điên. Lũ chúng tôi vừa giễu cợt, vừa
khuyên lơn. Chính trong thời gian thất tình, Thâm Tâm viết được mấy bài thơ ký
tên TTKh.
- Nhưng trong báo Nhân Loại,
bộ mới số 108 ra tháng 7 năm 1958 tại Sài Gòn, ông Anh Đào lại đưa ra
một thoại mới mà thoại này, theo ông, do chính Thâm Tâm kể lại. Ông Anh
Đào kể rằng: Năm 1941, trong một đêm thu lạnh lẽo, ông được ngồi giữa hai
nhà thơ Nguyễn Bính và Thâm Tâm bên một bàn đèn thuốc phiện và chính ông được
nghe Thâm Tâm tâm sự. Thâm Tâm nói rằng: TTKh. là tên một thiếu phụ mà trước
kia tôi yêu. Và Thâm Tâm xác định những bài thơ đăng trên báo là của nàng,
và ông Anh Đào kết luận rằng Thâm Tâm xứng đáng là "người ấy"
của TTKh.
Sau khi đưa ra các luận chứng
và giả thuyết trên đây, Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng, tác giả Việt
Nam Thi Nhân Tiền Chiến, kết luận:
TTKh. không thể là sản phẩm
tưởng tượng của Thâm Tâm vì đó là nỗi lòng tha thiết của một người, với những vần
thơ lâm ly như thế thì người khác không thể viết thay được. Vậy Thâm Tâm là
Thâm Tâm và TTKh là TTKh. Hai người có thể là đôi tri kỷ nhưng không thể cùng
là một người. Các tác giả Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến muốn đóng hồ
sơ nghi án trên một huyền thoại.
Sự xác định của Nguyễn Vỹ
Nguyễn Vỹ là một trong những
nhà thơ tiên phong trong phong trào Thơ Mới. Năm 1970, khi Nguyễn Vỹ xuất bản
cuốn Văn Thi Sĩ Tiền Chiến tại Sàigòn, thì ông đã đưa sự thực về Thâm
Tâm và TTKh ra ánh sáng.
Như chúng ta đã biết, sau Phan
Khôi, Nguyễn Vỹ cùng với Lưu Trọng Lư, Nguyễn Thị Manh Manh, Thế Lữ là những
người đã phát triển phong trào Thơ Mới. Nguyễn Vỹ và Mộng Sơn lập trường phái Bạch
Nga, chủ trương cách tân thơ, chú trọng đến khía cạnh âm nhạc và hình thức xếp
chữ trong thơ. Trường phái Bạch Nga bị Thế Lữ và Hoài Thanh đả kích kịch liệt,
thơ Nguyễn Vỹ không được tiếp nhận đúng mức. Đánh giá thơ Nguyễn Vỹ là một vấn
đề khác mà chúng tôi không đề cập đến trong bài này. Nguyễn Vỹ là bạn thân của
Lan Khai, Lưu Trọng Lư,Trương Tửu và trong cuốn Văn Thi Sĩ Tiền Chiến ông
đã vẽ lại chân dung 35 nhà văn, nhà thơ sinh hoạt trong không khí văn học từ đầu
thế kỷ đến 1945. Một tư liệu quý cho những người nghiên cứu văn học.
Sau hơn 30 năm im lặng,
1970, một năm trước khi mất, Nguyễn Vỹ đã công bố những lời tâm sự của Thâm Tâm
22 năm sau khi Thâm Tâm qua đời trong bài viết Thâm Tâm và sự thât về TTKh. mà
chúng tôi xin lược trình sau đây:
Năm 1936, 37 có xuất hiện ở
phố Chợ Hôm, ngoại ô Hà Nội, một nhóm văn sĩ trẻ với bút hiệu là Trần Huyền
Trân, Thâm Tâm và một vài người nữa. Ít ai để ý đến họ. Huyền Trân và Thâm Tâm
đều mới 18, 19 tuổi.
Họ có một tờ tuần báo nhỏ, tên là Bắc Hà ở phố Chợ Hôm. Chủ động trên tờ báo là Trần Huyền Trân. Báo Bắc Hà bán không chạy lắm, tuy có vài mục hài hước, vui, nhờ mấy bức vẽ của Tuấn Trình. Thâm Tâm là bút hiệu của Tuấn Trình. Tuấn Trình vẽ nhiều hơn viết, thỉnh thoảng đăng một bài thơ, vài mẫu truyện ngắn. Đôi khi thấy xuất hiện trên mặt báo vài ba bài thơ có tính cách ca dao, ái tình của Nguyễn Bính học sinh lớp nhất trường tiểu học Hà Đông. Nguyễn Bính thi rớt, nghỉ học luôn.
Họ có một tờ tuần báo nhỏ, tên là Bắc Hà ở phố Chợ Hôm. Chủ động trên tờ báo là Trần Huyền Trân. Báo Bắc Hà bán không chạy lắm, tuy có vài mục hài hước, vui, nhờ mấy bức vẽ của Tuấn Trình. Thâm Tâm là bút hiệu của Tuấn Trình. Tuấn Trình vẽ nhiều hơn viết, thỉnh thoảng đăng một bài thơ, vài mẫu truyện ngắn. Đôi khi thấy xuất hiện trên mặt báo vài ba bài thơ có tính cách ca dao, ái tình của Nguyễn Bính học sinh lớp nhất trường tiểu học Hà Đông. Nguyễn Bính thi rớt, nghỉ học luôn.
Tôi - tức là Nguyễn Vỹ - tuy
không chơi thân, nhưng quen biết Trần Huyền Trân khá nhiều vì anh ta ở trọ một
căn nhà trong ngõ Khâm Thiên, phía sau chợ. Tôi ở một gác trọ của đường Khâm
Thiên, gần Ô Chợ Dừa. Đôi khi Trần Huyền Trân nhờ tôi viết bài cho tuần báo Bắc
Hà "cho vui" vì không có tiền nhuận bút. Để tỏ tình thông của văn nghệ,
tôi có viết một truyện ngắn khôi hài, và chỉ có một lần.
Trong một số báo đặc biệt
Mùa hè, Tuấn Trình có vẽ một cặp Bạch Nga bơi trên Hồ Hoàn Kiếm và ghi ở dưới
"Nguyễn Vỹ và Mộng Sơn".
Tôi quen biết Tuấn Trình là
do Trần Huyền Trân giới thiệu. Nhà anh ở Chợ Hôm, cách chợ độ ba, bốn trăm thước.
Anh đẹp trai, y phục lúc nào cũng bảnh bao, người có phong độ hào hoa, lịch thiệp.
Tôi thấy ở Sàigòn có anh Hoàng Trúc Ly, nhà văn, na ná giống Tuấn Trình về
dáng điệu cũng như tính tình, tư cách. Nhiều khi gặp Hoàng Trúc Ly trên đường
Bonnard Sàigòn, tôi quên lững, cứ tưởng như gặp Tuấn Trình trên phố Chợ Hôm Hà
Nội.
Một buổi chiều gần tối, Tuấn
Trình đi lang thang gần chợ Khâm Thiên. Tôi từ Hà Nội về nhà, tôi tưởng anh đến
Trần Huyền Trân, nhưng anh bảo: Thằng Huyền Trân nó đi đâu, không có nhà. Tôi rủ
anh về gác trọ của tôi ở cuối phố. Hôm ấy, tôi có vài chục bạc trong túi, có thể
làm một tiệc bánh giò chả lụa với Tuấn Trình. Tôi bảo anh ở lại ngủ với tôi cho
vui. Đêm ấy cao hứng, Tuấn Trình ngà ngà say rượu Văn Điển, kể chuyện tình của
anh với cô Khánh cho tôi nghe.
Câu chuyện tình
Trần Thị Khánh là một cô học
trò lớp nhất trường tiểu học Sinh Từ. Thi hỏng, cô ở nhà giúp mẹ làm việc nội
trợ. Nhà cô cũng ở đường Sinh Từ, ngay cạnh Thanh Giám, nơi đền thờ Khổng Tử.
Thanh Giám là một thắng cảnh
Hà Nội, đã liệt vào cổ tích Việt Nam, xây cất từ đời nhà Lý, tu bổ cho tới đời
nhà Lê, hình chữ nhật, xung quanh xây tường đá ong, cao độ hai thước Đền thì ở
trong cùng, trước đền có Hồ Tròn, hai bên hồ có những tấm bia ghi tên các tiến
sĩ đời nhà Lê. Vào Thanh Giám có cổng tam quan lớn, trước cổng có tấm bia đề
hai chữ Hán "Hạ mã" và hai trụ cao. Trong vườn trồng rất nhiều cây cổ
thụ và các cây kiểng, nơi đây rất yên tĩnh và mát mẻ, cũng là nơi các cặp trai
gái hẹn hò tâm sự. Trước kia có một bầy quạ chiều tối bay về đây ngủ, cho nên
người Pháp cũng gọi là Pagode des corbeaux. Chùa Quạ, ngoài danh từ lịch sử
Temple de Confucius, Đền Khổng Tử.
Cô nữ sinh Trần Thị Khánh là
một thiếu nữ đẹp. Tuấn Trình có một người cô, nhà ở phố Chợ Cửa Nam, gần Sinh Từ.
Anh thường đến đây thăm cô và trông thấy cô Khánh đi chợ mỗi buổi sáng. Lúc ấy
vào khoảng tháng 2 năm 1936, họa sĩ Tuấn Trình - tên gọi hồi đó - mới 19 tuổi, và
cô Khánh 17 tuổi. Tuấn Trình mới bắt đầu vẽ và viết chút ít trong tờ tuần báo Bắc
Hà của Trần Huyền Trân vừa xuất hiện.
Sau một vài tháng theo dõi,
Tuấn Trình làm quen được với cô Khánh và gởi báo Bắc Hà tặng cô. Cô gái 17 tuổi,
cảm mến người nghệ sĩ tài hoa, tình yêu chớm nở như cành hoa antigone trắng
cũng vừa chớm nở trong tháng đầu hè trước sân nhà cô.
Antigone là loại hoa của người
Pháp đem qua hồi đầu thế kỷ, không thơm nhưng đẹp. Nó là loại hoa dây, lá giống
như lá nho, cho nên ở miền Nam nhiều người gọi là hoa nho. Có hai loại: hoa trắng
và hoa hồng. Hoa nở vào đầu mùa hè thành những chùm rất dễ thương, nụ hoa giống
hình trái tim nho nhỏ. Ở Hà Nội người ta trồng rất nhiều và bán cũng rất nhiều ở
chợ Đồng Xuân, cũng như ở Chợ Hoa, bờ hồ Hoàn Kiếm. Cắm nó vào lọ để phòng
khách, nó buông ra một vẻ lãng mạn, khả ái lắm. Người Bắc gọi tắt là hoa ty
gôn. Ở phố Sinh Từ, antigone mọc rất nhiều, như trước sân nhà ông Nguyễn Văn
Vĩnh và Nguyễn Nhược Pháp. Nhà trọ của Lưu Trọng Lư và Lê Tràng Kiều ở phố
Hàm Long có cả một giàn hoa trắng và hồng. Nhưng mùa đông lá rụng, hoa tàn thì
không cảnh nào tiêu sơ quạnh quẽ bằng.
Tình yêu của Tuấn Trình và
Trần Thị Khánh chớm nở ngay lúc những chùm hoa antigone vừa hé nụ, và chết giữa
mùa đông năm đó, trong lúc giàn hoa ty gôn úa tàn, rụng ngập đầy sân. Thời kỳ
mơ mộng ngắn ngủi trong mấy tháng hè, sang hết mùa thu, không đem lại chút thỏa
mãn nào cho tâm hồn khao khát của Tuấn Trình.
Chính lúc này Tuấn Trình lấy
bút hiệu là Thâm Tâm. Một vài bài thơ tình thức đêm làm tặng cô Khánh. Những
bài thơ đầu tiên đăng trên tuần báo Bắc Hà đều ký là Thâm Tâm, nhưng các tranh
vẽ trong báo vẫn ký Tuấn Trình. Nhưng cô gái 17 tuổi, dè dặt, theo lễ giáo của
gia đình, chưa thật bao giờ đáp ứng đúng với tình yêu tha thiết của Tuấn Trình
Thâm Tâm.
Trong lúc những cặp tình
nhân trẻ trung dắt nhau đi du ngoạn khắp nơi thơ mộng ở Hà Nội và ngoại ô, thì
Trần Thị Khánh cứ phải từ chối những lời mời của Thâm Tâm. Cô thường nói:
"Thầy mẹ em nghiêm lắm, gia đình em nghiêm lắm."
Lần nào cô Khánh cũng lặp lại chữ nghiêm gia giáo ấy để trả lời kỳ vọng
khát khao của người yêu.
Chỉ được hai lần Khánh đến
nơi hẹn, nhưng không được lâu. Lần thứ nhất, một đêm trăng, Khánh lẻn băng qua
đường vào vườn Thanh Giám. Tuấn Trình đã chờ người yêu nơi đây, dưới bóng cổ thụ.
Nhưng cả hai cũng không nói được gì, Khánh run sợ. Tuấn Trình bối rối, tất cả
những lời lẽ bay bướm đã sắp sẵn, bây giờ quên hết. Cuối cùng lại trách móc
nhau vì những chữ "Thầy mẹ em nghiêm lắm" và rồi Khánh cũng vội vã chạy
về nhà.
Lần thứ hai, vườn Thanh Giám
đêm ấy cũng ngập ánh trăng thu. Nhiều người nói Thanh là Thanh Hóa, là hoàn
toàn sai sự thật. Nhưng thái độ của Khánh lạ lùng, khó hiểu. Hình như Khánh muốn
nói với Tuấn Trình một điều gì, nhưng ngại ngùng không nói. Rồi nàng buồn bã hỏi: "Anh
định bao giờ đến xin thầy mẹ cho chúng mình ?" Chàng họa sĩ bối rối
trước câu hỏi bất ngờ. Chàng lơ đễnh bảo: "Anh chưa nghĩ đến việc ấy,
vì..." Câu chuyện bị bỏ dở nơi đây cho đến khi từ giã.
Hai người vẫn thư từ với
nhau cho đến một hôm...Tuấn Trình nhận được bức thư của người yêu,
không, của người đã hết yêu, báo tin nàng sắp lấy chồng. Thư viết bằng mực tím,
trên bốn trang giấy học trò, xé trong một quyển vở Nam Phương Hoàng hậu (loại vở
học trò rất thông dụng lúc bấy giờ).
Đại khái trong thư Khánh nhắc
lại tình yêu "thơ mộng" của cô với "Người nghệ sĩ tài hoa son trẻ",
đó là những chữ cô dùng trong thư. Tình yêu rất đẹp, nhưng vì thầy mẹ của cô rất
"nghiêm" theo lễ giáo, nên dù vị hôn phu của cô là một người chỉ mới
biết sơ thôi nhưng cô vẫn có "bổn phận phải giữ tròn chữ hiếu", cô
than thở đời cô khổ nên tình duyên ngang trái, cô khóc suốt đêm, v.v...Cuối
thư ký tắt Kh.
Tuy Khánh không viết gì về vị
hôn phu và ngày cưới, nhưng sau dọ hỏi, Tuấn Trình được biết chồng Khánh là một
nhà buôn giàu có ở phố Hàng Ngang, 39 tuổi, đẹp trai, góa vợ và không có con.
(Trong câu thơ bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi là chỉ sự cách biệt
tương đối giữa tuổi 39 của người chồng và tuổi vị thành niên của Khánh). Tiệc
cưới rất linh đình, rước dâu bằng 10 chiếc Citroën mới. Cô dâu đeo nữ trang rực
rỡ, mặc chiếc áo màu đỏ tươi, lộng lẫy ngồi cạnh người chồng mặc áo gấm xanh.
Đêm trước hôm cô Khánh lên
xe hoa, Thâm Tâm tổ chức tại tòa báo Bắc Hà một tiệc thịt chó, uống Mai quế lộ,
mời Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can tham dự. Họ say sưa ngâm thơ,
làm thơ, cười đùa cho đến khuya rồi lăn ra ngủ trên đất.
Trái với mọi dự đoán, Khánh
rất hạnh phúc với chồng. Người đau khổ là Tuấn Trình Thâm Tâm. Vừa nhớ thương
đơn phận, vừa bị mặc cảm của người nghệ sĩ nghèo bị người yêu bỏ rơi, lại còn bị
mấy thằng bạn chế nhạo, đùa bỡn, nhất là Vũ Trọng Can.
Vì một chút tự ái văn nghệ,
Tuấn Trình đã thức suốt đêm, theo lời anh thuật lại, để làm bài thơ Hai sắc
hoa ti gôn, ký tên TTKh, với thâm ý cho Trần Huyền Trân và Vũ Trọng Can tin là
của Khánh làm ra để thương tiếc mối tình tan vỡ. Muốn giữ tính cách bí mật, Tuấn
Trình nhờ cô em họ chép lại bài thơ trên, dán kín bao thơ và nhờ cô này mang
thư đến tòa báo.
Tất nhiên là giọng thơ lãng
mạn của Tuấn Trình hoàn toàn khác với lời tâm sự trong bức thư cuối cùng của
Khánh báo tin sắp lấy chồng. Cô Khánh không biết làm thơ. Và theo lời Tuấn
Trình, cô ghét những bài thơ của Thâm Tâm. Sau khi nhận được bức thư cuối cùng
của Khánh, trong thư Khánh tỏ ý không bằng lòng Tuấn Trình đã mượn tên cô để
làm thơ kể chuyện tình duyên cũ trên báo, có thể làm hại đến cuộc đời của cô.
Trong lá thư phản đối đó, Khánh xưng tôi chứ không xưng em nữa.
Thâm Tâm lấy lại những lời,
những chữ trách móc giận dữ của Khánh trong thư để làm Bài thơ cuối cùng ký
tên TTKh, với những câu:
Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết tình em được ích gì?
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách
xem.
Là giết đời nhau đấy biết
không?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa
rung
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối
cùng.
Từ nay anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình
Rồi để đáp lại Bài thơ
cuối cùng, Thâm Tâm làm bài Dang dở tặng TTKh, cũng là bài thơ kết
thúc niềm đau của mối tình dang dở:
Nhưng anh biết cái gì xưa đã
chết,
Anh càng buồn càng muốn kết
thành thơ,
Mộng đang xanh, mộng hóa bơ
phờ,
Đây bài thơ chót kính dâng tặng
bạn.
Huyền thoại Hai sắc hoa
ti gôn, sở dĩ được những tên tuổi nổi tiếng của thi ca đương thời phụ hoạ
và đứng vững lâu dài trong lòng người đọc, bởi nó chở những đớn đau chân thực của
một người tình, dù viết dưới bàn tay trá hình Thâm Tâm. Và cũng nhờ tài năng của
Thâm Tâm mà chúng ta có được hai hình tượng mới: Người ấy và hoa ti gôn. Tính mơ hồ bóng gió của người ấy và cái chết thảm khốc của Antigone ẩn
trong một chùm hoa nhỏ, xinh như mộng, càng làm tăng thêm chất bi đát thầm lặng
của tình yêu, liệm thêm sự bí mật của những chữ TTKH.
Phụ lục
Bài thơ thứ nhất - TTKh (2)
Thuở trước hồn tôi phơi phới
quá
Lòng thơ nguyên vẹn một làn
hương
Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại
Êm ái trao tôi một vết
thương.
Tai ác ngờ đâu gió lại qua
Làm kinh giấc mộng những
ngày hoa
Thổi tan tâm điệu du dương
trước
Và tiễn người đi bến cát xa.
Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn
canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên
áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt
mành.
Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác
Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều.
Từ đấy không mong không dám
hẹn
Một lần gặp nữa dưới trăng
nghiêm
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời
lạ
Người ấy ghi lòng vẫn nhớ
em.
Đang lúc lòng tôi muốn tạm
yên
Bỗng ai mang lại cánh hoa
tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc
chút duyên.
Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ
Tóc úa giết dần đời thiếu phụ
Thì ai trông ngóng chả nên
chờ.
Viết đoạn thơ đầu lo ngại
quá
Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:
“Cố quên đi nhé câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng
thơ”.
Tôi run sợ viết lặng im nghe
Tiếng lá thu khô xiết mặt hè
Như tiếng chân người len lén
đến
Song đời nào dám gặp ai về.
Tuy thế tôi tin vẫn có người
Thiết tha theo đuổi nữa than
ôi
Biết đâu tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống
tuổi rồi.
Đan áo cho chồng – TTKh (3)
Chị ơi, nếu chị đã yêu
Đã từng lỡ hái ít nhiều đau
thương
Đã xa hẳn quãng đời hương
Đã đem lòng gửi gió sương mịt
mùng
Hay chăng chị mỗi chiều đông
Đáng thương những kẻ có chồng
như em
Vẫn còn giá lạnh trong tim
Đan đi đan lại áo len cho chồng
Con chim ai nhốt trong lồng
Hạt mưa nó rụng bên sông bơ
thờ
Lưng trời nổi tiếng tiêu sơ
Hay đâu gió đã sang bờ ly
tan
Tháng ngày miễn cưỡng em đan
Kéo dài một chiếc áo lam cho
chồng
Như con chim nhốt trong lồng
Tháng ngày than tiếc ánh hồng
nơi nao
Ngoài trời hoa nắng xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng
nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ hết kiếp trong duyên
trái đời
Lòng em khổ lắm chị ơi
Trong bao ngờ vực với lời mỉa
mai
Quang cảnh lạ, tháng năm dài
Đêm đêm nằm tưởng ngày mai
giật mình.
Bài thơ cuối cùng – TTKh (4)
Anh hỡi, tháng ngày xa quá
nhỉ?
Một mùa thu cũ một lòng
đau...
Ba năm ví biết anh còn nhớ,
Em đã câm lời có nói đâu!
Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt
ly,
Càng khơi càng thấy lụy từng
khi
Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết tình em được ích gì?
Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài thơ "đan áo" của
chồng em
Bài thơ "đan áo"
nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách
xem...
Là giết đời nhau đấy biết
không ?
...Dưới giàn hoa máu tiếng
mưa rung
Giận anh, em viết dòng dư lệ,
Là chút dư hương điệu cuối
cùng!
Từ nay anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình
Những cánh hoa lòng, hừ! đã
ghét
Thì đem mà đổi lấy hư vinh.
Ngang trái đời hoa đã úa rồi,
Từng mùa gió lạnh sắc hương
rơi...
Buồng nghiêm thờ thẩn hồn eo
hẹp
Đi nhớ người không muốn nhớ
lời!
Tôi oán hờn anh mỗi phút
giây,
Tôi run sợ viết, bởi rồi
đây,
Nếu không yên được thì tôi
... chết
Đêm hỡi, làm sao tối thế này
?
Năm lại năm qua cứ muốn yên
Mà phương ngoài gió chẳng
làm quên;
Và người vỡ lỡ duyên thầm
kín
Lại chính là anh? anh của
em!
Tôi biết làm sao được hỡi trời?
Giận anh không nỡ nhớ không
thôi!
Mưa buồn mưa hắt trong lòng
ướt...
Gửi T.T. Kh. – Thâm Tâm (5)
Các anh hãy uống thật say,
Cho tôi những cốc rượu đầy rồi
im
Giờ hình như quá nửa đêm ?
Lòng đau đem lại cái tin cuối
mùa
Hơi đàn buồn như trời mưa
Các anh tắt nốt âm thừa đi
thôi
Giờ hình như ở ngoài trời
Tiếng xe đã nghiến đã rời rã
đi.
Hồn tôi lờ mờ sương khuya
Bởi chưng tôi viết bài thơ
trả lời
Vâng, tôi biết có một người
Một đêm cố tưởng rằng tôi là
chồng
Ðể hôm sau khóc trong lòng
Vâng tôi có biết cánh đồng
thời gian
Hôm nay rụng hết lá vàng
Và tôi lỡ chuyến chiều tàn về
không.
Tiếng xe trong vết bụi hồng
Nàng đi thuở ấy nhưng trong
khói mờ.
Tiếng xe trong xác pháo xưa,
Nàng đi có bốn bài thơ trở về.
Tiếng xe mở lối vu qui
Nay là tiếng khóc nàng chia
cuộc đời!
Miệng chồng Khánh gắn trên
môi
Hình anh mắt Khánh sáng ngời
còn mơ.
Từ ngày đàn chia đường tơ
Sao tôi không biết hững hờ
nàng đan.
Kéo dài một chiếc áo len
Tơ càng đứt mối, nàng càng nối
giây.
Nàng còn gỡ mãi trên tay
Thì tơ duyên mới đã thay hẳn
màu.
Góp hai thứ tóc đôi đầu,
Sao còn đan nối những câu
tâm tình ?
Từng năm từng đứa con non
Mỉm cười vá kín vết thương lại
lành.
Khánh ơi còn hỏi gì anh?
Xưa tình đã vỡ, nay tình lại
nguyên
Em về đan mối tơ duyên
Vào tà áo mới, đừng tìm
duyên xưa.
Bao nhiêu giọt lệ còn thừa,
Hãy dành mà khóc những giờ vị
vong.
Bao nhiêu giọt lệ còn thừa,
Hãy dâng cho trọn nghĩa chồng,
hồn cha.
Nhắc làm chi chuyện đôi ta
Cuộc đời anh đã phong ba dập
vùi...
Hãy vui lên các anh ơi
Nàng đi, tôi gọi hồn tôi trở
về
Tâm hồn lạnh nhạt đêm nghe
Tiếng mùa lá chết đã xê dịch
chiều
Giờ hình như gió thổi nhiều
Những loài "hoa
máu" đã gieo nốt đời.
Bao nhiêu nghệ sĩ nổi trôi
Sá chi cái đẹp dưới trời
mong manh?
Sá chi những chuyện tâm tình
Lòng đau đem chứa trong bình
rượu cay.
(1) Hai sắc hoa ti gôn -
TTKH (Tiểu thuyết thứ bảy, số 179, 30/10/1937).
(2) Tiểu thuyết thứ bảy, số
182 ra ngày 20-11-1937).
(3) Phụ nữ thời đàm.
(4) Tiểu thuyết thứ bảy, số
217, 23/07/1938).
(5) Tiểu thuyết thứ bảy,
số 307, 04/05/1940).
Thụy Khê
đại lý vé eva air
săn vé máy bay đi mỹ giá rẻ
phòng vé korean air
phòng vé máy bay đi mỹ
vé máy bay đi canada giá bao nhiêu
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngau Hung Du Lich
Tri Thuc Du Lich