Lợi và hại trong những tập tục lễ tết
Tết của người Kơro ở cao
nguyên Trung phần sau tết của người thành thị một tháng, gọi là tết Lir Bong.
Lir Bong là “Mừng lúa về”. Nó bắt đầu vào khoảng tháng ba dương lịch. Thóc vừa
gặt xong, tha hồ nhàn rỗi, chờ đến mùa mưa mới cày cấy cho vụ sắp tới.
Tết “Mừng lúa về” được tổ chức
hàng năm. Họ rào làng tránh cướp bóc, sửa sang đường xá, giếng nước, trồng cây
nêu v.v… Lễ được khai mạc vào buổi chiều khi mặt trời đã lặn. Trống kèn khua
vang, gà vịt dê lợn được mang ra tế lễ dâng cúng thượng đế với lời cầu nguyện
“Khẩn cầu thượng đế nhận lời cảm tạ của mọi người. Thượng đế đã ban phúc cho
dân làng, dân làng có thóc ăn quanh năm. Xin ban phát cho mọi người được sức
khoẻ dồi dào để làm việc nhiều hơn cho mùa sau. Kết quả càng tốt đẹp”. Lời cầu
nguyện vừa xong, chủ tế chém chết những con vật, lấy huyết vẫy lên cửa nhà, vạt
thóc, giạ lúa … Sau đó mang ra làm cỗ đãi khách. Suốt đêm chuông trống vang lừng
khắp nơi. Họ tin tưởng may mắn sẽ đến vào những ngày kế tiếp.[1]
Tết của đồng bào Di Linh, một
năm không nhất định bao nhiêu ngày. Ngày tết của họ thay đổi từ làng này sang
làng khác. Sự thay đổi khiến họ có thể dự tết nhiều nơi. Tết là một ngày hoàn
toàn ở gia đình. Nghi lễ chỉ tổ chức trong phạm vi nhà cửa và vựa thóc. Gà được
lấy máu vẫy lên các bồ thóc để cầu thần linh cho những hạt giống sinh sôi nẩy nở…
Những con lợn bị giết và đem thui, ruột gan đựng riêng để tế thần. Đêm xuống,
trong vựa thóc chỉ còn loe loét ánh lửa thui lợn như ánh lửa nấu bánh của dân đồng
bằng thành thị.
Phong tục tuy có khác nhau,
nhưng nói chung, tết xưa ở miền núi thường đi kèm với máu của súc vật, kèn trống,
hét hò và những bình rượu lớn.
Cổ tục làng Tích Sơn
Trai làng Tích Sơn đến mười
tám tuổi đều được làng cử nuôi một con gà ngay từ đầu năm trước, để đầu xuân
năm sau có gà tế thần. Họ phải săn sóc vỗ béo sao cho gà được nặng cân.
Ngày mùng ba tết, tất cả đều
khăn đóng áo dài mang gà ra đình làm lễ. Mỗi người ôm gà của mình sắp hàng chỉnh
tề trước đình. Đợi các vị tiên chỉ trong làng khấn bái xong, các chàng trai ôm
gà nhảy nhót và vái lễ trước bàn thờ. Sau đó, từng người một dùng dao chém đứt
đầu gà, tiết gà được hứng riêng, thân gà mang ra nhổ lông làm thịt. Phân gà có
khi vãi cả ra bàn thờ cúng thần khi bị chặt đầu.
Ngoài tục chém gà còn có tục
chém lợn. Lợn cũng được vỗ béo và dẫn ra đình. Nó được tắm rửa sạch sẽ và thả
đi vòng vòng trước bàn thờ để trình đức Thành Hoàng. Trình lợn xong, một thanh
niên cầm gươm phang vào đầu lợn. Phải biết cách chém nhanh, chém mạnh, gươm phải
thật bén để đầu lợn đứt lìa ngay nhát chém đầu tiên. Đang tung tăng, bị một
nhát gươm, lợn không kịp kêu, máu từ cổ phun ra, thân lảo đảo rồi ngã quị.
Có cổ tục này là do dân làng
Tích Sơn chịu ảnh hưởng vị thần mà họ đang dâng lễ tế. Tương truyền, lúc sinh
tiền ông là một tên tướng cướp. Khi bị dân làng đuổi tới chân núi thì cùng đường.
Bị vây hãm quá đói, sẵn có con lợn ngang qua, ông chém ngang mà ăn sống v.v...
Sau, do chết vào giờ linh (?) ông được dâng làng tế tự như vị thần giữ làng. [2] Nhân tích ăn lợn đó mà có lễ dâng lợn vào đầu xuân hàng
năm.
Tục dâng rượu ở làng Yên Đổ
Với cái nhìn của người thế
gian, không có rượu thì không có lễ, nên trong việc tế tự, đa phần đều có rượu
đi kèm. Riêng ở làng Yên Đỗ, rượu mang dâng thần phải là loại rượu thật đặc sắc,
được các lão làng tế tự tuyển chọn kỹ càng mới được dâng cúng.
Việc cúng kiến ở thành thị
Xuân ở thành thị, từ xưa đến
nay vẫn văn minh hơn. Gà, vịt, heo, bò tuy vẫn bị giết, nhưng máu của chúng đều
được rửa sạch. Không thể để dấu vết của sự chết chóc tồn tại đâu đó trong nhà cửa
hay trong chốn làm ăn vào những ngày đầu năm. Thật kinh hoàng khi đâu đó xuất
hiện một vài giọt máu, dù của súc vật. Xem ra, thứ mà ngày xưa dân miền núi gọi
là điềm may, nay lại được coi như điềm bất hạnh với dân thành thị. Xét cho cùng
“may” hay “không may” chỉ là vọng tưởng của con người.
Đa phần mọi nhà đều có tục
làm cơm rước ông bà vào cuối năm. Người người lau rửa, sơn sửa nhà cửa sạch đẹp
để chuẩn bị đón mừng năm mới. Thức ăn đồ uống cũng được dự trữ đầy đủ trong ba
ngày tết. Phần do chợ búa ngày xưa không mở bán trong những ngày đó, phần mọi
người đều tin rằng sự sung túc đầy đủ đầu năm là điềm báo cả năm được sung túc
dư dã. Mọi người còn nhắc nhau phải vui vẻ, không được nhăn nhó gay gắt để cả
năm được an bình. Bực bội, la hét hay khóc lóc phải được kiêng cữ tối đa trong
ba ngày tết. Mùng ba tết có lễ làm cơm tiễn ông bà.
Lễ tết, ngoài cơm nước thịnh
soạn, còn có bánh chân, bánh tét, tiền lì xì, rượu, chè v.v… Tùy phong tục của
từng miền mà nhà nhà sắm sửa sao cho thịnh soạn để cả năm được sung túc an
lành.
Lợi ích của tế tự qua cái
nhìn của đức Phật
Việc tế tự, dù cho chư thiên
hay các vị thần linh, cũng đều biểu trưng cho lòng biết ân và thành kính của
con người đối với những gì mà họ đã nhận được trong cuộc sống của mình. Dù việc
tế tự mang tính cầu xin là không đúng với chánh kiến, nhưng bản thân việc tế tự
lại mang tính bố thí và lòng biết ân, nên cái quả của nó vẫn có liên quan ít
nhiều đến sự sung túc.
Trong kinh Trường Bộ quyển
I, bài kinh số 5, khi được Bà-la-môn Kutadanta hỏi về cách thức tế tự và các tế
vật, Phật đã trả lời gián tiếp bằng câu chuyện tế tự của vua Mahàvijita. Trong
đó, vị Bà-la-môn chủ tế đã vạch định cho vua Mahàvijita các điều kiện thiết yếu
để ông có thể gặt được cái quả hạnh phúc an lạc dài lâu trong tương lai:
1/ Mời tất cả những vị Sát-đế-lị,
chư hầu các tỉnh thành, các đại thần cùng quyến thuộc, các gia chủ phú hào (Phật
gọi chung là bốn đại chúng) tham dự, như việc chứng thành cho buổi lễ tế đàn được
thành tựu.
2/ Vua Mahàvijita cần có 8 đức:
. Thiện sinh từ mẫu hệ lẫn
phụ hệ.
. Huyết thống thanh tịnh đến
bảy đời tổ phụ, không một lời dèm pha nào đối với vấn đề huyết thống.
. Sắc diện và phong thái phải
thanh cao tuấn nhã.
. Tài bảo sung túc, thương
khố sung mãn.
. Có uy lực, đầy đủ bốn loại
quân chủng chinh phục địch quân.
. Có tín tâm, từ tâm, chuyên
làm công đức cho Sa-môn, Bà-la-môn, kẻ bần cùng…
. Bác học trong mọi vấn đề.
. Có thể suy tư tinh thông
các việc từ quá khứ cho đến vị lai.
3/ Vị Bà-la-môn làm chủ tế
đàn phải có đầy đủ 4 đức:
. Thiện sinh từ mẫu hệ lẫn
phụ hệ.
. Huyết thống thanh tịnh đến
bảy đời tổ phụ, không một lời dèm pha nào đối với vấn đề huyết thống.
. Là nhà phúng tụng, trì
chú, thông hiểu ba tập Vedà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và lịch
sử truyền thống.
. Có biệt tài về thuận thế
(tự nhiên học) và xem tướng bậc đại nhân.
. Là nhà bác học tinh thông,
sáng suốt với đầy đủ giới hạnh và đức độ cao dày.
4/ Trước khi tế lễ, vị
Bà-la-môn chủ tế cần căn dặn vua Mahàvijita ba pháp “không nên”:
. Trước khi lễ tế đàn xảy
ra, không nên hối tiếc “phần lớn tài sản ta đã tiêu hao…”.
. Sau khi làm lễ tế đàn,
không nên hối tiếc “phần lớn tài sản ta đã tiêu hao…”.
Nói chung, không khởi tâm hối
tiếc đối với việc tế đàn dù với bất kỳ lý do gì.
Vì sao không nên hối tiếc,
đã được Phật nói trong Phẩm Địa Chủ, kinh Tăng Nhất A Hàm quyển I. Nhân duyên
cúng dường bố thí tuy đưa đến cái quả sung túc cho thí chủ, nhưng bố thí rồi mà
khởi tâm hối tiếc thì dù được quả báo sung túc vượt bực, cũng không hưởng được
quả ấy, cũng không được vui trong ngũ dục.[3]
5/ Vị Bà-la-môn khuyến khích
vua lập tế đàn với nội tâm hoan hỉ an vui. Dù việc bất như ý nào xảy ra, nhà
vua vẫn nên giữ nội tâm hoan hỉ.
6/ Trong lễ tế đàn, không có
trâu, bò, dê, cừu, gà, heo bị giết. Cũng không có loại sinh vật nào bị sát
thương. Không có cây cối bị chặt để làm trụ cột tế lễ. Không có cỏ cát tường bị
cắt để rải chung quanh. Các kẻ gia bộc, làm thuê không bị dọa nạt đánh đập khiến
cho sợ hãi, khổ nhọc. Tế đàn được hoàn tất chỉ với dầu, sinh thô, thục tô, mật
và đường miếng.
Không có thú vật v.v… vì
đánh đập và sát sanh là nhân đưa đến bệnh tật, nạn tai và yểu tử. Cho nên, muốn
có sức khỏe thì không nên giết hại súc vật để tế đàn. Chỉ cần không sát sinh
v.v… thì không cần có trụ tế đàn hay cỏ cát tường rải quanh, cát tường vẫn đến.
Đó là lý do vì sao trong việc tế lễ, đức Phật dạy không có thịt súc vật dâng
cúng, cũng không có sự dọa nạt đánh đập. Bởi từ tâm là nhân giúp thoát được mọi
nạn tai.
Làm được một tế đàn như thế
thì cuộc sống của chúng ta sẽ được hạnh phúc an lạc dài lâu. Song với những điều
thiết yếu cần có của một lễ tế đàn như thế không phải ai cũng làm dược. Vì thế
Kutadanta hỏi tiếp:
- Thưa tôn giả Gotama, có tế
đàn nào ít phức tạp, ít phiền nhiễu mà lại nhiều quả báo và lợi ích hơn cách tế
đàn như thế?
- Đó là bố thí thường xuyên,
những tế đàn thuận lợi, cúng dường cho các vị xuất gia có giới đức.
Quả báo bố thí lệ thuộc vào
ba thứ là tâm người bố thí, phẩm vật bố thí và giới hạnh người được bố thí. Bố
thí thường xuyên, là đủ duyên liền bố thí, không đợi phải lập đàn tràng. Người
cần liền bố thí. “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Đó là ruộng phước tốt,
tâm người bố thí cũng tốt. Cúng dường cho các vị xuất gia có giới đức cũng là
ruộng phước tốt, là gieo nhân với Tam bảo để được sự hộ trì của Tam bảo.
Kutadanta lại hỏi tiếp:
- Thưa Tôn giả, có tế đàn
nào ít phức tạp, ít phiền nhiễu mà lại nhiều quả báo và lợi ích hơn là bố thí
thường xuyên, những tế đàn thuận lợi, cúng dường cho các vị xuất gia có giới đức?
- Thưa Tôn giả, có tế đàn
nào ít phức tạp, ít phiền nhiễu mà lại nhiều quả báo và lợi ích hơn là xây dựng
tinh xá cho Tăng chúng tu tập?
- Đó là thành tâm qui y Phật,
qui y Pháp, qui y Tăng. Này Bà-la-môn! Tế đàn này ít phiền hại mà lại được quả
báo lợi ích nhiều hơn các cách tế đàn trên.
- Thưa Tôn giả, có tế đàn
nào ít phức tạp, ít nhiễu hại mà lại nhiều quả báo và lợi ích hơn là qui y Tam
bảo?
- Đó là thành tâm giữ gìn 5
việc không sát sinh, không trộm cắp, không nói dối, không tà dâm và không uống
rượu. Giữ được 5 việc đó là tế đàn mang lại hạnh phúc và an lạc dài lâu cho con
người.
Tùy mức độ giữ gìn mà ta có
được hạnh phúc và an lạc nhiều hay ít, dài hay ngắn. Đây là tế đàn mà tất cả ai
cũng có thể thực hiện cho chính bản thân, kể cả những người không thuộc đạo Phật,
để có được hạnh phúc và an lạc dài lâu.
Điên trần truồng
Luận Đại Trí Độ kể rằng:
Ở Nam Thiên Trúc có vị pháp
sư giảng về ngũ giới. Trong đó có nhiều ngoại đạo đến nghe. Nghe xong quốc
vương nước đó vấn nạn pháp sư:
- Nếu đúng như lời ngài nói,
người uống rượu cũng như kẻ cho rượu đều phải chịu quả báo điên khùng, thì đáng
ra đời này người điên phải nhiều hơn người tỉnh, sao người điên ít mà người tỉnh
lại nhiều?
Hàng ngoại vẫy tay tán đồng:
- Đúng! Đúng! Người tỉnh nhiều
hơn người điên. Vua thật là người lợi trí. Lời vấn nạn thâm thúy thay ! Nhất định
gã trọc đầu ngồi tòa cao kia không thể nào trả lời.
Pháp sư không trả lời mà lấy
tay chỉ hàng ngoại đạo rồi nói qua chuyện khác. Vua liền hiểu.
Hàng ngoại đạo xầm xì:
- Lời vấn nạn quá thâm thúy
đâu thể trả lời. Xấu hổ nên đưa tay chỉ chỉ rồi nói qua chuyện khác.
Vua nói với các ngoại đạo:
- Pháp sư lấy tay chỉ chỉ là
đã nói xong. Vì muốn bảo vệ các ngươi nên không trả lời mà lấy tay chỉ chỉ, là
muốn nói lũ điên chính là các ngươi. Điên không phải ít. Các ngươi lấy tro bôi
người, trần truồng không biết hổ thẹn. Dùng đầu lâu của người đựng phân mà ăn.
Mua đông thì nhảy vào nước, mùa hạ lại hơ lửa. Các việc làm phi đạo như thế đều
là hình thức của điên khùng. Lại vùi mình trong cát mà cho là tiêu hết tội lỗi.
Những việc cưỡng nhân trái duyên như thế mà cho là nhân duyên của nhau, không
phải điên là gì?
Nói chung những suy nghĩ và
hành động nào trái với chánh kiến, gây tạo nhân quả không phù hợp với những gì
kinh Thập Thiện đã nói, đều là hình thức của điên cuồng. Phật nói điên đảo. Tổ
Long Thọ nói “điên trần truồng”. Nói điên, vì nó trái với qui luật bình thường.
Thế gian này, có những cái
điên lộ hẳn ra ngoài, được mời ngay vào nhà thương điên thì dễ thấy rồi. Nhưng
cái gọi là “điên trần truồng” đây thì ít ai thấy mà gần như ai cũng có, chỉ là
ít hay nhiều, cạn hay sâu mà thôi.
Không tin vào lý nhân quả,
giết người hàng loạt để lên niết- bàn, giết hại sinh vật làm lễ tế tự với mong
cầu được sức khỏe, muốn giàu có phải tranh dành chụp giựt, tham nhũng, thỉnh
bùa, chú ngãi v.v… đều là hình thức của điên trần truồng.
Uống rượu, tuy là một trong
những cái nhân đưa đến tà kiến. Từ tà kiến mà có hoạn nạn, tai ương, nhưng hiện
nay ít ai tin điều đó. Đáng nói là dù rượu đưa đến khá nhiều thảm họa trước mắt,
nó vẫn được đa phần mọi giới ca tụng và xem như một thú tiêu khiển không thể
thiếu trong các buổi trà tiệc. Thế giới ngày càng đảo điên một phần là đó.
Xuân của bậc đạo nhân
Dù may mắn hay bất hạnh thì
xuân về, không phải chỉ mang niềm sống và nỗi vui đến muôn loài. Nỗi vui của
loài này có khi là nỗi đau của loài khác. Sự sống của loài này có khi là sự chết
chóc của loài khác. Ta hồ hỡi đón xuân với những vật phẩm tốt lành nhưng lũ súc
vật thì không. Một nỗi sợ hãi và chấm dứt thân mạng khá đau khổ. Niềm vui của
ta hình thành một phần từ nỗi đau của kẻ khác, nên cái quả mà ta có được là một
thế giới Sa-bà phân ranh, không ngừng chiến tranh, thù hận, nạn tai và chết
chóc. Không như xuân của những kẻ miền núi vô sự.
Ở núi, việc không, cửa đóng
gài
Độc tọa tâm cùng, dứt thấy
nghe
Màn giấy tùng mai trăng rọi
sáng
Nhân gian chỉ đó một càn
khôn
(Sơn Cư Bách Vịnh)
Ở núi không người thì xuân về
đâu phải tiếp khách mà cửa không đóng, việc cho nhiều? Một mình một chợ thư thả
đất trời như chốn không người. Người nhàn cảnh nhàn, người như cảnh như. Vật
ngã đều quên, bỉ thử vắng bóng. Tâm không cảnh không thì thấy nghe không tồn tại.
Chỉ như trăng sáng chiếu khắp đất trời. Vạn vật đều tỏ như trăng soi bóng nước.
Trạm nhiên chưa từng vắng thiếu.
Hòa thượng Thường Chiếu
bình: “Bậc siêu thoát trí hạnh viên dung, thấy nghe không phân biệt. Xoay thấy
nghe trở về tâm. Đây là bậc đại trí đại hạnh. Cảnh giới của Văn thù, Phổ Hiền
toàn bày đầy đủ. Điền địa này siêu tuyệt, ít người vãng lai, vượt khỏi nhị
biên, siêu thoát thể nhập. Người đến được đất này thường ngồi trên lưng voi hoặc
cỡi sư tử dạo khắp đó đây, tùy duyên hóa độ làm lợi ích chúng sinh …”, rồi
nói kệ rằng:[4]
Trên ngọn Diệu phong rong tự
tại
Xem xét mười phương chúng khổ
đau
Khởi Từ phương tiện tùy ứng
hóa
Đưa chúng đồng lên bờ niết
bàn
Mới hay, núi cao một mình
không ngoài núi tâm vô sự. Tâm không cảnh không thì ngay chốn thành thị đồng bằng
vẫn là trên đỉnh Diệu phong thong dong tự tại. Từ tâm khai phát thì không vì
cái vui của mình mà động đến nỗi đau muôn loài. Không vì sở thích của mình mà
phá bỏ cái vui của muôn người. Xuân xuân từ đó khắp nơi. Xuân xuân từ đó mọi thời.
Đây là tế đàn mà phần thiết lập tế đàn ít phức tạp phiền nhiễu nhưng quả báo lợi
ích thì không gì bằng, như đức Phật đã nói với Kutadanta:
- Này Kutadanta! Như
Lai xuất hiện ở đời là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.
Như Lai sau khi tự chứng ngộ với thượng trí thế giới này, với Thiên giới, Ma giới,
Phạm thiên giới, tất cả thế giới, với Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Nhân, lại tuyên
thuyết điều đã chứng ngộ. Như Lai thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện
đầy đủ văn nghĩa, Như Lai truyền dạy phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh. Nếu
có người nào nghe pháp ấy. Sau khi nghe pháp, người ấy sinh lòng tín ngưỡng Như
Lai. Khi có lòng tín ngưỡng ấy, vị này suy nghĩ về đời sống từ bỏ dục lạc ở gia
đình. Một thời gian sau, người ấy từ bỏ tất cả, sống đời sống không gia đình.
Khi đã xuất gia, vị ấy sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, đầy
đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ trì và học
tập giới học. Thân nghiệp, ngữ nghiệp thanh tịnh. Sinh hoạt trong sạch. Giới hạnh
đầy đủ. Thủ hộ các căn. Chánh niệm tỉnh giác. Biết tri túc... Đó là tế đàn ít
phiền nhiễu nhất mà lợi ích thì lớn lao nhất.
Hay và không hay - Giữ và bỏ
Tập tục truyền lại không phải
cái gì cũng hay. Có cái hay mả có cái không hay.
Làm lễ tạ ơn Trời Phật thần
linh vì lòng biết ơn là hay, nhưng sát sinh hại vật làm lễ dâng cúng thì không
hay.
Làm lễ tạ ơn Trời Phật là
hay nhưng giao phó tính mạng của mình vào tay Trời Phật thì không hay.
Vấy máu súc vật cùng khắp là
không hay nhưng giữ tâm hoan hỉ, không để phiền não hiện hình vào những ngày đầu
năm là hay.
Sửa soạn nhà cửa, thức ăn dự
trữ đầy đủ là hay, nhưng phải đi vay nợ để tạo sự sung túc tạm bợ vì mê tín dị
đoan thì không hay v.v… Thêm ngày mùng một là ngày vía đức Di Lạc nếu sát sinh
hại vật thì không hay mà ăn chay là hay.
Đi chùa lễ Phật đầu năm là
hay nhưng bẻ cành xin lộc là không hay.
Lễ tục lì xì đầu năm là hay
bởi nó có liên quan đến tâm bố thí, nhưng dùng tiền ấy đánh bạc, rượu chè là
không hay hoặc để tâm thu gom thì không hay.
Hay, nối tiếp giữ gìn thì dễ,
vì nó thuận với thói quen và tập tục của mọi người. Nhưng với cái không hay thì
từ bỏ không phải dễ. Bởi cưỡng lại thói quen tạo ra sự bất an cho chính mình.
Đi trái lại tập tục của tập thể đông đảo cũng tạo ra sự bất an không nhỏ. Do đó
chúng ta dễ bị các tập tục xấu trói buộc khiến phải gặt quả xấu trong tương
lai. Cho nên, muốn bỏ những tập tục xấu, đòi hỏi chúng ta phải có niềm tin vững
mạnh vào những gì Như Lai đã nói. Có trí tuệ để học hiểu và nhìn nhận vấn đề
cho chính xác. Tránh tình trạng đi từ cực này sang cực kia, dứt bỏ luôn cả những
điều tốt đẹp, rơi vào chấp không nhân quả. Và cuối cùng, cần có định lực và can
đảm để dứt bỏ những gì cần dứt bỏ. Tự mình dứt bỏ và động viên người khác dứt bỏ
để cuộc sống được an vui thật sự.
Sang năm mới, nguyện cho tất
cả chúng sinh có được niềm tin sâu sắc đối với giáo pháp của Như Lai. Tự lợi và
lợi tha rộng rãi để thế giới được an bình, nơi nơi hết đao binh.
[2] Sau
cái chết của ông, xảy ra nhiều việc không hay trong làng, nên dân làng cho
rằng ông chết vào giờ linh mà lập miễu thờ tự.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét