Một năm mới đang về. Năm mới
sẽ đem về gì đây? Tôi không có ý nói đến một viễn tượng nào đó cho thế giới,
cho tình hình chính trị, hay cho Giáo Hội. Tôi muốn nghĩ đến viễn tượng của
chính mình – của tôi. Dấu hỏi này và nỗi ưu tư này không hề vu vơ. Vì rồi sẽ tới
lúc tôi ra đi, sẽ tới lúc tôi không còn có mặt trên trần đời này nữa. Và chính
đức tin – chứ không phải những tưởng tượng lẩn quẩn về mình – cho tôi biết rằng
dù ra đi nhưng mình sẽ vẫn tồn tại thực sự, và tồn tại trong tất cả sự thực mà
mình đã trở thành ở đây và bây giờ, rằng toàn bộ thời gian đang trôi chảy đây
được thâu họp vào thực tại mệnh danh là “vĩnh cửu” – vĩnh cửu của tôi, vĩnh cửu
của bạn, vĩnh cửu độc nhất, không thể chuyển và không thể đổi.
Vì thế tôi có lý do để băn
khoăn rằng năm mới này sẽ đem lại gì cho tôi. Mà nói cho cùng, tất cả lịch sử rốt
cục cũng chỉ quan trọng ở chỗ nó đem lại gì cho mỗi con người, cho bạn và cho
tôi, trong vĩnh cữu ấy (dù có thể nhiều người nông cạn không nhìn ra tầm quan
trọng này). Vì mọi cái khác đều trôi qua, chúng không quan trọng lắm bởi chúng
nay còn mai mất. Rõ ràng ta có thể nói rằng cái thực tại chóng qua này đây – nếu
được hiểu đúng – chính là vĩnh cữu trong tiến trình đang trở thành; thực
thể vĩnh hằng là thực thể phàm trần đã được mang đến mức viên mãn, chứ
không phải là một cái gì sẽ đến sau này theo cách hiểu thông thường – vì nếu thực
thể vĩnh hằng chỉ là cái sẽ đến sau, thì rồi cũng sẽ tới lượt nó trôi đi mất,
tiêu vong!
Đó là lý do tại sao tôi quan
tâm tới vấn đề năm mới này sẽ đem lại gì cho mình. Với tất cả niềm trân trọng đối
với vĩnh cửu, tôi muốn đặt câu hỏi này ra. Vì những gì đang đến sẽ không tan biến
mất. Nó đến để ở lại. Nó có mặt để lưu tồn chứ không phải để tiêu vong. Nó cắm
vào trong khoảng trống của thời gian để lấp đầy thời gian. Nó là huyền nhiệm của
vĩnh cửu trong thời gian. Năm mới này sẽ đem lại gì đây – vấn đề này tôi trân
trọng mấy cũng không vừa. Vì bao lâu tôi còn đi qua dòng chảy của thời gian
trong thân phận con người mình, tôi vẫn luôn nghĩ rằng thời gian không chứa đựng
gì ngoại trừ chính nó. Tôi phải thường xuyên tự cảnh tỉnh mình. Vĩnh cửu đang
diễn ra nơi tôi bây giờ, một lần và cho tất cả, vĩnh cửu đang có mặt bây giờ dẫu
tôi tưởng rằng những gì đang trôi qua đây chẳng có mấy tầm quan trọng.
Không phải mọi khoảnh khắc đời
tôi đều có đầy giá trị lưu dấu vĩnh cửu như nhau. Vậy, khi nào thì một khoảnh
khắc của đời tôi được “viên mãn” (theo nghĩa: khi thời gian đến hồi “viên mãn”,
Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể và đi vào trần gian)? Rõ ràng khoảnh khắc ấy sẽ
xảy đến khi mà – với tất cả ý thức, can đảm và quyết tâm – tôi huy động trọn vẹn
con người mình và với tự do của mình tôi trao phó trọn vẹn con người tôi cho
Thiên Chúa, một cách hoàn toàn không nhuốm màu vị kỷ, một cách khôn tả vì đó
chính là nhờ tình yêu khôn tả của Thiên Chúa, Đấng mà tôi chỉ thực sự biết khi
nào tôi đạt đến cuộc dâng hiến khôn tả nầy. Và người ta đạt đến điều này không
phải bằng con đường thông thuộc đầy dấu vết của cảm tính và giảo hoạt, nhưng là
bằng thái độ nghiêm túc triệt để và bền bỉ trung thành, vì Thiên Chúa là Đấng
ta không thể hiểu thấu. Như vậy, tôi chỉ có một cách để làm chủ chính mình: làm
chủ qua hành vi thí bỏ và trao hiến trọn vẹn con người tôi!
Và rõ ràng, đó là tất
cả ý nghĩa của hành vi Kitôhữu. Vì, dù người ta có ý thức hay không, trong trật
tự của cuộc sống hiện tại, một hành vi như thế không thể được thực hiện ngoài đức
tin và ân sủng. Sở dĩ ta có thể bước tới được với Thiên Chúa, đấy là bởi vì
chính Ngài – Đấng vô cùng – đã đến gần gũi với ta nơi Đức Giêsu Kitô (dù người
ta có biết điều này hay không).
Thật là đúng đắn, đáng khen,
và rất có ý nghĩa khi nói (miễn là ta biết dè dặt đúng mức chứ không lạm dụng bừa
bãi) rằng chúng ta suy tưởng về Chúa, chúng ta có thiện chí, chúng ta giữ các
giới răn của Ngài thì (ta nghĩ) sẽ chẳng có sự cố gì có thể xảy đến cho mình,
chắc hẳn Ngài phải tỏ ra ưu ái ta, thưởng công cho ta (như nhiều người Công
Giáo nghĩ) hay ít nhất Ngài cũng phải tha thứ tội lỗi cho ta (như nhiều người
khác nghĩ).
Dĩ nhiên cách nghĩ ấy có thể
đúng. Hay phải nói rằng quả thực cách nghĩ ấy đúng. Song đó không phải là tất cả
sự thực mà tôi đang quan tâm ở đây. Nói cho cùng, chúng ta phải yêu mến Thiên
Chúa với hết lòng, hết sức lực, với trọn linh hồn mình. Và đàng khác, chúng ta
phải yêu như vậy ngay khi mình còn trong thân phận lữ khách hành hương cách xa
Chúa vời vợi, ngay khi mình vẫn không nhìn thấy Ngài mặt đối mặt. Vì phúc ân mà
ta được hứa nằm ở trong sự hoàn thành trọn vẹn cuối cùng và vĩnh viễn của thời
gian, của tình yêu trong thời gian.
Vì thế chúng ta phải tận hiến
chính mình cho Ngài trước đã, bằng chính sự tự do trong hiện tại này, để có thể
hoàn toàn đón nhận được Ngài. Đó phải là một hiến dâng trọn vẹn, không thể có một
cắt xén nào, một châm chước nào. Tất cả các phúc ân mà Ngài ban cho ta cũng cốt
ở chỗ giúp ta thực hiện hành vi dâng hiến này. Tuy nhiên duy chỉ việc Chúa ban
ơn cho ta cũng không đủ để làm ra hành vi dâng hiến đó; nó phải là một việc làm
của ta nữa (một việc làm trong thời gian mang ý nghĩa vĩnh cửu). Ngay cả người
kẻ trộm bị đóng đinh thảm hại kia cũng được nhận lời khi – vào giây phút cuối
cùng – anh ta bắt đầu tin yêu với trọn tấm lòng, trọn năng lực và trọn linh hồn
anh.
Nhưng khi nào thì điều này xảy
đến cho tôi? Và ở đâu ơn Chúa sẽ hoàn toàn chiến thắng và hoàn toàn khuất phục
sự tự do của tôi – để con người nhát đảm và khiếp sợ của tôi (vốn không dễ gì
chịu bỏ mình) có thể tìm ra được đủ can đảm để dám thực sự hoàn toàn quên mình
vì Chúa? Ở đâu và khi nào tôi sẽ đạt đến điều đó? Chắc hẳn là tôi đã được điều
đó rồi, tôi có thể tự nhủ mình một cách đầy an ủi như thế. Vì, dĩ nhiên, tôi
xác tín rằng mình đang sống trong ân sủng Chúa, tôi xác tín rằng mình đã gặp thấy
lòng khoan nhân của Thiên Chúa và Thánh Thần của Ngài – là chính tình yêu của Thiên
Chúa – vẫn được đổ tràn vào lòng ta. Và do đó, (có thể nói) tình hình không có
gì là quá bi đát hay quá mờ mịt cho tôi, vì tình yêu của Thiên Chúa tràn trào;
nếu không nhận được tình yêu ấy thì chẳng một ai có thể gặp thấy được Thiên
Chúa của mình.
Câu hỏi có thể đặt ra: Phải
chăng chúng ta có thể nói rằng ta phải yêu mến Thiên Chúa từ nơi sâu thẳm nhất
của con người mình, yêu một cách đích thực và chân thành – nhưng ta không cần
phải thu tóm trọn cả cuộc sống mình vào trong tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa
“ngay lúc này”, lúc mà chúng ta đang xao xuyến đặt câu hỏi này ra? Khi tự hỏi
như vậy là chúng ta cho thấy rằng mình vẫn còn đang bước đi trong cuộc hành
trình dang dở, vẫn đang còn ở trong giòng lịch sử phận người…. Không được phép
cố tình giậm chân tại chỗ, chết cứng. Chúng ta phải hăng hái tiến lên và trưởng
thành trong tình yêu này.
Và nếu chúng ta làm thế, thì
rõ ràng là mọi sự sẽ trở thành tốt đẹp ngay trong hiện tại này – nghĩa là ngay
khi mà chúng ta còn chưa có được một tình yêu có sức làm cho mình biến đổi hoàn
toàn, ngay khi chúng ta còn tham lam và ích kỷ – dù vẫn có niềm tin và thiện
chí. Chúng ta có tấm lòng và tấm lòng đó sẽ triển nở nếu ta không cố tình
phung phí những cơ hội do cuộc sống và ơn Chúa ban cho.
Tất cả những điều ấy quả xác
thực và sự xác thực này rất có tính khích lệ cho ta. Song như vậy không có
nghĩa là có thể hoàn toàn thỏa mãn, vì dù sao chăng nữa một lúc nào đó trong cuộc
đời ta cái khoảnh khắc “thời gian viên mãn” vẫn cần phải xảy ra. Cái khoảnh khắc
linh thánh, tuyệt vời, trọn vẹn ấy phải xảy ra. Cái khoảnh khắc tĩnh lặng như
đêm Chúa ra đời, trong đó với trọn lòng mình con người dâng hiến trọn vẹn chính
mình trong bàn tay của Đấng mà mình không thể thấu hiểu (thật là khủng khiếp một
sự phó thác như thế) – và cuộc dâng hiến ấy trọn vẹn đến nỗi món quà hiến dâng
không bao giờ bị lén lút rút lại, như thực tế vốn thường xảy ra.
Ta có thể dám hy vọng không,
hy vọng rằng một ngày nào đó mình cỏ đủ tấm lòng để thực hiện được hành vi dâng
hiến ấy? Có phải thực ra ta đã hy vọng rồi – vì rất có thể ta đã bắt đầu hy vọng
rồi, và vì ta nghĩ mình vốn vẫn yêu mến một mức nào đó hoặc vốn vẫn khao khát một
tình yêu như thế? Có phải đó là một dấu chứng đầy đủ cho niềm hy vọng – vừa rất
dũng cảm vừa vô cùng thiết yếu – rằng rồi sẽ đến lúc ta có thể thực sự biết yêu
bằng trọn vẹn con người mình? Duờng như tuổi tác càng chất chồng thì tấm lòng
người ta càng khó sẵn sàng để hiến dâng. Nó trở nên mỏi mệt, héo hắt, lạnh lẽo
và chán chường. Người ta tự hỏi phải chăng mình tiếp tục bước tới bởi vì mình
không thể làm bất cứ gì khác, mình đã hóa khô cứng do trải qua sự khổ luyện hằng
ngày, hoặc phải chăng mình như bất lực không còn có thể làm gì khác bởi vì
chính sự bất lực này là phần thưởng ân phúc của sự tự do đích thực? Có phải
nhân đức đã xuống cấp trở thành chuyện thông thường, sự nỗ lực phấn đấu đã trở
thành chuyện náo động vu vơ, và lòng trung tín chỉ còn là tập quán?
Sự viên mãn của thời gian
trong đời tôi ở đâu, đâu là giờ phút quyết định trong đó toàn bộ thực tại con
người tôi được huy động? Phải có một giờ phút như vậy. Bởi vì rõ ràng là
con người ta không xây đắp cuộc đời mình bằng cách thu gom những việc lành của
mình, từng việc từng việc lẻ tẻ, và dồn chúng lại. Đúng hơn, mỗi việc lành
ấy đều có tiềm năng chứa đựng cái toàn thể, có tiềm năng hiến dâng trọn vẹn cho
Thiên Chúa. Nếu chẳng vậy, làm sao một hành vi riêng lẻ nào đó có thể quyết định
cả cuộc sống con người. Thế mà mọi hành vi, hiểu theo nghĩa đầy đủ, đều có sức
quyết định như thế. Tội “trọng” là cái có thực, và việc lành “trọng” cũng có thực.
Một việc lành “trọng” tự yếu tính nó phải khác với một việc lành “nhẹ” – cũng
như tội trọng khác với tội nhẹ. Nhưng đâu là những lúc mà tôi đã thực hiện những
hành vi có tầm quan trọng như thế, những hành vi có trọng lượng bằng cả con người
tôi – bởi vì chúng đặt cả con người tôi lên bàn cân của Thiên Chúa?
Người ta thường nói đến những
phút giờ trọng đại nhất, những khoảnh khắc tuyệt vời và linh thánh nhất của đời
người – và cứ dựa theo những biến cố đang được mừng thì đó là: dịp rước lễ lần
đầu, ngày thành hôn, …, dịp lãnh chức thánh, vv… Có phải những biến cố ấy là những
bước quặt của cuộc đời mà chúng ta đang tìm kiếm? Có phải những biến cố ấy
chính là sự tròn đầy của vĩnh cửu đi vào trong một khoảnh khắc của thời gian?
Chúng ta được phép nghĩ thế. Vì còn gì trọng đại hơn và quyết liệt hơn cái khoảnh
khắc mà – chẳng hạn – người ta thực sự ăn tấm bánh vĩnh cửu là chính Thân Mình
Chúa, Đấng đã tự hiến đến chết vì chúng ta?
Tuy nhiên ai cũng rõ rằng
người ta không những có thể đón nhận tấm bánh vĩnh cửu ấy một cách bất xứng và
vì thế tự chuốc lấy án vĩnh viễn cho mình – chúng ta còn biết rằng dù bí
tích có giá trị trọn vẹn nhưng không phải bao giờ ta cũng lãnh nhận trọn vẹn thực
tại mà bí tích hàm chứa, tức trọn vẹn ân sủng – dẫu là ta không đang lãnh nhận
bí tích một cách bất xứng đi nữa. Không phải mỗi lần lãnh nhận sự viên mãn của
thời gian là mỗi lần tôi nhận được sự viên mãn của đời mình. Người ta có thể sống
trong khoảnh khắc của Đức Kitô mà cuộc sống của chính mình vẫn trôi qua một
cách khô cằn trống rỗng – hay khá hơn thì cũng rất rời rạc vá víu. Sẽ tuyệt diệu
biết bao nếu trong mô thức bí tích ấy người ta có thể tìm thấy được sự viên mãn
của cuộc sống mình. Tuyệt diệu biết bao nếu sự viên mãn của thời gian có thể có
mặt trong chính giòng đời tôi, ở đây và bây giờ. Lúc ấy sẽ không còn phải thiếu
thốn gì nữa. Sự sung mãn vĩnh cửu của Thiên Chúa sẽ hiện diện – và sự hiện diện
thâm sâu này sẽ hiện thực một cách khả giác trong chính biểu lộ của nó vừa ở
chiều kích cá nhân vừa ở chiều kích Giáo Hội, vừa hết sức cụ thể vừa đượm tính
phụng vụ. Sự sung mãn ấy sẽ được hiện thực tròn đầy trong dấu chỉ, trong biểu
hiệu của bữa đại tiệc vĩnh hằng, bữa đại tiệc của sự hoàn thành đầy đủ. Người
ta sẽ uống cạn chén rượu đời mình – và chén rượu ấy được cảm nhận đã tan hòa
thành một trong chén của Đức Kitô.
Điều đó là có thể và là cần
thiết. Song quả là ta không thể quyết chắc rằng Thiên Chúa đã đặt định sẵn cho
mọi người để phút giờ quyết định ấy của mỗi người đều xảy ra đúng khi dấu chỉ của
bí tích (diễn tả sự hoàn thành của thế giới và của từng người bằng ân phúc và
thứ tha) được thực hiện trong cuộc đời họ. Xem ra chỉ một phần bé nhỏ của ân sủng
ấy được đón nhận, xem ra trong cõi lòng người ta chỉ thực sự có chỗ để đón nhận
chỉ một phần của ân sủng ấy – nếu như cõi lòng ấy không nhút nhát và hẹp hòi
quá mức.
Nghĩa là, phút giờ trọng đại
ấy, phút giờ sung mãn ấy rất có thể cũng xảy ra khi dấu chỉ của bí tích (theo
nghĩa rộng) nghèo nàn hơn, mù mờ hơn và không phải là một opus operatum gì
cả. Người ta có thể uống cạn chén rượu đời mình với trọn sự sống và sự chết của
mình trong một phút giờ nào đó không phải là phút giờ của bàn tiệc Thánh Thể –
dù vậy họ vẫn sống phút giờ ấy của mình trong sự kết hợp mật thiết với phút giờ
của Đức Kitô. Vì Đức Kitô đã kết hợp phút giờ của mọi người vào trong phút giờ
của Ngài – phút giờ trở thành hiện thực trong hy lễ tiến dâng và trong bàn tiệc
Thánh Thể.
Người ta có thể bất chợt đột
phá qua mọi rào chắn vốn vẫn giam hãm bản ngã đầy xao xuyến của mình và hòa nhập
vào khung trời bao la của Thiên Chúa xuyên qua một sự từ bỏ rất âm thầm lặng lẽ,
một hy sinh xem ra hết sức nhỏ nhặt tầm thường của họ. Có lẽ chính người ấy
cũng không chú ý mấy đến điều đang diễn ra nơi mình, có lẽ chẳng có cảm nghĩ
nào được người ấy xem là đáng đặc biệt ghi nhớ. Chỉ có điều là người ấy bỗng
dưng trở nên thật quảng đại cởi mở. Bỗng dưng tồn tại một cái gì đó mà mình
không thể gọi tên, một cái gì đó rất kỳ diệu, vô hình và không thể nào tả được.
Nhưng mọi sự khác hẳn. Thực
tại đang có mặt ấy không thể được xếp bên cạnh những thứ khác lấp đầy đời sống
như kiểu những món đồ đạc cũ kỹ được chất ngổn ngang đầy kín trong nhà kho. Thực
tại ấy không thể được so sánh với bất cứ gì khác và không thể được gán cho là
cùng loại hay khác loại với cái này hoặc cái kia. Con người ấy đã từ bỏ, đã ra
đi, đã đoạn tuyệt. Bây giờ, thật bất ngờ, con người ấy lại có mặt khắp mọi nơi
và nắm giữ tất cả, cái tưởng như “không là gì” ấy hóa ra chính là tất cả. Con
người ấy không cần một chỗ tựa nào nữa, vì bây giờ chính bản thân mình đã trở
thành một “toàn-thể-tính” ổn định, tự nâng đỡ mình (trong toàn-thể-tính của
Thiên Chúa) đứng vững không té ngã – vì trong cô đơn này và trong sự từ bỏ này,
không có gì mà con người ấy có thể té ngã vào được nữa.
Có thể có người đâm ra kinh
sợ cái vô hạn rất trầm lặng đang mở ra cho mình này – không phải mở ra bằng những
ý tưởng trừu tượng, nhưng là mở ra nơi cảm nghiệm về năng lực thực có của hữu
thể mình, tức là tinh thần. Người ấy như hoảng sợ thoái lui, quay trở lại với
những gì quen thuộc trong cuộc sống mình, quay trở lại với những gì khả giác, với
những bổn phận có giới hạn, với những nguyên tắc được công thức hóa rõ ràng. Và
như vậy người ấy không nhận ra đúng đắn rằng trong khi những điều ấy quả cần
thiết (cần thiết theo lý chứ không phải theo tình cảm cuồng nhiệt) – thì người
ta vẫn đâu phải cần đến chúng để trốn thoát khỏi những thứ khác.
Những điều ấy là
phương tiện để cho người ta đạt đến sự chấp nhận đích thực đối với cái vô hạn vốn
phải thực sự được tìm thấy trong chúng – và là cái không chỉ được đặt ra trước
mặt người ta như một phần thưởng cho những việc tốt lành hữu hạn mà họ thực hiện.
Dĩ nhiên trong những việc tốt lành này có sự hiện diện của ân sủng (nếu đây là
những việc lành đúng nghĩa như đã đề cập). Và ân sủng này, cuối cùng, là chính
Thiên Chúa – là ‘ơn phi tạo’ – là Thánh Thần Tình Yêu vĩnh cửu. Thiên Chúa hiện
diện đích thân trong những công việc tốt lành đó. Ngài không chỉ là phần thưởng
hứa ban cho những kẻ làm việc lành, bởi chính Ngài – trong chân tính của Ngài –
là Đấng trao ban những công việc ấy không nhằm mục đích nào khác hơn là để cho
chúng trở thành điều mà chúng nên thành và phải thành (thì mới có thể được gọi
là những việc có giá trị đúng nghĩa – tức giá trị cứu độ): đó là chúng trở
thành những lối mở dẫn vào sự vô hạn bỏ ngỏ của Thiên Chúa.
Những công việc và những
tình cảm ngay lành xét theo tự nhiên (nếu chúng tồn tại một cách tinh thuần
đúng nghĩa) sẽ là những thực tại mà tự thân chúng đáng được tưởng thưởng bằng một
phần thưởng nào đó của Thiên Chúa – chứ không phải là chính Thiên Chúa. Còn những
“việc lành” của các Kitôhữu (dù công khai hay âm thầm) thì chứa đựng sự vô hạn
của chính bản thân Thiên Chúa – Đấng vừa là điều kiện quyết định sự hiện hữu của
khả tính của chúng (bởi vậy nên gọi là ân sủng) vừa chính là phần thưởng của
chúng (gọi là sự sống đời đời). Và bởi vì Thiên Chúa đã không muốn chọn một thế
giới nào khác ngoài cái thế giới mà Ngài đã trao ban chính bản thân Ngài (chính
bản thân Ngài, chứ không duy chỉ trao ban những thành quả do Ngài làm ra) cho
nên rõ ràng là tất cả những gì hữu hạn chỉ có ý nghĩa trong tư cách là một lối
mở dẫn vào cái vô hạn không thể hiểu thấu, trầm lặng và khôn lường.
Như vậy, chỉ cần một hay hai
củ hành ném qua bờ giậu cho người nghèo khó cũng có thể là một bước quặt có
tính quyết định – một chút lòng tốt mà trong đó thực sự không hề nhắm kiếm tìm
sự biết ơn, thứ tha mà không hề chú ý đến sự kiện rằng mình đang tha thứ, một
giọt máu chảy ra từ trái tim và rơi vào đâu đó – thực không thể biết là nơi nào
– mà không hề xót xa, thái độ âm thầm chịu nỗi đớn đau cùng cực mà không hề hiểu
vì sao – cũng không biết được liệu mình có sẽ còn khả năng chịu đựng. Hay một kẻ
cô đơn cùng cực mà không trốn chạy khỏi nỗi cô đơn của mình, cũng không phóng
chiếu mình trong nỗi cô đơn đó. Hoặc một người sống đàng hoàng tử tế trong cuộc
sống bình thường và do đó bị khinh chê là khờ dại, song vẫn không phẫn nộ phản
kháng lại cái điên rồ của một thế giới trong đó con người ngay thẳng bị xem là
dại khờ.
Con người đó cũng không tự vỗ
về an ủi mình (để bù trừ cho sự thiếu vắng lời khen ngợi của kẻ khác) bằng cách
tự biểu dương và khâm phục tính cách tử tế của mình. Người ấy không âm thầm thu
gom những cái tốt của mình lại – để sau này trình làng và gặt hái vinh dự, cũng
không kể công với bạn hữu hay vợ/chồng mình nhân khi mình lên tiếng phiền trách
vì bị xử tệ. Người ấy chỉ muốn tử tế, đơn giản vậy thôi! Kỳ diệu biết bao một sự
tử tế hoàn toàn vô tư, vô cầu. Đó là sự tử tế hoàn toàn hồn nhiên như trẻ thơ.
Đó là tình yêu thuần khiết của Thiên Chúa trong thế giới đời thường. Thử hình
dung một người chuyên chăm làm bổn phận mình, người ấy không ngoại tình – trong
hành vi và cả trong tâm tưởng – mặc dù bổn phận chung thủy này cơ hồ như đòi
người ấy phải chết đi chính mình, cơ hồ như đòi người ấy phải khước từ chính bản
ngã. Một hình dung khác, một người cầu nguyện bỗng đột nhiên quên mất rằng mình
đang cầu nguyện, đột nhiên quên mất rằng mình đang cần một sự gì đó (và dĩ
nhiên là cũng quên mất rằng mình đang cố gắng tranh thủ cái mình cần), người ấy
quên cả rằng mình đang lên lời.
Chỉ còn có Thiên Chúa ở đó
thôi – rất trầm lặng, rất âm thầm nhưng cũng rất thực. Không thể thấu hiểu,
không thể diễn tả, không thể so sánh, không thể bập bẹ được gì về Ngài – nhưng
chính là Ngài đó, rất thực. Ngài ở đó dường như bởi vì ta không còn ở đó. Ta có
được Ngài bởi vì ta đã bỏ mình và ra khỏi mình. Ngài ở đó, vì ta – rốt cục –
không còn đồn trú trong vành đai bản ngã mình nữa. Nói cho cùng, không thể nào
diễn tả xa hơn về cuộc siêu thoát này; vì một khi ta cố diễn nó thành lời trong
chính cái khoảnh khắc mà mình đã để bản ngã lại đằng sau, thì lập tức ta đã
quay trở về bên trong những lằn mức giới hạn rõ rệt của tình trạng và thực tại
mình. Nếu ta có phát biểu về nó (đôi khi đây là điều ta phải làm), thì ta cũng
không nhằm làm cho sự phát biểu của mình đóng vai trò phô diễn cái hành động chứa
đựng trong lời phát biểu ấy.
Thực có những giờ phút quyết
định như thế. những giờ phút ấy hoàn toàn có thể xảy ra. Nhưng ta không đạt được
những giờ phút ấy duy chỉ bằng việc bàn luận về chúng. Bởi chỉ cần có một chút
khả năng, người ta có thể ăn nói trơn tru về chúng duy chỉ nhờ nghe người khác
kể lại hoặc nhờ ở việc phát hiện ra dấu vết rõ ràng của Thần Khí và ân sủng (dấu
vết này thậm chí có thể được tìm thấy nơi những việc làm và những kinh nghiệm
phàm tục và tầm thường nhất của đương sự). Vì nếu chúng ta không có một chút
kinh nghiệm gì về cái mà ta chỉ đạt được trọn vẹn trong những giờ phút quyết định
ấy, thì ta đâu còn thần tính nữa và đâu còn được ân sủng thu hút nữa – trong
khi thực sự ta luôn còn thần tính (cho dẫu ta đang dã man vung dao giết người)
và luôn luôn được thu hút về phía ân sủng. Nhưng không phải mọi kinh nghiệm đều
được ta đón nhận và nắm giữ với tất cả năng lực của lòng mình. Ta không có được
sự viên mãn của thời gian và vĩnh cửu trong lòng mình bởi vì ta tự hài lòng với
chỉ một thoáng hương vị của nó và mê mải triết lý về chút hương vị bé nhỏ đó
thôi.
Và như vậy câu hỏi vẫn còn:
Phải chăng một giờ phút quyết định như thế – giờ phút mà thời gian của đời tôi
đạt đến sự viên mãn – đã từng xảy ra? Một câu hỏi điên khùng! Người ta không thể
thực sự đặt câu hỏi kiểu đó. Bởi vì chẳng ích gì cho tôi việc tôi có thể kể lại
một khoảnh khắc như thế đã từng xảy ra trước đây trong đời mình. Có lẽ tôi có
thể tuyên bố như thế. Có lẽ tôi có thể quyết đoán rằng khoảnh khắc ấy đã từng xảy
ra hồi tôi còn bé, lúc rước lễ lần đầu, khi tôi mời Chúa ngự vào lòng tôi – một
tấm lòng bé nhỏ nhưng chứa chan tình mến Ngài.
Nhưng khi đặt câu hỏi như vậy,
chẳng khác nào tôi cho rằng những gì đã xảy ra vẫn còn có nghĩa lý với tôi bây
giờ. Và điều đó hoàn toàn sai. Vì sự viên mãn của thời gian trong đời tôi chỉ
thực sự đáng kể khi đó là cái chưa trôi qua. Vấn đề quan trọng là bây giờ hay
ngày mai đây, một phút giờ mang tầm vĩnh cửu như thế có xảy đến với tôi hay
không. Vì bao lâu con người còn trong thân phận khách hành hương, bao lâu
thời gian vẫn còn là thời gian, thì mỗi khoảnh khắc vẫn tựa như người chạy tiếp
sức với bó đuốc trong tay – người ấy không chỉ giữ ngọn lửa rực cháy ấy cho
riêng mình mà còn phải trao nó cho người kế tiếp. Chỉ khi người sau nhận bó đuốc
và mang nó chạy tiếp thì cuộc chạy của kẻ trước mới khả dĩ có được ý nghĩa và
giá trị gì.
Đời sống quả thực không phải
là một tổng hợp của những phần rời rạc riêng biệt (ở đây đang nói đến đời sống
tinh thần chứ không phải sự sống thể chất); nhưng toàn thể đời sống xét như một
thực thể thống nhất không tách chia được – vận hành qua thời gian và trong một
tiến trình trở thành xuyên qua mọi sự. Vì vậy, duy chỉ sự kiện tôi đã
được cái gì trước đây sẽ không hề có nghĩa rằng hiện giờ tôi đang có cái đó,
song trong quá trình lâu dài này tôi có thể trở thành – một lần nữa trong hiện
tại – như mình đã trở thành trước đây. Cái đã qua luôn luôn chỉ có nghĩa một tiếng
gọi thúc giục ta hiện thực hóa điều vốn đã từng hiện thực, và đó cũng còn là một
lời hứa đảm bảo rằng điều đã từng thành công trong quá khứ cũng sẽ thành công
trong hiện tại này. Như vậy chỉ vì sự hiếu kỳ vu vơ hoặc vì nỗi day dứt ăn năn
muốn biến quá khứ thành tương lai mà người ta mới quay trở lại với quá khứ của
mình – để lục tìm những phút giờ cao cả của vĩnh cửu đã từng xảy ra trong đó.
Do đó, đừng nên hỏi rằng đã
từng có một phút giờ quyết định như thế hay không trong đời mình – một cuộc đời
nghèo nàn trống rỗng, một cuộc đời đầy những ảo ảnh ngay cả trong những điều gọi
là tốt lành mà ta đã làm. Thay vào đó, tốt hơn nên hỏi một phút giờ như vậy sẽ
xảy đến với tôi từ đâu trong quãng đường trước mặt mình. Tôi phải tìm ra nó ở
trước mặt chứ không phải ở sau lưng. Và cũng chính ở phía trước mặt tôi là nơi
tôi phải gặp thấy lại những phút giờ xưa cũ ấy. Vì những phút giờ mà Thiên Chúa
từ nhân tuôn đổ ơn sủng của Ngài trên tôi chỉ có thể còn lại với tôi ở trên đường
tôi đang đi tới mà thôi. Kho tàng của quá khứ là sự mở ngỏ của tương lai.
Vì rõ ràng chúng ta đã hành
động là nhằm để có khả năng hành động, đã yêu thương là nhằm để có khả năng yêu
thương. Thật ra toàn thể quá khứ của tôi có thể đến lại với tôi, bởi nó cần được
bảo toàn hay được cứu độ. Vì một người tìm gặp được Thiên Chúa thì không thể
đánh mất gì, và vì một khi chúng ta vẫn còn có thể có một trái tim và khả năng
yêu mến Thiên Chúa với trọn tấm lòng mình thì chúng ta chẳng bị hụt mất gì cả.
Tuy nhiên, cơn nghĩa nộ của
Thiên Chúa ập xuống trên những ai không hết lòng tin vào sứ điệp hồng phúc của
ân sủng đó của Ngài, ân sủng mà Ngài không hề tiếc rẻ, ân sủng quyết định tất cả
sự sống của ta. Có một thứ tinh thần thực dụng trong đó người ta chỉ biết đến
những gì nơi chính mình và nơi con người mà thôi, và thường quên chính điều thực
tiễn đệ nhất là Thiên Chúa – là tương lai vĩnh cửu và là ân sủng nhờ đó mình có
thể làm cho tương lai vĩnh cửu ấy thành tương lai của chính mình. Sự hoàn thành
của tất cả khả năng này không phải ở đâu và lúc nào cũng nhất thiết phải xảy ra
kèm theo với cảm xúc và với những giọt nước mắt vui mừng – như chúng ta thường
muốn thế.
Cơ hội hồng phúc này chủ yếu
được hứa cho những người mỏi mệt và nặng trĩu trong lòng, những người bị thiêu
đốt bởi ngọn lửa vô hình của khổ đau và thất vọng: Phúc cho những ai than khóc,
phúc cho những ai đói khát.
Một năm mới đang về. Một năm
như bao năm khác. Một năm của rối ren và thất vọng với chính bản thân tôi và với
bao người. Khi Thiên Chúa xây dựng ngôi nhà vĩnh cửu của chúng ta, Ngài dựng
giàn giáo tốt để triển khai công trình. Giàn giáo ấy tốt đến nỗi chúng ta muốn
được sống luôn trong đo!. Chỉ có điều trớ trêu là giàn giáo ấy lại bị hạ xuống.
Thế rồi chúng ta gọi sự tan rã này là tính mong manh vô thường bi đát của đời sống
chúng ta. Chúng ta xót xa và sầu thảm nếu trong viễn tượng của một năm mới
chúng ta nghĩ mình không thể gặp thấy gì ngoài sự sụp đổ của tòa nhà cuộc sống
mình – cuộc sống mà thực ra đang được xây dựng âm thầm cho vĩnh cửu đàng sau
giàn giáo được dựng lên và lại được hạ xuống.
Không, năm mới đang đến đây
không phải là một năm thất vọng hay một năm của những ảo tưởng ru ngủ người ta.
Đó là năm của Thiên Chúa, là năm mà trong đó những phút giờ quyết định đang đến
gần tôi một cách âm thầm và êm ái, và sự viên mãn của thời gian đang đến để đi
vào đời tôi. Tôi có sẽ nhận ra những phút giờ ấy không? Hay những phút giờ ấy vẫn
trống rỗng chứ không có gì lạ? Vì đối với tôi chúng xem ra quá bé nhỏ, quá
khiêm tốn và tầm thường?
Dĩ nhiên xét mặt ngoài thì
những phút giờ ấy sẽ không trông có vẻ khác biệt gì so với những khoảnh khắc tốt
lành thường ngày của bất cứ ai. Vì thế, tôi có thể dễ dàng bỏ nhỡ không nhận ra
những phút giờ ấy: một chút nhẫn nhục làm cho cuộc sống dễ chịu hơn một chút
cho những người xung quanh tôi; sự bỏ qua một lỗi lầm của người khác; việc dám
liều để xây dựng niềm tin thực sự vào một người mà mình có xu hướng không tin
tưởng bởi vì mình nghĩ mình đã có những kinh nghiệm không tốt về người đó trước
đây; sự chân thành chấp nhận rằng người khác có cơ sở đúng đắn để phê phán
mình; sự bao dung đón nhận những vết thương người khác gây cho mình và để nó chết
hẳn trong lòng mình chứ không kéo dài nó bằng sự than phiền, sân si, xót xa và
báo oán; sự trung thành trong đời cầu nguyện dù không cảm nhận được những “niềm
ủi an” hay những “cảm nghiệm sùng ngưỡng sốt mến”; sự cố gắng để yêu thương những
người khiến mình bực bội (dù là sự sai quấy hiển nhiên thuộc về họ), và không
duy chỉ là cố gắng thuận thảo với họ bằng cách nuốt giận vì thấy như vậy có lợi
cho mình; sự cố gắng để nhìn thấy nơi sự “điên dại” của người khác một loại
thông minh khác với sự khôn ngoan của mình nhưng đó không hẳn là ngu dại; sự nhẫn
nhịn để không đáp lại sự bất bao dung của người khác theo kiểu ăn miếng trả miếng;
sự cố gắng để không lấy nhân đức của mình biện minh cho những lầm lỗi của mình;
một ý chí cải thiện chính mình khi nhìn thấy tội lỗi nơi người khác và chân
tình muốn giúp họ đổi mới; sự xác tín vững vàng rằng mình rất sẵn lòng và rất dễ
dàng tự gạt mình và lấp liếm nhiều lỗi lầm và gian ác mà mình vốn nhận thấy nơi
bất cứ ai khác; không chì chiết kẻ khác cũng không tự đề cao mình, và nhiều điều
khác nữa vốn chỉ thực sự là tốt khi được chuyên cần thực hành.
Chúng ta chỉ cần cố gắng làm
nghiêm túc những bổn phận bình thường ấy trong đời sống hằng ngày. Và tất cả sẽ
trở thành lớn lao. Song nếu vì quá phấn khích mà không lượng sức mình, sự việc
sẽ hóa ra nguy hại. Vì để sống được như vậy, chúng ta phải là người chịu thiệt,
chúng ta sẽ cảm thấy như mình cho đi nhiều mà không nhận lại bao nhiêu. Chẳng
có mối lợi nào được thu vén cả – không được gì trước mắt người đời, cũng không
được gì bên trong lòng mình (chẳng hạn, một lương tâm tốt lành hay một cảm thức
rằng mình đã đắc thủ được nhiều nhân đức!); vì thậm chí những mối lợi ấy cũng
không còn sức hấp dẫn nào đối với mình.
Rồi, một khi đã biết làm những
việc nhỏ nhặt ấy với một thái độ thích đáng (tự căn bản đây chính là thái độ
Kitô giáo, dù ta không ý thức như vậy) – sẽ đến lúc mà những nguyên tắc ứng xử
hằng ngày thực sự trở thành chuẩn mực đạo đức và luân lý, trở thành cửa ngõ dẫn
ta vào vĩnh cửu bất diệt. Sẽ đến lúc ta không được tưởng thưởng gì thêm – nghĩa
là, ta không nhận được bất cứ gì đặc biệt dù bên ngoài hay ở trong lòng mình,
vì Thiên Chúa đích thực hiện diện trong chính cái “không gì cả” ấy, và đánh mất
hữu hạn lại chính là bắt được vô hạn. Hơn nữa, chính xuyên qua việc đánh mất những
cái hữu hạn mà ta nhận thức được rằng mình đang đạt được cái vô hạn. Cuộc sống
của ta là một cuộc trả giá chính bản thân mình để lấy cái vô hạn. Để được Thiên
Chúa, ta không thể trả giá nào rẻ hơn.
Ta cần nhận hiểu chiều kích
thần nhiệm ấy của cuôc sống thường ngày. Chỉ khi nhận hiểu như vậy, ta mới có
thể tự nguyện nỗ lực – trong tinh thần con cái Thiên Chúa – để chu toàn lề luật
vì lòng kính trọng đối với quyền cai quản tối cao trên vũ trụ (việc này ta
không bao giờ có thể làm xong trọn vẹn; vì đây là việc khó chịu, làm ta ấm ức
như một kẻ lao động khổ sai). Chiều kích thần nhiệm ấy của cuộc sống thường
ngày chính là ân sủng. Hoàn toàn là ân sủng. Nhưng dĩ nhiên điều đó không có
nghĩa rằng ta không cần phải làm gì cả ngoại trừ cố chấp đợi chờ cho đến khi ân
sủng của Thiên Chúa cưỡng bức ta đấu tranh chống lại ý muốn của ta. Sự cưỡng bức
của ân sủng, nếu có thể gọi như thế, chính là ở chỗ ta được trao ban ý chí hướng
thiện – và ý chí hướng thiện, đành rằng tiên vàn do Chúa ban, song đó cũng là
thành quả do công phu đắc thủ của con người. Thái độ thích đáng của ta là tập cảm
nếm vĩnh cửu trong thời gian qua việc sống chiều kích thần nhiệm của cuộc sống
thường ngày.
Sống chiều kích thần nhiệm ấy,
tức là ta đang sẵn sàng để cảm nhận những khả năng tột đỉnh của cuộc sống, đó
là những khoảnh khắc hy sinh anh hùng, những thử thách khủng khiếp, sự điên rồ
thánh thiện và cuối cùng là nỗi chết của chính mình – ta chết trong cái chết của
Đức Kitô! Làm sao ta có thể đón nhận những khoảnh khắc ấy nếu ta không tỉnh thức
sẵn sàng và – trong khả năng hết sức có thể của mình – tự chuẩn bị cho mình những
phút giờ tột đỉnh ấy, những phút giờ mà ta không thể nắm trước được, những phút
giờ xảy đến ngoài mọi tiên lượng của ta?
Bất cứ ai chưa từng cảm nếm
vĩnh cửu trong thời gian sẽ kinh hoàng và lẩn trốn những phút giờ ấy. Họ khiếp
sợ; họ cảm thấy mình bị đòi hỏi quá sức chịu đựng của mình. Thậm chí họ không
nhận ra rằng ân sủng lớn lao của đời sống đang ở ngay trước mặt, trong tầm tay
họ. Họ phớt lờ, họ cho rằng mình không thể “như thế” được. Và rõ ràng, họ không
thể “như thế” được bởi vì họ quá nhu nhược và tự ti trong đánh giá chính bản
thân mình.
Cần phải tập sống chiều kích
thần nhiệm của cuộc sống thường ngày. Nó khác hẳn với một thái độ “trung thành
với bổn phận” nào đó của những người quá tủn mủn chi li, họ “đạo đức” một cách
cứng nhắc và không ước ao gì khác hơn ngoài việc tiếp tục mãi mãi làm một “viên
chức hạng quèn” của Thiên Chúa, miễn là họ luôn luôn nhận được “tiền lương”
ngay trong cuộc sống hiện tại này. Dĩ nhiên là những công việc nhỏ nhặt thường
ngày vẫn còn đó và chúng ta không thể thoát ra được. Thánh nhân cũng phải ngáp,
cũng phải cạo râu … như bất cứ ai. Không có gì chắc chắn rằng những phút giờ sẽ
được ban cho chúng ta trong những ngày tháng sắp tới đây sẽ là những phút giờ
vĩ đại và đặc biệt quan trọng – ngay cả dù xét theo quan điểm của chính chúng
ta. Vậy thì chắc chắn phải có một vĩnh cửu trong cuộc sống thường ngày. Vì
chúng ta biết rằng mọi con người mà chúng ta gặp thấy xung quanh cuộc sống mình
– có vẻ như quá đỗi bình thường thôi – song họ đều có đủ giá trị để trở thành một
vĩnh cửu, và trở thành vĩnh cửu ngay trên mặt đất này, dù cho tất cả những gì họ
làm dường như chỉ là nhọc nhằn lo toan sinh kế, cưới vợ lấy chồng, bình luận
chính trị hoặc xem bóng đá hay tán gẫu về nghệ thuật Picasso …
Có lẽ chính vì lý do này mà
những phút giờ quyết định ấy chỉ đến với chúng ta giữa chính nhịp sống thường
ngày. Nhiều khoảnh khắc của nhịp sống thường ngày sẽ chẳng hề có ý nghĩa bước
quặt quyết định gì cả. Dĩ nhiên chúng ta không thể dốc toàn lực mình mọi nơi mọi
lúc. Và để có được sự tự do lớn nhất thì ta phải từ bỏ nhiều nhất, bởi vì thực
tại thiết cốt nhất được đặt nền móng trên khả năng thâm sâu nhất và đây là một
món quà được ban tặng cho chúng ta. Khả năng dốc được toàn lực mình trong sự tự
do hoàn toàn chính là món quà tặng vĩ đại nhất. Khả năng ấy không được ban cho
chúng ta trong hết mọi phút giây. Tuy nhiên, khả năng ấy hoàn toàn có thể được
ban cho chúng ta trong một tình huống rất bình thường của cuộc sống thường
ngày. Ai có thể nói trước được khi nào thì phút giờ ấy xảy đến? Chúng ta luôn
luôn phải bước vào một tương lai bất quyết, với những rủi ro và những cơ hội mà
tương lai bất quyết ấy bao hàm. Bất chợt, trong khi chúng ta chỉ cảm nhận được
rất mù mờ về cái bất quyết ấy khi chấp nhận nó thì sự hoàn thành lớn lao sẽ được
ban cho chúng ta. Dù sao đi nữa, sự hoàn thành ấy là của chúng ta vì chúng ta
đã chấp nhận nó trong đức tin (dù không biết nó).
Một năm với những khả năng
như thế đang đến với chúng ta. Chúng ta phải mừng năm mới với đức tin cao độ
hơn bao giờ – Hãy bứt ra khỏi sự yếu nhược, sự chán chường và bất tín cố hữu của
mình. Tương lai đang đến. Những kẻ điên rồ nghĩ rằng tương lai đến để tìm kiếm
quá khứ như thể một ám ảnh khổ lụy và chết chóc. Kỳ thực nó đến vì nó muốn trở
thành vĩnh cửu. Nơi những con người chiếm hữu được Thiên Chúa thì cái quá khứ
này luôn hiện diện vô giới hạn. Tương lai vĩnh tồn ấy đang đến với chúng ta –
trong sự viên mãn của thời gian đời tôi, xuyên qua những phút giờ quyết định của
sự tự do đầy năng lực tin, cậy, mến.
Năm mới này sẽ đem lại gì
cho tôi? Còn gì khác nữa ngoài Thiên Chúa – trong sự viên mãn của thời gian đời
tôi. Mà này, rất có thể rằng chính cái khoảnh khắc ngắn ngủi lúc này đây sẽ
không còn chuyển giao ngọn đuốc của sự sống vĩnh cửu cho một khoảnh khắc nào
khác, thay vào đó ngọn đuốc bây giờ sẽ tự nó sáng soi như ánh sáng bất diệt. Biết
đâu đó, như Thánh Tông Đồ Phaolô nói, tôi lao về phía trước, tôi không ngoái lại
đằng sau. Tôi không nghĩ rằng mình đã đến đích, nhưng tôi lao về phía trước nhằm
để đến đích. Đứng trước thềm năm mới này, chúng ta cũng có thể thốt lên lời cầu
“Maranatha!” – Lạy Chúa, xin hãy đến! Vì quả Chúa đang đến – đang đến trong năm
mới của đời tôi. Năm mới này sẽ đem lại gì cho tôi? Còn gì nữa nếu không phải
là Đức Giê-su Kitô chịu đóng đanh và Phục Sinh! Còn gì nữa nếu không phải là mầu
nhiệm sự chết và sự sống của Ngài trong sự sống và sự chết của tôi! Còn gì khác
nữa nếu không phải là ánh sáng chói lọi của Ngài trong đức tin nhọc nhằn của
tôi, lời hứa của Ngài trong đức cậy truân chuyên của tôi, tình yêu của Ngài
dành cho tôi trong nỗ lực không ngừng tìm kiếm Ngài trên con đường yêu mến và
chia sẻ định mệnh của Ngài.
Một năm mới lại về, năm của
Chúa!
Karl Rahner, S.J.
Lê Công Đức dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét