Thứ Hai, 18 tháng 7, 2016

Thơ phổ nhạc: “Áo lụa Hà Đông”

Thơ phổ nhạc: “Áo lụa Hà Đông”
Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn các thi khúc “Áo Lụa Hà Đông”, “Paris Có Gì Lạ Không Em”, “Tuổi Mười Ba”, “Cần Thiết” của Thi sĩ Nguyên Sa và Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên.
Thi sĩ Nguyên Sa sinh ngày 1/3/1932 tại Hà Nội, mất ngày 18/4/1998, tên thật là Trần Bích Lan, ông còn có bút danhHư Trúc. Ông là một nhà thơ tình lãng mạn nổi tiếng từ thập niên 1950, với những tác phẩm nổi danh như “Áo Lụa Hà Đông”, “Paris Có Gì Lạ Không Em”, “Tuổi Mười Ba”, “Cần Thiết”, “Tháng Sáu Trời Mưa (“Tình Khúc Tháng Sáu”)“, v.v.
Tổ tiên ông gốc ở Thuận Hóa (Huế), ông cố ông là Thượng thư Trần Trạm, giữ chức Hiệp Tá Đại Học Sĩ trong triều đình nhà Nguyễn thời Vua Tự Đức, đến đời nội tổ của ông mới dời ra Hà Nội.
Sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, gia đình ông tản cư đi Hà Đông. Tại đây, ông bị nhóm Việt Minh bắt giam khi mới 15 tuổi. Hồi cư về Hà Nội, gia đình cho ông qua Pháp du học vào năm 1949.
Năm 1953, ông đậu tú tài Pháp, lên Paris ghi danh học triết tại Đại Học Sorbonne. Nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được sáng tác trong thời gian này.
Năm 1955, ông lập gia đình với bà Trịnh Thúy Nga ở Paris. Đầu năm 1956, hai ông bà về nước.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, gia đình ông di tản đi Pháp. Ba năm sau, ông cùng gia đình sang định cư tại California, Hoa Kỳ, từ đó cho tới ngày qua đời. Ông mất ngày 18 tháng 4 năm 1998.
Khi còn ở Sài Gòn, thi sĩ Nguyên Sa dạy triết tại trường Trung Học Chu Văn An, đồng thời mở lớp tại nhà dạy triết cho học sinh chuẩn bị thi tú tài 2. Ông cũng có thời gian dạy triết tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Ông mở hai trường tư thục là Văn Học và Văn Khôi.
Ngoài hai trường nhà, ông còn cộng tác với nhiều trường khác ở Sài Gòn như: Văn Lang, Nguyễn Bá Tòng, Hưng Đạo, Thủ Khoa, Thượng Hiền.
Tại Việt Nam, ông chủ trương tạp chí Hiện Đại. Tạp chí này được xem là một trong ba tạp chí sáng tác hàng đầu của Việt Nam Cộng Hòa thời bấy giờ, cùng với Sáng Tạo và Thế Kỷ 20.
Qua Hoa Kỳ, ông chủ trương Tạp chí “Đời”, Trung Tâm Băng Nhạc “Đời” và Nhà Xuất Bản “Đời”.
Về phương pháp làm thơ, thi sĩ Nguyên Sa có thuyết cho rằng vần thơ nếu luôn luôn thật sát thì sẽ nhàm chán. Vần không sát hẳn, thậm chí lạc vận, nếu sử dụng đúng cách, đúng chỗ, vẫn ra một bài thơ hay. Ông nói nhiều về thuyết này trong “Nguyên Sa – Hồi Ký”. (Trích: “Vần thơ có vần chỉnh, vần thông, vần cưỡng áp và lạc vận. Vần chỉnh không cần sự hỗ trợ, không cần sự phối âm, nhưng sự sử dụng những nền âm thanh khác biệt có khả năng làm cho vần thông trở thành vần chỉnh, vần cưỡng và ngay cả vần lạc cũng được nắm tay giữ được trong khoảng không gian giữa trời, giữa đất mênh mông.”)
Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên.
Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên tên thật là Ngô Quang Bình, và là một nhạc sĩ nổi tiếng với dòng nhạc “Tình Ca” tại Sài Gòn, Việt Nam, trong thập niên 60 và đầu thập niên 70, hiện anh đang cư ngụ tại Hoa Kỳ.
Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên sinh ngày 26 tháng 9 năm 1948 tại Hải Phòng, là con thứ nhì trong một gia đình bảy người. Anh lớn lên trong môi trường sách vở và thơ văn, do gia đình anh có mở nhà sách tên Thanh Bình ở thành phố Hải Phòng, về sau ở trên đường Phan Đình Phùng (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu) khi vào định cư ở Sài Gòn. Tại đây, anh học trường Trung Học Nguyễn Trãi, tiếp theo là Trường Đại Học Khoa Học Sài Gòn.
Trong thập niên 1960, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên theo học vĩ cầm với Giáo sư Đỗ Thế Phiệt, và nhạc Pháp với Giáo sư Hùng Lân tại “Trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn”. Thời gian học ở đây, anh gặp chị Đoàn Thanh Vân (con gái của diễn viên điện ảnh Đoàn Châu Mậu), và mối tình của hai anh chị bắt đầu từ đó.
Năm 1963, anh bắt đầu viết nhạc. Tình khúc đầu tay anh sáng tác là bài “Chiều Nay Không Có Em” hoàn tất vào tháng 2 năm 1965, được giới sinh viên học sinh lúc bấy giờ hưởng ứng rất nồng nhiệt.
Vài năm sau, anh cho xuất bản tập nhạc đầu tay lấy tựa “Tình Khúc Đông Quân” (Đông Quân chính là bút hiệu đầu đời của anh trước khi đổi qua bút hiệu Ngô Thụy Miên bây giờ) in ronéo phát hành tại Sài Gòn năm 1969. Trong đó có nhiều bài đáng chú ý như: “Giáng Ngọc”, “Mùa Thu Này Cho Em” (sau đổi là “Mùa Thu Cho Em”), “Gọi Nắng” (sau đổi là “Giọt Nắng Hồng”), “Dấu Vết Tình Yêu” (sau đổi là “Dấu Tình Sầu”), “Cho Những Mùa Thu” (sau đổi là “Thu Trong Mắt Em”), “Tình Khúc Tháng 6”, “Mùa Thu Về Trong Mắt Em” (sau đổi là “Mắt Thu”) và “Ngày Mai Em Đi”… Tiếp theo, anh có những nhạc phẩm phổ từ thơ của thi sĩ Nguyên Sa như: “Áo Lụa Hà Đông”, “Paris Có Gì Lạ Không Em”, “Tuổi 13”…
Năm 1974, anh thực hiện băng nhạc đầu tay “Tình Ca Ngô Thụy Miên” gồm 17 tình khúc đã được viết trong khoảng thời gian 1965 – 1972. Với sự góp mặt của các ca nhạc sĩ như Khánh Ly, Duy Trác, Thái Thanh, Lệ Thu, Thanh Lan, Duy Quang,…
Trong thập niên 1990, anh tiếp tục sáng tác những ca khúc mới như: “Cần Thiết”, “Em Về Mùa Thu”, “Trong Nỗi Nhớ Muộn Màng”… và nhất là “Riêng Một Góc Trời” (1997). Năm 2000, nhạc phẩm “Mưa Trên Cuộc Tình Tôi” của anh được khán thính giả đón nhận một cách đặc biệt.
Tổng cộng đến nay, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đã sáng tác được trên 70 ca khúc, với khoảng 20 bài lúc anh còn trong nước.
Thi phẩm “Áo Lụa Hà Đông” (Thi sĩ Nguyên Sa)
Nắng Sài gòn anh đi mà chợt mát
bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
mà mua thu dài lắm ở chung quanh
linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
bay vội vã vào trong hồn mở cửa
gặp một bữa, anh đã mừng một bữa
gặp hai hôm thành nhị hỹ của tâm hồn
thơ học trò anh chất lại thành non
và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu
em không nói đã nghe từng giai điệu
em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh
anh trông lên bằng đôi mắt chung tình
với tay trắng, em vào thơ diễm tuyệt
em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết
trời chợt mưa, chợt nắng, chẳng vì đâu
nhưng sao đi mà không bảo gì nhau
để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại
để anh giận, mắt anh nhìn vụng dại
giận thơ anh đã nói chẳng nên lời
em đi rồi, sám hối chạy trên môi
những tháng ngày trên vai buồn bỗng nặng
em ở đâu, hỡi mùa thu tóc ngắn
giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông
anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng.
Thi khúc “Áo Lụa Hà Đông” (Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên)
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa Thu dài lắm ở chung quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
Bay vội vã vào trong hồn mở cửa
Em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết
Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng gì đâu
Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau?
Để anh gọi tiếng thở buồn vọng laị…
Em ở đâu, hỡi mùa Thu tóc ngắn?
Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng…
Anh vẫn yêu màu áo ấy em ơi.
Thi phẩm “Paris Có Gì Lạ Không Em” (Thi sĩ Nguyên Sa)
Paris có gì lạ không em?
Mai anh về em có còn ngoan
Mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ
Em có tìm anh trong cánh chim
Paris có gì lạ không em?
Mai anh về giữa bến sông Seine
Anh về giữa một giòng sông trắng
Là áo sương mù hay áo em?
Em có đứng ở bên bờ sông?
Làm ơn che khuất nửa vừng trăng
Anh về có nương theo giòng nước
Anh sẽ tìm em trong bóng trăng
Anh sẽ thở trong hơi sương khuya
Mỗi lần tan một chút suơng sa
Bao giờ sáng một trời sao sáng
Là mắt em nhìn trong gió đưa…
Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay
Tóc em anh sẽ gọi là mây
Ngày sau hai đứa mình xa cách
Anh vẫn được nhìn mây trắng bay
Anh sẽ chép thơ trên thời gian
Lời thơ toàn những chuyện hờn ghen
Vì em hay một vừng trăng sáng
Đã đắm trong lòng cặp mắt em?
Anh sẽ đàn những phím tơ trùng
Anh đàn mà chả có thanh âm
Chỉ nghe gió thoảng niềm thương nhớ
Để lúc xa vời đỡ nhớ nhung
Paris có gì lạ không em?
Mai anh về mắt vẫn lánh đen
Vẫn hỏi lòng mình là hương cốm
Chả biết tay ai làm lá sen?…
Thi khúc “Paris Có Gì Lạ Không Em” (Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên)
Paris có gì lạ không em?
Mai anh về em có còn ngoan
Mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ
Em có tìm anh trong cánh chim
Paris có gì lạ không em?
Mai anh về giữa bến sông Seine
Anh về giữa một giòng sông trắng
Là áo sương mù hay áo em?
Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay
Tóc em anh sẽ gọi là mây
Ngày sau hai đứa mình xa cách
Anh vẫn được nhìn mây trắng bay
Paris có gì lạ không em?
Mai anh về mắt vẫn lánh đen
Vẫn hỏi lòng mình là hương cốm
Chả biết tay ai làm lá sen.
Thi phẩm “Tuổi 13” (Thi sĩ Nguyên Sa)
Trời hôm nay mưa nhiều hay rất nắng?
Mưa tôi chả về bong bóng vỡ đầy tay
Trời nắng ngọt ngào… tôi ở lại đây
Như một buổi hiên nhà nàng dịu sáng
Trời hôm ấy mười lăm hay mười tám?
Tuổi của nàng tôi nhớ chỉ mười ba
Tôi phải van lơn ngoan nhé, đừng ngờ…
Tôi phải dỗ như là… tôi đã nhớn
Tôi phải đợi như là tôi đã hẹn
Phải thẹn thò như sắp cưới hay vừa sêu
Phải nói vơ vào rất vội: người yêu
Nếu ai có hỏi thầm: ai thế?
Tôi nói lâu rồi… nhưng ngập ngừng khe khẽ
Để giận hờn chim bướm chả dùm tôi
Nhưng rồi lòng an ủi “nắng chưa phai
Tình chưa cũ bởi vì tình chưa mới…”
Má vẫn đỏ, đỏ một màu con gái
Với những lời hiền dịu tuy chua ngoa
Lòng vẫn ngỡ ngàng: tóc ướp bằng thơ
Sao hương sắc lên mắt nhìn thi tứ?…
Và đôi mắt nhìn tôi ngập ngừng chim sẻ
Đôi mắt nhìn trời nhè nhẹ mây nghiêng
Tôi biết nói gì? Cả trăm phút đều thiêng
Hay muốn nói nhưng lòng mình ngường ngượng
Chân díu bước và mắt nhìn vương vướng
Nàng đến gần tôi chỉ dám… quay đi
Cả những giờ bên lớp học, trường thi
Tà áo khuất thì thầm: “chưa phải lúc…”
Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường
Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương
Tôi thay mực cho vừa màu áo tím…
Chả có gì… sao lòng mình cũng thẹn
Đến ngượng ngùng bỡ ngỡ: hay là ai?…
Trăm bức thư lót giấy kẻ dòng đôi
Mà nét chữ còn run (dù rất nhẹ)
Tôi đã viết hay chỉ thầm âu yếm kể
Tôi đã nhìn hay lặng lẽ say sưa?
Nên đêm vui sao cũng chớm buồn thưa
Và lo sợ khi lòng mừng quá đỗi…
Rồi trách móc: trời không gần cho tay với
Và cả nàng hư quá, sao mà kiêu…
Nên đến trăm lần: “Nhất định mình chưa yêu”
Hôm nay nữa…
nhưng lòng mình sao lạ quá…
Thi khúc “Tuổi 13” (Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên)
Trời hôm nay mưa nhiều hay rất nắng
Mưa tôi trả về bong bóng vỡ đầy tay
Trời nắng ngạt ngào tôi ở lại đây
Như một buổi hiên nhà nàng dịu mát.
Trời hôm ấy mười lăm hay mười tám
Tuổi của nàng tôi nhớ chỉ mười ba
Tôi phải van lơn ngoan nhé! đừng ngờ
Tôi phải van lơn ngoan nhé! đừng ngờ.
Áo nàng vàng Anh về yêu hoa Cúc
Áo nàng xanh Anh mến lá sân trường
Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương
Anh thay mực cho vừa mầu áo tím.
Rồi trách móc trời không gần cho tay với
Và cả nàng hư quá sao mà kiêu …??
Nên đến trăm lần nhất định mình chưa yêu
Nên đến trăm lần nhất định mình chưa yêu
Thi khúc “Cần Thiết” (Thi sĩ Nguyên Sa và Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên)
Không có anh lấy ai đưa em đi học về
Lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học khuya
Ai lau mắt cho em ngồi khóc
Ai đưa em đi chơi trong chiều mưa
Không có anh lấy ai cười trong mắt
Ai ngồi nghe em nói chuyện thu phong
Ai cầm tay mà dắt mùa Xuân
Nghe đường máu run từng cành lộc biếc
Ôi những lúc em cười trong đêm khuya
Lấy ai nhìn những đường răng em xinh
Đôi mắt sáng là hành tinh lóng lánh
Lúc sương mù ai thở để sương tan
Không có anh nhỡ ngày mai em chết
Thượng Đế hỏi anh sao tóc em buồn
Sao tay gầy, sao đôi mắt héo hon
Anh sẽ phải cúi đầu đi về địa ngục
Dưới đây mình có các bài:
– Nhà thơ Nguyên Sa và sự thay đổi cảm nhận thi ca Việt Nam
– NGÔ THỤY MIÊN: Người nhạc sĩ tài hoa
Cùng với 12 clips tông hợp các thi khúc “Áo Lụa Hà Đông”, “Paris Có Gì Lạ Không Em”, “Tuổi 13”, “Cần Thiết” để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.
Mời các bạn,
Túy Phượng
(Theo Wikipedia)
Nhà thơ Nguyên Sa và sự thay đổi cảm nhận thi ca Việt Nam
Mặc Lâm
Những câu thơ mà Nguyên Sa đem từ Pháp về Việt Nam năm 1956 đã thay đổi rộng khắp cảm nhận thi ca của đa số thanh niên Việt Nam. Giống như một nhạc cụ mới, có âm hưởng sâu và đánh thức giác quan thẩm mỹ của thời đại.
“Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
Bày vội vã vào trong hồn mở cửa
Em ở đâu, hỡi mùa thu tóc ngắn
Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng”
Những câu thơ mà Nguyên Sa đem từ Pháp về Việt Nam năm 1956 đã thay đổi rộng khắp cảm nhận thi ca của đa số thanh niên Việt Nam. Giống như một nhạc cụ mới, có âm hưởng sâu và đánh thức giác quan thẩm mỹ của thời đại, thơ Nguyên Sa đã góp phần làm bản hòa tấu đa âm của thi ca Việt Nam thêm những rung động lạ lẫm cuốn hút người đọc mà Thơ Mới tỏ ra không còn đủ sức hấp dẫn như lúc khởi đầu.
Thơ Nguyên Sa nhanh chóng tràn vào từng lớp học, nơi trái tim học trò đập những nhịp điệu đầu tiên của tình yêu. Nguyên Sa yêu và chia sẻ cách yêu của mình qua kinh nghiệm một chàng trai có những thời khắc tuyệt vời tại Pháp, thủ đô của tình yêu trai gái, thủ đô của những giòng thơ trác tuyệt từng một thời là bệ phóng cho hàng trăm thi tài thế giới.
Nguyên Sa đem cái hồn phách của Châu Âu tái sinh sau khi thế chiến thứ II chấm dứt về Sài Gòn và nhanh chóng chiếm trọn sự cổ vũ nồng nhiệt của sinh viên học sinh. Ông đem ánh đèn vàng Paris nơi có những nhà ga là nguồn cảm hứng vô tận cho những cuộc chia tay. Ông mang theo hơi hám của sông Seine của nhà thờ Notre Dame về lại Sài Gòn nơi mà nhiều thế hệ thanh niên chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Pháp.
Về tới Sài Gòn ông lại hỏi thăm Paris. “Paris có gì lạ không em?” Hỏi nhưng ông biết Paris vẫn thế, vẫn những quán café nho nhỏ xinh xinh trên đường phố Montmartre thuộc quận 18 của Paris. Vẫn giòng sông Seine cuốn hút gợi tình. Câu hỏi của Nguyên Sa về Paris đã làm thanh niên học sinh Sài Gòn thổn thức như chính họ đã từng ở Paris nay về lại quê hương mà lòng không tránh được nhớ nhung một thuở.
Thanh niên Sài Gòn nhớ cái mà họ chưa từng trải nghiệm qua thơ Nguyên Sa. Bắt đầu từ đây ông bước vào lãnh thổ khép kín của nhiều người. Ông cùng với họ thở hơi thở thi ca bằng những ngôn từ mới, rất mới, cho tới bây giờ sau hơn nửa thế kỷ vẫn còn mới tinh. Paris có gì lạ không em?
Nguyên Sa và vợ tại Paris
Paris có gì lạ không em?
“Paris có gì lạ không em ?
Mai anh về em có còn ngoan
Mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ
Em có tìm anh trong cánh chim
Paris có gì lạ không em ?
Mai anh về giữa bến sông Seine
Anh về giữa một giòng sông trắng
Là áo sương mù hay áo em?
…..
Anh sẽ chép thơ trên thời gian
Lời thơ toàn những chuyện hờn ghen
Vì em hay một vừng trăng sáng
Đã đắm trong lòng cặp mắt em?”
Paris không những là kinh đô của ánh sáng mà nó còn là thủ phủ của tình yêu. Có lẽ yếu tố tình yêu của Paris dính liền với lứa tuổi học trò Việt Nam thời đó. Thời của những trang lưu bút, những cánh hoa ép vào trong vở học, những hò hẹn ngây thơ và đầy tiếng ve, xác phượng là khoảng thời gian đẹp nhất trong một đời người. Trong lứa tuổi ấy tình yêu bắt đầu với những giai điệu mong manh và huyền ảo nhất.
Nguyên Sa nói đó là sự cần thiết, là điều không thể thiếu của con người. Xác quyết ấy của Nguyên Sa nhanh chóng được giới trẻ gật đầu thừa nhận, và vì thế, thơ ông từ đó có mặt trong lưu bút, trong sân trường thời trẻ dại và ngay cả sau này khi họ đã thành gia thất.
Cần thiết
“Không có anh lấy ai đưa em đi học về
Lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học
Ai lau mắt cho em ngồi khóc
Ai đưa em đi chơi trong chiều mưa
Những lúc em cười trong đêm khuya
Lấy ai nhìn những đường răng em trắng
Đôi mắt sáng là hành tinh lóng lánh
Lúc sương mờ ai thở để sương tan
Ai cầm tay cho đỏ má hồng em
Ai thở nhẹ cho mây vào trong tóc…”
Thơ Nguyên Sa không những trau chuốt về ngôn ngữ nó còn lấn sâu tới một vùng khác đầy hấp dẫn nhưng cũng rất nguy hiểm đối với thể loại văn học dễ làm nhưng khó hay và nhất là khó nổi tiếng: thơ tự do.
Trước đây hơn nửa thế kỷ, một câu thơ đẹp sẽ bị quay lưng khi nó thể hiện hình ảnh, ý tưởng có vẻ “nhạy cảm” đối với người yêu thơ. Trong mỗi cá nhân có thể không giống nhau cách chia sẻ một bài thơ hay nhưng rất giống nhau khi nhìn thấy một câu thơ kỳ khôi, vượt lên trên cảm nhận bình thường của thi ca.
Cảm giác đó vẫn còn đầy đối với người đọc thơ đương đại vậy mà Nguyên Sa làm cho người đọc thơ ông cách đây hơn nửa thế kỷ phải mỉm cười, dù cách so sánh của ông lập dị đến nỗi không ai có thể nghĩ tới. Trong một bài thơ có tên người yêu và cũng là vợ ông sau này, ông viết:
Nga
“Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm
Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
Ðôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình
Ðể anh giận sao chả là nước biển!…”
Hình ảnh đôi mắt cá ươn thật sự gây thích thú cho sinh viên học sinh Việt Nam ngay cả cái mùi không dễ chịu của nó cũng làm họ ngây ngất. Ẩn dụ của Nguyên Sa làm học trò tròn mắt và người lớn mỉm cười. Từ đôi mắt cá ươn, đỏ lên sự nhớ nhung, cho tới cách mà hai con chó ốm quấn quýt nhau đã nâng Nguyên Sa lên bệ của thần tượng trong lòng họ:
“Em nhớ không, anh đã van em đừng buồn
Anh đã van em đừng để những nụ cười chắp nối
Mắt anh sẽ mờ vì những vết kim khâu
Và anh buồn, rồi lấy ai mà dỗ nhau
Lấy ai mà dỗ hai con chó ốm!…
Em đã khóc, anh đã khóc và chúng mình đã khóc
Bước chân lê trên những hè phố không quen
Chúng mình đã khóc vì không được gần nhau như hai con chim
Chúng mình đã khóc vì không có tiền làm lễ cưới, lễ xin
Và em nhớ không, chúng mình đã hỏi nhau:
Tại sao phải làm lễ tơ hồng
Tại sao phải nhờ người ta buộc chỉ vào chân
Khi tay em đã vòng ra đằng sau lưng anh
Khi tay anh đã vòng ra đằng sau lưng em
Người ta làm thế nào cắt được
Bốn bàn tay chim khuyên!…”
“Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc, áo nàng xanh tôi mến là sân trường” Có lẽ là hai câu thơ làm thành tên tuổi Nguyên Sa. Cảm xúc ngây ngô của chàng thanh niên trong lứa tuổi 16 nói với em, một cô học trò 13 tuổi. Những lời lẽ nếu xuất hiện hôm nay có lẽ cuộc đời sẽ giảm bớt biết bao nhiêu bụi bặm của thời đại.
Em Mười ba tuổi của thời Nguyên Sa rất nguyên sơ và thánh thiện. Chàng thư sinh Nguyên Sa không hề dám tơ tưởng vóc hình em mà chỉ dám chạm đến nhè nhẹ một màu áo, một sân cỏ nơi em bước qua. Đẹp và lãng mạn đến thế là cùng.
Tuổi 13
“Trời hôm ấy mười lăm hay mười tám?
Tuổi của nàng tôi nhớ chỉ mười ba
Tôi phải van lơn ngoan nhé, đừng ngờ…
Tôi phải dỗ như là… tôi đã nhớn
Và đôi mắt nhìn tôi ngập ngừng chim sẻ
Đôi mắt nhìn trời nhè nhẹ mây nghiêng
Tôi biết nói gì? Cả trăm phút đều thiêng
Hay muốn nói nhưng lòng mình ngường ngượng
Chân díu bước và mắt nhìn vương vướng
Nàng đến gần tôi chỉ dám… quay đi
Cả những giờ bên lớp học, trường thi
Tà áo khuất thì thầm: “chưa phải lúc…”
Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường
Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương
Tôi thay mực cho vừa màu áo tím…”
Trở về Việt Nam trong hoàn cảnh miền Nam đang hít thở bầu không khí chính trị mới, Nguyên Sa đóng góp vào nền văn học Việt Nam trên nhiều lãnh vực. Ngoài thơ, ông còn là một nhà báo, một cây viết phê bình văn học, một nhà lý luận và còn là một nhà giáo dục.
Là Hiệu trưởng trường Văn Học, dạy môn Triết tại trường Chu Văn An cũng như đại học Văn Khoa và nhiều trường trung học nổi tiếng khác tại Sài Gòn như Văn Lang, Hưng Đạo, Thủ Khoa, Thượng Hiền, Nguyễn Bá Tòng… ông có cơ hội tiếp cận với học sinh, sinh viên và để lại trong lòng nhiều lớp người ký ức đẹp đẽ khi theo học thầy Trần Bích Lan, tức nhà thơ Nguyên Sa.
Nguyên Sa, Hạt cát nguyên sơ ấy đã theo chân học trò và người yêu thơ ông góp vào hành trang của họ những luận lý Tây phương cũng như cảm nhận cái đẹp với ý thức hoàn toàn vượt ra khỏi sự cũ kỷ nhàm chán của một nền Hán học vẫn đậm đặc trong xã hội. Thầy Trần Bích Lan không giảng bài mà ông thầm thì với học trò của ông những vần thơ tuyệt đẹp để từ đó nhiều người nhận ra rằng thơ có khả năng mở sáng trí tuệ chứ không chỉ là giai điệu hay những nỗi buồn, niềm vui bình thường của con người.
Giống như hầu hết văn thi sĩ miền Nam, thơ Nguyên Sa trong những năm chiến tranh có thay đổi tuy không lớn và máu lửa như nhiều nhà thơ khác. Trong những bài thơ mang tính thời cuộc ấy vẫn thoang thoảng cá tính Nguyên Sa, một thiên sứ tình yêu, một cung bậc mới trong cảm nhận văn học.
Nguyên Sa đốt lên ngọn lửa trong “Bài hát Cửu Long” nhưng không phải là lửa chống quân thù mà là lửa soi đường cho thanh niên, lửa tin yêu của những chàng trai cô gái hội tụ bên nhau trước vận mệnh mới của dân tộc.
Bài hát cửu long
“Có gì đâu em: có một đoàn người
Có một đoàn người góp sức góp vai
Cùng rủ nhau về góp một thành hai
Những bước chân góp đi làm đến!
Họ không dại khờ: góp trăng làm nến!
Chỉ những miệng cười góp lạ thành quen
Góp những giọng hò làm trống ngũ liên
Góp những bàn tay dựng thành đại hội
Cánh tay chắp cánh tay cho dài thêm nửa với
Gạo quanh nồi góp lại bữa cơm chung
Họ cùng đi cùng góp tháng, góp năm…
Để sáng ngày mai làm sông làm biển
Có gì đâu, có một đoàn người
Bên bờ Cửu Long gõ nhịp
Cả giòng sông gõ nhịp vịn bờ sông
Họ rủ nhau về sương gió vui chung
Dù có phút nước mắt chạy quanh
Hay miệng cười hớn hở
Vẫn bát gạo Hậu Giang, vẫn nụ cười huynh đệ
Mắt nghẹn ngào sáng tỏ nắng phương Nam
Màu nắng vàng không màu nhiệm hào quang
Nhưng dù má bừng lửa cháy
Trán đổ mồ hôi
Họ cùng không đóng cửa mừng vui
Những bàn tay ngượng ngập díu môi cười
Không phải khóc
Một đời người tầm gửi”
…..
Thủy chung Nguyên Sa vẫn yêu tận tình con người, yêu như trai gái yêu nhau, như những cặp tình nhân bất tử. Có lần ông giật mình khi nhìn lại chung quanh và chính bản thân để rồi thở dài cho đời người sao quá nhiều cay đắng, đặc biệt những con người trong thế hệ bị bộ máy chiến tranh bào mòn, nghiến nát:
Bây giờ
“Thế kỷ chúng tôi chót buồn trong mắt
Dăm bảy nụ cười không đủ xóa ưu tư
Tay quờ quạng cầm tay vài tiếng hát
Lúc xòe ra chẳng có một âm thừa
Cửa địa ngục ở hai bên lồng ngực
Phải vác theo trăm tuổi đường dài
Nên có gửi cho ai vài giọng nói
Cũng nghe buồn da diết chạy trên môi
Hai mắt rỗng phải che bằng khói thuốc
Chúng tôi nằm run sợ cả chiêm bao
Mỗi buổi sáng mặt trời làm sấm sét
Nên nhìn đêm mở cửa chẳng đi vào”
Nhà thơ của chúng ta cuối cùng rồi cũng không ra khỏi chiếc vòng tròn tự vấn. Trong bài thơ Sám hối, cái tựa trước tiên gây cảm giác tê tái và lạnh căm, nhưng qua bài thơ này Nguyên Sa phủ trùm lên nó thứ ánh sáng tái sinh của sự tận hiến. Chàng trai xưng tội với một người đàn bà, biểu tượng lòng thành mà một đời chàng trân trọng.
Chàng không sám hối điều chàng đã làm cho nàng. Những điều mà chàng thốt ra thật khó hình dung, diễn đạt lại vì thế cái cảm giác ăn năn, tự trách vẫn bồng bềnh trong bài thơ khiến chúng ta không thể hiểu tại sao.
Bài thơ này có lẽ mang tính triết học đậm đặc nhất trong toàn bộ cuộc đời làm thơ của ông. Sám hối, trở về với nguyên ủy sự sống. Vòng quay bất tận của tái sinh hay sự trở về gục đầu vào lòng người nữ vẫn luôn là đớn đau bất tận của nhân loại.
Sám hối
“Khi nắng mở cửa một bầu trời nạm bạc,
anh sẽ trở về trên con đường không có mùi cỏ ải
mà chỉ có nắng vàng hanh.
Anh sẽ trở lại bên em – mà cúi đầu – mà quỳ gối –
mà nghe rụng trong lòng ánh sáng hành tinh.

Anh sẽ quỳ gối bên em nhưng không dám nói chuyện trần gian.
Anh không dám kể lể dài dòng như một người giang hồ
nói với người giang hồ về những chuyện quê hương.
Anh chỉ dám dâng em chút ít đớn đau với nỗi niềm sám hối.
Nỗi niềm của một kiếp người đã nhiều tháng ngày ngồi trong ngõ tối
…..
Anh không dám nhắc đến cuộc đời xa cũ.
E sợ rằng lời lẽ chua cay sẽ biến thành bốn con ngựa già
kéo linh hồn anh chạy về bốn phía chân trời
trong những ngày giá lạnh.
Anh cũng không dám khóc. Nước mắt em ơi, đã đóng đinh
vào lòng bàn tay anh và linh hồn dớm máu…
Anh chỉ ngồi nhìn sao khuya rung động.
Nghe bờ môi tát cạn nhưng hơi thở yếu dần.”
Nhắc đến Nguyên Sa người yêu thơ ông vẫn tưởng nhà thơ đang rong chơi đâu đó vì ngôn ngữ vẫn sát với khung cảnh thường nhật hôm nay. Mặc dù nhà thơ đã từ trần vào ngày 8 tháng Tư năm 1998, cách đây đã mười sáu năm, nhưng thơ ông vẫn được nhiều người nhắc tới như xưa, đặc biệt trong hoàn cảnh tình yêu tuổi học trò ngày một biến mất để thay vào đó là những trò chơi tình cảm nhục dục của thanh niên trong thời đại mới.
Mỗi tiếng thở dài tiếc nuối quá khứ là một câu thơ của Nguyên Sa. Mỗi câu thơ của ông có khả năng làm mới tâm hồn để biết rằng trong bất cứ thời đại nào nhịp đập tình yêu vẫn là suối nguồn sự sống.
NGÔ THỤY MIÊN: Người nhạc sĩ tài hoa
Việt Hải
“Tôi không viết nhạc để sống, nhưng sống để viết nhạc”. (Ngô Thụy Miên)
Vào dịp cuối hè, một số anh em trong nhóm Stars Entertainment Group tai nam Cali đứng ra tổ chức buổi nhạc thính phòng tại khiêu vũ trường Majestic. Chương trình gồm phần đầu là các ca sĩ Ý Lan, Thiên Kim, Hoàng Nam hát nhạc NTM, phần sau là các ca sĩ hát nhạc yêu cầu. Vũ trường đêm đó đã chật ních, điều này cho thấy ân tình của khán thính giả dành cho nhạc sĩ Ngô Thụy Miên (NTM) là những lời mến mộ ưu ái hay những đóa hoa tri ân người nhạc sĩ tài hoa này.
Sau sự thành công tại nam Cali, chị Bạch Hạc, một người có lòng với âm nhạc và văn học trên Minnesota phối hợp với các thân hữu đia phương tổ chức buổi nhạc thính phòng tại Saint Paul lấy tên “Một Lần Là Mãi Mãi” để gây quỹ tương tế cộng đồng, chương trình chỉ hát nhạc NTM, vào ngày 13/09/03, MC là nhà văn Ngọc Thủy từ San Jose bay lên tiếp tay với Bạch Hạc. Chiều hôm đó có những khuôn mặt sáng giá của âm nhạc Việt Nam như Khánh Ly, Khánh Hà, Tuấn Ngọc, Trần Thái Hoà và nhiều ca nhạc sĩ khác nữa. Trước đây người ta vẫn thường tổ chức những buổi nhạc vinh danh người nhạc sĩ tài hoa này, rồi bây giờ vẫn tiếp tục và có lẽ sẽ còn nhiều nữa trong tương lai.
Duyệt qua tiểu sử NTM mà thi sĩ Trường Đinh bên Anh quốc đã cung cấp cho tôi thì có thể cho một cái nhìn khái quát về NTM như sau:
“Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên tên thật là Ngô Quang Bình, sinh năm 1948 tại Hải Phòng. Ông tốt nghiệp năm 1965 tại trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn về hai bộ môn vĩ cầm và nhạc pháp. Ông bắt đầu viết nhạc từ năm 1963.
Tình khúc đầu tiên mà Ngô Thụy Miên đã hoàn tất là bài “Chiều Nay Không Có Em” (1965), đã được giới sinh viên tại các giảng đường đại học và các hội quán văn nghệ hưởng ứng rất nồng nhiệt. Vài năm sau đó, ông đã cho xuất bản một tập nhạc đầu tay lấy tựa đề là “Tình Khúc Đông Quân” do Khắc Hạnh Ronéo phát hành tại Sài Gòn (1969). Đông Quân là bút hiệu đầu tiên của nhạc sĩ Ngô Quang Bình trước khi ông đổi qua bút hiệu mới là Ngô Thụy Miên. Trong tuyển tập “Tình Khúc Đông Quân” mà ông đã ghi lời tâm bút thay cho lời ngỏ trên trang đầu của tuyển tập là những tình khúc viết cho bạn bè và tình yêu, trong đó gồm 12 bản tình ca: Giáng Ngọc, Mùa Thu Này Cho Em (sau đổi là Mùa Thu Cho Em), Gọi Nắng (sau đổi là Giọt Nắng Hồng), Dấu Vết Tình Yêu (sau đổi là Dấu Tình Sầu), Cho Những Mùa Thu (sau đổi là Thu Trong Mắt Em), Tình Khúc Tháng 6, Nhạt Tình (sau đổi là Dấu Vết Tình Yêu), Mây Hồng (sau đổi là Tuổi Mây Hồng), Gọi Tên Em, Ái Xuân, Mùa Thu Về Trong Mắt Em (sau đổi là Mắt Thu) và Ngày Mai Em Đi. Ca khúc mới nhất của NTM có tên “Một Lần Là Mãi Mãi”.
Ông vượt biên vào cuối năm 1978 và đến Mã Lai. Tại trại tị nạn Pulau Bidong ở Mã Lai ông đã chính thức trình làng tác phẩm mà ông đã miệt mài viết từ năm 1975 và đã hoàn tất vào năm 1978, là bài tình ca “Em Còn Nhớ Mùa Xuân” riêng gởi tặng cho người yêu Đoàn Thanh Vân lúc đó đang định cư tại Mỹ Quốc. Năm 1979 ông sang Montreal, Gia Nã Đại. Tại đây ông đã gặp lại và lập gia đình với Thanh Vân vào cuối năm 1979. Vào khoảng đầu năm 1980, ông di dân sang Mỹ và định cư tại California. Ông tốt nghiệp kỷ sư điện toán năm 1981, và hiện đang làm chuyên viên cố vấn trong ngành điện toán tại thành phố Olympia thuộc tiểu bang Washington”.
Khi nói về NTM không ai phủ nhận anh NTM có những bài tình ca mà tôi cho là “tuyệt chiêu” trong ngôn ngữ của con tim thật sự rung động. Có một nhận xét từ người bạn tôi bảo rằng âm nhạc NTM chứa đựng chất lãng mạn, chịu ảnh hưởng thơ Nguyên Sa. Tôi nghĩ chỉ đúng phần nào đó khi anh phổ thơ Nguyên Sa. Thơ Nguyên Sa nếu đứng riêng vẫn tuyệt vời, duyên dáng như trong bài “Tuổi 13”:
“Trời hôm nay mưa nhiều hay rất nắng
Mưa tôi trả về bong bóng vỡ đầy tay
Trời nắng ngạt ngào tôi ở lại đây
Như một lần hiên nhà nàng dịu sáng
Trời hôm ấy 15 hay 18
Tuổi của nàng tôi nhớ chỉ 13
Tôi phải van lơn ngoan nhé! Đừng ngờ
Tôi phải van lơn ngoan nhé! Đừng ngờ
Áo nàng vàng Anh về yêu hoa Cúc
Áo nàng xanh Anh mến lá sân trường
Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương
Anh thay mực cho vừa màu áo tím …”
Những từ ngữ ví von tượng hình vô cùng độc đáo, vô cùng dấu yêu như: mưa rơi bong bóng vỡ , áo nàng vàng thì yêu hoa cúc, còn nếu áo xanh thì mến lá sân trường,…
Nhạc Ngô Thụy Miên nếu đứng riêng cũng không kém chất lãng mạn, trữ tình như khi người ta yêu nhau, người ta dâng hiến trao nhau tất cả từ con tim, nụ hôn truyền cảm, bờ môi ngọt lịm, rồi quà cáp, sính lễ hôn nhân, ngày tháng nhớ nhung, … và cho em luôn cả mùa thu yêu đương, cái sắc thái độc đáo, cái lãng mạn ngất ngây tuyệt vời ấy đã đưa bài ca “Muà Thu Cho Em” lên hàng top hit, và bài tình ca này được trang trọng đi vào vườn văn học Việt Nam ghi nhận tên tuổi NTM, mà phải chăng lời bài ca mang chất thơ do chính NTM sáng tác.
Do vậy khi thi ca Nguyên Sa cộng hưởng với âm nhạc NTM thì sự giao duyên này là một cuộc hôn phối trường cửu mà chúng ta đã nghe nhiều bài giao duyên như “Paris Có Gì Lạ Không Em”, “Tuổi 13”, “Áo Lụa Hà Đông”, “Nắng Paris, Nắng Sài Gòn”, “Tình Khúc Tháng 6”, “Tháng 6 Trời Mưa”,… Sự giao hưởng này làm thăng hoa sự tuyệt tác thơ và nhạc cho kho tàng văn học mà thôi.
Nhà văn Nguyễn Đình Toàn nhận xét về NTM trong một bài viết cũ như sau:
“Trong những ca khúc mà Ngô Thụy Miên viết cả lời ca, ông đã cho người ta thấy, ông đã mở những cánh cửa thế giới riêng của mình. Ngô Thụy Miên đang ở độ chín để sáng tác. Hy vọng ông sẽ còn mang đến cho người nghe nhiều ca khúc mới, lạ khác nữa. Phổ thơ Nguyên Sa là một giai đoạn. Ngô Thụy Miên vẫn còn có thể tiếp tục làm công việc này, nếu ông còn tìm thấy sự đồng điệu trong những bài thơ khác của Nguyên Sa. Kosma phổ rất nhiều thơ của Prévert. Nhưng Kosma vẫn cứ là Kosma và Prévert vẫn cứ là Prévert, nếu không muốn nói đó là một cuộc hôn phối tuyệt đẹp giữa thơ và nhạc.”
Hãy nghe những lời trần tình nồng nàn, khi con tim NTM tình tự gửi cho chị Đoàn Thanh Vân trong nhịp tim chao đảo với những nhung nhớ đã mang người về dĩ vãng của mùa xuân yêu đương, dĩ vãng không nhạt phai cho tâm tư lắng đọng trong trí tưởng qua bài tình ca tuyệt tác “Em còn nhớ mùa xuân”, một top hit mà tôi vô cùng thích. NTM viết về mùa xuân yêu đương và ký ức Sài Gòn từ những nhà hàng hò hẹn sang phòng trà, những hộp đêm đến quán cơm Bà Cả Đọi, mời bạn đọc:
“Rồi đến là những mùa Xuân của tuổi trẻ, của những háo hức, đợi chờ, của những môi hôn vội vã, vòng tay quấn quít trao nhau trên đường phố thân thương, quán hàng quen thuộc. Em nhớ không, La Pagode, Givral của những sáng hẹn hò, Hoàng Gia, Pôle Nord của những chiều đưa đón, dạo phố tết Nguyễn Huệ, Lê Lợi tấp nập người qua, và những tối ghé quán Bà Cả Đọi, rồi Đêm Mầu Hồng. Cái không khí ấm áp tràn đầy tình thương của quê hương đó, làm sao có thể ngờ được chỉ trong vài tháng đã chỉ còn để lại một mùa Xuân, một mùa Xuân cuối cùng của những đổi thay, những mất mát, tan tác cho cả một thế hệ trẻ chúng ta…
“Em có bao giờ còn nhớ mùa Xuân
Nhớ tháng năm xưa của tuổi dại khờ
Nhớ tiếng dương cầm giọng hát trẻ thơ
Có thấy bơ vơ ngày tháng đợi chờ
Nơi ấy bây giờ còn có mùa Xuân
Có dáng nghiêng nghiêng nụ cười thật gần
Có mắt nai vàng ngời sáng tình xanh
Em có bao giờ thấu cho lòng anh…”
Trong cái ký ức tuyệt vời xưa hiện về những ngày khi tôi còn mài đáy quần trên ghế nhà trường Petrus Ký mà nhiều lần tôi như con mọt sách thường lân la, lai vãng tại các tiệm sách trên đừờng Lê Văn Duyệt góc trường Nguyễn Khuyến, rồi ghé vào nhà sách Thanh Bình của gia đình anh trên đường Phan Đình Phùng, nơi có trường tiểu học Aurore, tôi ghi nhận những dòng văn mà NTM viết trong bài “Quê hương và Nỗi nhớ” như những lời tâm sự:
“Rời Hải Phòng vào miền Nam, bố mẹ tôi đã chọn thành phố Sài Gòn, đường Phan Đình Phùng để xây dựng lại tiệm sách Thanh Bình làm nơi sinh sống. Tại đây tôi lại có dịp nhìn thấy những chiếc tầu sắt khổng lồ với những ống khói cao ngất, phun ra những tàn khí bụi than mù mịt bầu trời. Nhà tôi ở gần góc đường Cao Thắng, trước cửa trường mẫu giáo Aurore. Tôi còn nhớ trên đường Cao Thắng, thật là một sự tình cờ trùng hợp, cũng có một lò bánh mì, là nơi cuối tuần tôi hay ra mua bánh về cho cả nhà ăn sáng với thịt nguội. Ngoài ra còn có 2 rạp chớp bóng Việt Long (sau là Văn Hoa Sài Gòn) và Đại Đồng. Ngôi chợ rất gần nhà là chợ Vườn Chuối mà thỉnh thoảng mẹ tôi cho đi theo để xách rỏ thức ăn về cho mẹ…”
Trong cái kỷ niệm nhắc nhỡ về quê hương nơi anh chào đời, NTM tâm tình tiếp:
“Tôi sinh ra tại Hải Phòng, một thành phố ở miền Bắc Việt Nam, cũng là quê hương, là nơi sinh trưởng của 2 người nhạc sĩ tôi yêu quí nhất, Văn Cao và Đoàn Chuẩn. Nếu Văn Cao là người nhạc sĩ tôi quí trọng nhất, không phải chỉ về những đóng góp của ông vào vườn hoa âm nhạc Việt Nam, mà còn về tác phong, đời sống cá nhân ông, thì Đoàn Chuẩn là người tôi yêu thích nhất với những tình khúc bất hủ, và những đóng góp lớn lao của ông vào việc tạo dựng một dòng nhạc tình tự, lãng mạn nhất của nền tân nhạc Việt Nam chúng ta. Qua Đoàn Chuẩn, tôi đã yêu mùa Thu, đã sáng tác nhiều nhạc phẩm về mùa Thu, và vẫn mơ một ngày nào đó sẽ có dịp trở về thăm mùa Thu của ông…”. Đất nước hiện nay NTM chưa có sự chọn lựa cho sự trở lại, niềm ước mong đó với cố hương muôn thuở vẫn là mối u hoài. Tôi đọc và hiểu ý văn của NTM khi anh nhìn về khía cạnh đạo đức gia đình, sự chung thủy của nhạc sĩ Văn Cao.
Năm 1996, NTM cho ra bài ca “Riêng Một Góc Trời”, bài ca cho thấy khi tình lên cao điểm, tình nhiều nhớ nhung, một góc trời yêu thương bàng bạc, khi người yêu xa cách còn đâu nụ hôn say mơ, hay chỉ còn là nỗi cô đơn rã rời:
“Tình yêu như nắng, nắng đưa em về, bên giòng suối mơ
Nhẹ vương theo gió, gió mang câu thề, xa dời chốn xưa
Tình như lá úa, rơi buồn, trong nỗi nhớ…
Em đã xa xôi, tôi vẫn chơi vơi, riêng một góc trời
Người yêu dấu, người yêu dấu hỡi
Khi mùa xuân vội qua chốn nơi đây
Nụ hôn đã mơ say, bờ môi ướt mi cay, nay còn đâu…
Là chia cách đôi nơi, là hạnh phúc rã rời, người ơi
Một mai em nhé, có nghe Thu về, trên hàng lá khô
Ngàn sao lấp lánh, hát câu mong chờ, em về lối xưa
Hạ còn nắng ấm, thấy lòng sao buốt giá
Gọi tên em mãi, trong cơn mê này, mình nhớ thương nhau”.
Ngay năm sau đó NTM lại cho ra một bản tình ca tôi rất thích là “Một Đời Quên Lãng”. Lời nhạc NTM đặt vẫn dịu dàng yêu thương, vẫn bâng khuâng, dạt dào con tim, vẫn lâng lâng hồn thổn thức:
“Người đến bên tôi, tim tôi chơi vơi, hồn tôi rã rời
Giọng nói năm xưa, nụ cười ngày nào nhẹ vương tà aó
Bài thánh ca đêm, nhạc mềm hiu hắt
Êm bờ vai, dịu dàng ngây ngất

Hạnh phúc trong tay, một thời mơ ước, gối mộng xa bay
Người đã yêu tôi, thương trao đôi môi vùng ân ái này
Một thoáng mây bay, trong cơn mê say gọi tên người mãi…
Một kiếp xa xôi, một đời quên lãng
Em còn yêu tôi”
Năm nay 2003, NTM cho ra một sáng tác mới mà buổi nhạc thính phòng trên Minnesota lấy làm chủ đề là “Một Lần Là Mãi Mãi”. Tình nào lỡ trao em về tà áo xôn xao hay con tim mang vết thương tình ái…
“Tình lỡ trao em ngày nào nắng đã xôn xao hát trên tà áo
Tình ngỡ cho em dài sau ái ân nồng dấu mắt cười đêm thâu
Ngày tháng trôi qua miệt mài nắng có phôi phai vết thương tình ái
Đời mãi xuôi theo dòng sông cuốn theo biển sóng trôi cuộc tình hồng
Một lần là héo úa một trời là tiếc nuối khôn nguôi là chơi vơi nỗi nhớ
Mây ơi có thương cho lời cuối xót xa chi hờn dỗi vấn vương hạt mưa rơi
Một lần là nước mắt một thời
Một lần là rã nát người ơi
Xa em mãi mãi…”
Tóm lại âm nhạc NTM rất đa dạng như thể loại phảng phất nét yêu đời, trẻ trung, vui tươi như:
“Mùa Thu cho Em”, “Tháng Giêng Và Anh”, “Tuổi Mây Hồng”, “Ái Xuân”, “Paris Có Gì Lạ Không Em”,… hay loại nhạc nhuốm nỗi sầu vơi của kỷ niệm như: “Riêng Một Góc Trời”, “Em còn Nhớ Mùa Xuân”, ”Giáng Ngọc ”, “Ở Nơi Nào Em Còn Nhớ”, “Trong Mắt Em Là Biển Nhớ”,… hoặc loại buồn não nề, da diết, thương tâm như “Thu Khóc Trên Ngàn”, “Giọt Nước Mắt Ngà”, “Niệm Khúc Cuối”, “Nỗi Đau Muộn Màng”, “Một lần Là Mãi Mãi”,…
Nhận xét về NTM, thi sĩ Trường Đinh đã phát biểu như sau:
“Ngô Thụy Miên, của mặt trời thức và ngủ, trong khiêm tốn và nhã nhặn, với nụ cười rất trẻ, từ trái tim và tâm hồn mãi nâng niu và trân quý những kỷ niệm thời gian…”.
Riêng thi sĩ Nghiêm Xuân Cường nhận xét về NTM như sau:
“Con người ngoài đời của anh NTM có lẽ cũng giống như những hình chụp hoặc trong các video ca nhạc Ngô Thụy Miên, anh rất bình dị và trầm mặc, cởi mở và khiêm nhường. Ít ai trong chúng ta lại không có trong ký ức một câu nhạc nào đó của NTM, hay nói đúng hơn, ít nhất là vài đoạn nhạc liên hệ tới một khoảng thời gian êm đềm nào đó của tuổi trẻ của mình. Riêng về cá nhân anh NTM, là người yêu nhạc của anh trên 30 năm nay từ lúc còn ở trung học và tôi quen biết anh được khoảng 10 năm nay, anh luôn luôn đối với tất cả mọi người với một thái độ khiêm cung, dễ mến và có một tấm chân tình hết sức rộng mở với tất cả các nét nhạc của những nhạc sĩ khác, điều mà tôi cho là NTM như viên ngọc quý như là mẫu mực của con người nho nhã đầy phong ca’ch nghệ sĩ”. Trong một chương trình Thúy Nga phát thanh tại nam Cali, ca nhạc sĩ Trọng Nghiã đã nhận xét là: “NTM là người nhạc sĩ hiền hòa về cá tính và khiêm nhường về phong cách”.
Nói tới âm nhạc NTM là nói đến những tình tự ngọt ngào chân chất, những dòng nhạc NTM chuyên chở chúng ta về không gian cũ của quê hương có Sài Gòn trong giấc mơ xa xưa, những bản tình ca bất hủ của NTM đem chúng ta về giai đoạn đã qua, của một thuở có nắng Sài Gòn của “Áo Lụa Hà Đông”, của mùa thu ngày cũ khi dìu nhau trong dĩ vãng êm ả đầy nhớ mong, về khung trời kỷ niệm dấu yêu có “Mùa Thu cho Em”. Vâng, âm nhạc NTM đã toả hiện nét ấp ủ những yêu thương bất tận, là tiếng nói của những con tim xao xuyến khi yêu nhau, là lời dịu dàng nhất, đầm thắm nhất, đắm say nhất của một đời để yêu và một đời tưởng nhớ miên viễn thiên thu.
Nói với đời, nói với tất cả khán thính giả ái mộ NTM, anh tâm sự: “Tôi chỉ xin được nhớ đến như một người viết tình ca không hơn, không kém”. Anh đã tạo cho mình một vị thế đặc biệt trong đời sống, người nghệ sĩ với cá tính hòa nhã với mọi người, và là một con người đa cảm khi viết nhạc, nhưng rất thủy chung với gia đình. Anh như tấm gương soi phản chiếu hai hình ảnh tổng hợp của Văn Cao và Đoàn Chuẩn. Vâng, cái đức tính khiêm tốn, khoan thai, dịu dàng và thủy chung đó đã tạo cho NTM là NTM của sự độc đáo.
Với ngần ấy đóng góp cho đời sống và cho kho tàng âm nhạc Việt Nam, xin cám ơn người nhạc sĩ tài hoa Ngô Thụy Miên mà anh Trọng Nghiã cũng như Trường Đinh, Nghiêm Xuân Cường đã cho lời nhận xét như là một khuôn mẫu đáng quý.
Áo lụa Hà Đông – Ca sĩ Duy Trác
Áo lụa Hà Đông – Ca sĩ Tuấn Ngọc
Paris có gì lạ không em – Danh ca Thái Thanh
Paris có gì lạ không em – Ca sĩ Tuấn Ngọc
“Tuổi 13” – Danh ca Thái Thanh (trước 1975)
“Tuổi 13” – Danh ca Thái Thanh (sau 1975)
“Tuổi 13” – Ca sĩ Tuấn Ngọc
“Tuổi 13” – Ca sĩ Gia Huy
Cần thiết – Ca sĩ Thanh Hà
Cần thiết – Ca sĩ Hoàng Oanh, Mai Hương
Cần thiết – Nghệ sĩ Hồng Vân diễn ngâm
Túy Phượng
Theo https://dotchuoinon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...