Cảm hứng nhân văn - Thế sự
và cảm hứng quê hương
đất nước - Quê hương thiền tông trong tác phẩm
Hán Nôm của
thiền phái Trúc lâm đời Trần
Với sự ra đời của Thiền phái
Trúc Lâm, Phật giáo đời Trần không chỉ đã đóng góp tích cực cho sự phát triển đạo
pháp mà còn có tác động trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đất nước. Trên bình
diện văn hóa văn học nước nhà, tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm đã để lại dấu ấn
lớn trong đời sống văn học. Ngoài cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi
thiên nhiên Phật nhiệm mầu [i], tác giả Thiền phái Trúc
Lâm đời Trần còn diễn trình các tác phẩm của mình được viết bằng chữ Hán và chữ
Nôm qua cảm hứng nhân văn - thế sự và cảm hứng quê hương đất nước - quê hương
thiền tông mà chúng tôi xin trình bày dưới đây:
1. Cảm hứng nhân văn - thế sự
Xét trong mối quan hệ giữa
người và người, con người với thiên nhiên, xã hội trong văn học thời đại Lý -
Trần từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XV thì những tiêu chí về đạo đức, theo quan điểm
đạo đức Nho giáo được thể hiện khá mờ nhạt trong văn chương thời kỳ này. Mặc
dù, có sự tiếp biến giữa ba luồng tư tưởng Nho - Phật - Lão, nhất là từ 1070,
Lý Thánh Tông - một ông vua Phật tử lập trường đại học đầu tiên theo mô hình
Nho giáo, thậm chí có lúc giới Nho học lên tiếng bài xích Phật giáo, song Phật
giáo vẫn được xem là quốc giáo, trong đó tư tưởng từ bi bác ái, nhân bản trở
thành giá trị nhân văn chủ đạo. Do đó, mối quan hệ giữa người với người, thiên
nhiên, xã hội không có sự phân hóa rõ ràng. Con người sống và ứng xử theo một
tinh thần nhân văn rộng mở, hòa nhập với thiên nhiên mà không bị áp đặt bởi lễ
nghi, đạo đức phong kiến Nho giáo.
Lý giải điều trên, Đặng Thai
Mai trong bài Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học nhận định: “Nét
đặc biệt trong đời sống xã hội phong kiến Việt Nam ở giai đoạn này là sự giản dị
trong quan hệ giữa người với người… Con người thời đại này quả là con người biết
sống một đời sống tích cực, vui vẻ, một đời sống cởi mở và phong phú, rộng rãi
sâu sắc. Đời sống của con người chưa hề bị lễ giáo nhà Nho ràng buộc gay gắt”[ii]. Nói như thế, chính tư tưởng Phật giáo đã tạo nguồn
cảm hứng nhân văn thế sự, góp phần tạo nên hai nội dung lớn yêu nước và nhân
văn của nền văn học thời kỳ này nói chung, văn thơ Thiền phái nói riêng.
Trước hết là cảm hứng
nhân văn, xuất phát từ cái nhìn triết lý nhân sinh Phật giáo, các tác giả
Thiền phái đã nhìn nhận rõ về sự thật của con người - cuộc đời là khổ và chính
họ tìm cách vượt thoát khổ bằng sự thực nghiệm tâm linh. Mục đích cuối cùng của
con người là giải quyết các mâu thuẫn nội tại trong các mối quan hệ, hướng đến
một thái độ sống đẹp trong văn hóa ứng xử. Do đó, khi bàn về chủ nghĩa nhân đạo
trong văn học Việt Nam, Nguyễn Đình Chú đã phát biểu: “Tinh thần nhân
bản không chỉ là tình thương con người, đặc biệt là con người đau khổ, thiệt
thòi trong cuộc sống, mà còn là sự khám phá, biểu dương tất cả mọi giá trị làm
nên vẻ đẹp con người trong mối quan hệ với vũ trụ, với tự nhiên, với xã hội, với
gia đình, với chính nó trong hành động và trong tâm linh”[iii].
Từ điểm nhìn nghệ thuật này,
con người trở thành nhân vật trung tâm để phản ánh đời sống thực tiễn. Các tác
giả Thiền phái Trúc Lâm không ngừng cất lên tiếng nói con tim thổn thức, khát vọng
tình người. Chân dung về thân phận con người càng khắc họa rõ nét khi mà các
nhà sáng tác luôn phải đi ngang cuộc hành trình nhìn lại chính mình với những
biến động của lịch sử và chính trường thay đổi triều đại. Những bi kịch uẩn
khúc từ thâm cung bí hiểm của cuộc hôn nhân chính trị giữa Trần Thái Tông và chị
dâu của mình đã có mang và cuộc sống xa hoa, luôn phải tranh giành địa vị ở chốn
quan trường. Hình ảnh con người luôn phải đối diện trước sinh tử biệt ly qua ba
cuộc chiến tranh chống quân Nguyên Mông thần thánh với những rung động chứa
chan tình người. Những tâm sự kín đáo của Thánh Tông, Tuệ Trung về nỗi lòng lương
đống của vua quan, công hầu, bá tước; tấm lòng chân thành và đa cảm, đa sự của
Huyền Quang trong việc xử thế đạo đời, kể cả vụ án oan tình nổi danh kim cổ với
nàng Điểm Bích…; tất cả đã hóa thành những bài thơ, bài văn giàu chất bi cảm,
thống thiết tình người. Chúng thật sự phản ánh đúng tận đáy chiều sâu của những
tâm hồn vừa là vua, quan, thiền gia, thiền sư trong cái “sắc thân” hữu hạn, chỉ
có “tình yêu” là vô hạn.
Nếu văn học Phật giáo đời
Lý, khi đề cập đến hình ảnh con người, dù là con người vô ngã, vô úy, vô ngôn…
đi nữa, chỉ gợi chứ ít khi tả thì đến văn học Phật giáo đời Trần, nhất là Trần
Thái Tông qua Khóa hư lục đã sử dụng bút pháp tả thực để mô tả con
người từ hình thể bên ngoài đến nội tâm bên trong đầy triết lý ngậm ngùi. Đoạn
văn sau đây trong bài Phổ thuyết Sắc thân là một minh chứng: “Tích
thời lục mấn chu nhan; kim nhật thanh khôi bạch cốt. Lệ vũ sái thời vân thảm thảm,
bi phong động xứ nguyệt vi vi. Dạ lan tắc quỷ khốc thần sầu, tuế cửu tắc ngưu
tàn mã tiễn. Huỳnh hỏa chiếu khai thanh thảo lý, cùng thanh ngâm đoạn bạch
dương sao. Bi minh bán một tỏa thanh đài, tiều mục đạp xuyên thành khê kính. Nhậm
thị văn chương cái thế, túng nhiêu tài mạo khuynh thành. Đáo đầu khởi hữu dị đồ,
triệt để dã đồng nhất trước” [iv]. (Xưa kia má hồng
sắc thắm; ngày nay xương trắng tro tàn. Mây mịt mùng khi mưa lệ chứa chan;
trăng hiu hắt chốn gió sầu lay động. Canh khuya vắng, thần sầu quỷ khóc; tháng
năm chầy, ngựa xéo trâu quần. Lửa đóm lập loè dưới đám cỏ xanh; tiếng trùng nỉ
non trên hàng dương trắng. Bia mộ nửa chìm, phủ đầy rêu biếc; chăn trâu hái củi,
dẫm sạt lối mòn. Dẫu có văn chương nức tiếng; dù cho tài sắc nghiêng
thành. Nào ai có khác chi ai; rốt cuộc đều về một mối).[v]
Thân mệnh con người được nằm
trong thực tại của cõi “Sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ,
cái gì không ưa mà phải hợp là khổ, cái gì muốn mà không được là khổ, nói tóm lại
triền miên trong ngũ trược giả hợp là khổ”, đúng như cái nhìn triết lý nhà Phật.
Thân tự cầm tù trong những dục vọng, thói quen đã tích lũy sai lạc từ bao nhiêu
kiếp. Đằng sau cái thế giới hình sắc mỹ miều, âm thanh dịu êm, cảm xúc mật ngọt
trần thế là sự hủy diệt sinh mệnh không gì cản được. Thói quen nguy hiểm nhất
là thói quen trong suy nghĩ, nhận thức sai lạc về thân. Con người đang ở trọ
trong cái thân giả huyễn mà cứ ngỡ tưởng chừng như thật có. Thân tự buộc mình
vào cõi tương đối thịnh suy cuộc đời, con người tự bám víu vào cái tự ngã cạn cợt
đầy tham vọng mà vẫy vùng trong khổ đau. Và Trần Thái Tông đã viết lên những
dòng văn chương đầy xúc cảm như thế về thân con người. Ông khắc họa hình ảnh
con người qua một thân mạng hãi hùng thế kia. Mục đích là tự thân thoát ra sự vận
hành của “cái thân” để đến một cõi lòng tĩnh lặng, sống chia sẻ tấm
lòng của mình với mọi người. Vậy là, lần đầu tiên trong lịch sử văn học Phật
giáo nước nhà, Trần Thái Tông lấy con người từ trong hiện thực cuộc sống làm đối
tượng để khắc họa cho hình ảnh con người. Suy cho cùng, Trần Thái Tông không chỉ
muốn tái hiện mà còn sáng tạo ra con người cụ thể và chi tiết. Nó được phản ánh
và lý giải từ đời sống hiện thực theo cách riêng, không chỉ những nét tính cách
được phô diễn mà cả vóc dáng trí tuệ cùng thế giới nội tâm được thể hiện muôn
màu muôn vẻ.
Con người trong Khóa hư
lục là con người được hóa hiện từ cuộc sống trần trụi của nó. Từ tính cách
tham ăn khát uống, tranh quyền đoạt lợi, yêu ghét buồn vui, đắm chìm trong các
dục, cho đến sự trải nghiệm cả đời người. Tất cả được mô tả như là một hiện tượng
thẩm mỹ, có sự vận động tâm linh đa chiều luôn diễn tiến. L. Tônxtôi từng phát
biểu “… Con người như những dòng sông. Nước trong mọi con sông như nhau và
ở đâu cũng vậy cả. Nhưng mỗi con sông khi thì hẹp, khi thì trong veo, khi thì lạnh,
khi thì ấm. Con người cũng như vậy. Mỗi con người mang trong mình những mầm
mống của mọi tính chất của con người và khi thì thể hiện những tính này, khi
thì thể hiện những tính chất khác và thường không giống bản thân mình tuy vẫn cứ
chính là mình”[vi]. Chính trong cảm thức sâu lắng cuộc đời
vốn thế, Trần Thánh Tông tự ngắm nhìn lại mình với những hoài niệm mà qua bài
thơ Cung viên xuân nhật hoài cựu: “Cung môn bán yểm kinh sinh đài, Bạch
trú trầm trầm thiểu vãng lai. Vạn tử thiên hồng không lạn mạn, Xuân hoa như hứa
vị thùy khai?”[vii] (Cửa ngõ lờ mờ dấu bụi rêu, Chìm
chìm ngày bạc vẻ đìu hiu. Đầy vườn rực rỡ hồng chen tía, Hoa khéo vì
ai vẫn nở nhiều)[viii].
Bài thơ thi vị làm sao,
nhưng vẫn nghe đâu đó, có một cung đàn cất lên nỗi buồn tâm sự của một giai điệu
tình yêu vọng về. Lòng thi nhân hiểu rõ quá khứ trôi qua, trước mắt là vườn hoa
khoe sắc thắm, ngập tràn niềm tin và hy vọng. Trong Khuê oán, Trần Nhân
Tông thấm thía thân phận con người được diễn trình qua thế giới sắc màu biến đổi,
nên ông cũng là người đầu tiên của Thiền phái chia sẻ cõi lòng cung nữ với những
tâm trạng phức tạp và thầm kín:
“Thụy khởi câu liêm khán tụy
hồng,
Hoàng ly bất ngữ oán đông
phong.
Vô đoan lạc nhật tây lâu ngoại,
Hoa ảnh chi đầu tận hướng
đông.”[ix]
(Tỉnh giấc, rèm nâng, ngó rụng
hồng,
Hoàng anh im tiếng, giận
đông phong.
Lầu tây vô cớ, vầng dương lặn,
Cả bóng hoa cành ngả hướng
đông.)[x]
Vì thế, thân phận con người
cần phải tiếp tục chuyển hóa. Nó có nhu cầu hướng đến cái vô hạn để giải phóng
cho chính mình như là một sự tất yếu. Con người có thể vượt qua không gian, thời
gian và xoá đi những hàng rào biên giới các ảo tưởng về sự an bài của đấng siêu
hình để chuyển hóa thân phận bằng cả tấm lòng vượt thoát các hệ luỵ khổ đau.
Trong chiều hướng đó, con người đã thẳng thắn nhìn nhận về thân phận hữu hạn thật
đáng thương, nhiều khiếm khuyết. Mỗi cá thể đều phải vượt qua các tướng trạng
khổ đau của sinh già bệnh chết như vượt qua bốn ngọn núi cheo leo, tường vách dựng
đứng như trong bài Phổ thuyết Tứ sơn mà Trần Thái Tông lý giải[xi].
Cuộc hành trình này tự thân
ai cũng phải đi qua và đi như thế nào tùy theo nghiệp nhân, nghiệp quả của mỗi
người. Sự thật, hình ảnh bốn núi này được Đức Phật đề cập trong kinh Đại
bát Niết bàn 29, ĐTK 374.12.536c9-13, trong Hán tạng, kinh Tạp
A Hàm bài 1147, trong Pàli tạng, kinh Tương Ưng bộ bài
136. Đó là lời Đức Phật chỉ dạy cho vua Ba Tư Nặc “Này Đại vương, có người
thân tín từ bốn phương, ai cũng nói lời này: “Đại vương có bốn ngọn núi lớn từ
bốn phương đang lăn về, tàn sát cây cỏ, vật, người, nhân dân? Vương nghe vậy
thì nên đưa đội quân nào đi chinh phục? Vua nói: “Bạch Thế Tôn, nếu có điều đó
tới thì không có đội quân nào chinh phục được bốn núi đó, chỉ nên chuyên tâm
trì giới, bố thí”. Phật bảo: “Lành thay Đại vương, ta nói bốn núi đó là sinh,
già, bệnh, chết của chúng sinh. Sinh già bệnh chết đều gắn bó với đời sống con
người.”.
Suy nghĩ về pháp thoại giữa
Đức Phật và vua Ba Tư Nặc, ta thấy thân phận con người bị sinh, lão, bệnh, tử
nghiền nát. Cho nên, Trần Thái Tông đã chỉ rõ tận cùng của cái “Bi” của
thân phận kiếp người là để làm hóa hiện cái “Đẹp” qua hình ảnh bốn
núi mà đức Phật đã giảng. Có thể nói, chưa có tác phẩm nào miêu tả tính chất bi
hùng và thống thiết về thân phận con người mang tính kinh điển văn học như những
gì Trần Thái Tông đã viết trong Khóa hư lục. Nhờ vậy, con người mới
khát vọng thực thi một đời sống an lạc. Nếu mỗi người bị chi phối, tác động, hệ
luỵ bởi nhiều môi trường hoàn cảnh khác nhau thì họ cũng có khả năng vượt thoát
từ sự tịnh hoá của tâm hồn. Trần Nhân Tông khẳng định chân lý này trong Tảo
mai I “Cam lộ lưu phương si điệp tỉnh, Dạ quang như thủy khát cầm sầu. Hằng
Nga nhược thức hoa giai xứ. Quế lãnh thiềm hàn chỉ má hưu”[xii] (Đêm
ngỡ nước trong, chim cháy cổ, Sương lừng hương ngát, bướm tan mơ. Hằng Nga như
biết đây hoa đẹp, Quế lạnh cung Thiềm, há mến ưa?)[xiii]
Đây là điều mà ông nghiệm ra
trong những ngày ở Yên Tử dốc lòng tu đạo. Với một tâm hồn bén nhạy, ông có những
rung cảm vừa thâm trầm tinh tế, vừa sắc sảo nồng nàn. Vẫn là bài thơ vịnh về
cây mai, nhưng cây mai của ông khác hẳn với cây mai của Tề Kỷ đời Đường, có hoa
nở sớm trong đám tuyết dày cuối đông:“Tiền thôn thâm tuyết lý. Tạc dạ nhất chi
mai.” (Thôn trên dày tuyết phủ. Đêm trước một cành mai). Còn cây
mai của ông được nhìn nhận như thân phận con người chuyển hóa. Đó là những cánh
hoa mai mỏng manh, tinh khiết, nhưng lung linh hấp dẫn. Khi đông đến hoa nở trắng
xóa cả vườn, hương thơm ngát lòng. Khi hết mùa chỉ còn lại vài hoa e ấp đầu
cành, khiến bướm si mê phải giật mình, chị Hằng Nga luyến tiếc cung Thiềm… Thân
phận con người là thế, khi nhận chân được bản chất của cuộc đời là gì thì sự
ham muốn mất đi, chỉ còn lại tấm lòng trinh nguyên của sắc thân hiện hữu.
Giá trị thân phận con người
là sự chuyển hóa bằng một tình thương vô hạn. Có lẽ Huyền Quang là nhà thơ Thiền
phái có nhiều nỗi lòng khi suy gẫm về thân phận với những trăn trở, tâm sự rất
sâu kín khi ông quyết định rút lui về núi rừng. Trong vai trò lãnh đạo
Giáo hội, ông vẫn quyết định sống một cuộc đời hướng nội, thoát ly sự lợi dưỡng
của trần thế nhiễu loạn. Tự mình bày tỏ chính kiến của mình, Huyền Quang mở lối
đi về để tìm lại non nước xa xôi mà chính ông từng đánh mất giữa cuộc đời này: “Đức
bạc thường tàm kế Tổ đăng, Không giao Hàn, Thập khởi oan tăng. Tranh như trục bạn
qui sơn khứ, Điệp chướng trùng loan vạn vạn tằng [xiv] (Đức
mỏng, thẹn thùng đèn Tổ nối, Luống cho Hàn, Thập nổi hờn căm. Chi bằng
theo bạn về non quách, Núi đứng non che vạn vạn tầng) [xv].
Cái khiếm khuyết đó chính là
con người không bao giờ biết dừng lại trong cuộc truy tìm quyền lực, danh vọng,
tiền tài mà thực ra họ chỉ là chúng sinh nhỏ bé đang băng hoại trước cơn lốc vô
thường. Vì thế, ông tri nghiệm về một đời sống bình an nội tại như ông từng hướng
đến mà bài Trú miên mô tả “Tổ phụ điền viên nhậm tự sừ; Thiên
thanh bàn khuất nhiễu ngô lư” [xvi] (Vườn tược cha
ông mặc sức cày; Quanh nhà xanh nượp mấy hàng cây) [xvii]. Từ
đó, con người biết lắng nghe chia sẻ những nỗi đau ly biệt có lúc phải gánh chịu: “Kỷ
gia sầu đối kim tiêu nguyệt; Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm” [xviii] (Đêm nay mấy kẻ sầu trăng nhỉ? Xa cách, nhưng
lòng chỉ một thôi).[xix]
Tuệ Trung khuyến cáo con người
ra khỏi bụi trần, buông xả các dục, mỗi lần gột rửa là mỗi lần nghỉ ngơi “Nhất
hồi đẩu tẩu nhất hồi hưu” (Xuất trần) [xx]. Ông ca
ngợi cảnh sống vui thú giang hồ, hòa nhập thiên nhiên với con thuyền lênh đênh
trên sông dài, lắng nghe tiếng chim nhạn hát, gió thu thổi khắp muôn phương mà
lòng tự tại theo triết lý nhà Phật, thanh nhàn theo triết lý Lão Trang: “Nhất
thanh hà xứ tân lai nhạn, Trắc giác thu phong biến thập châu.” (Giang hồ tự
thích)[xxi]. Trong sự thể nhập đó, Thượng sĩ đã thấu hiểu
nỗi lòng của Thánh Tông suốt đời hướng đến sự chuyển hóa thân tâm để trí tuệ bừng
sáng đạo lý thiền, ông không chỉ biết chiêm nghiệm núi non ngập trùng mà còn
chia sẻ lắng nghe tiếng vượn trầm “Nhân gian chỉ kiến thiên sơn tú, Thùy
thính viên đề thâm xứ thâm” (Tụng Thánh Tông đạo học) [xxii].
Không riêng gì Tuệ Trung, Trần Thánh Tông mà Trần Nhân Tông cũng đôi lần bộc bạch: “Thị
phi niệm trục triêu hoa lạc, Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn”.[xxiii] (Phải
trái rụng theo hoa buổi sớm, Lợi danh lạnh với trận mưa đêm) (Sơn phòng mạn hứng)[xxiv] “Thê lương hành sắc thiêm cung mộng, Liêu
loạn nhàn sầu đáo tửu môi” [xxv] (Quạnh quẽ dặm xa
mơ điện cũ, Vấn vương sầu lắng thấm ly nồng) (Tây Chinh đạo trung) [xxvi] v.v…
Xa hơn, Huyền Quang thì quá
nhạy cảm với con người và thiên nhiên cảnh vật xung quanh bằng một tình yêu vô
bờ bến. Thơ ông luôn bộc lộ những xao động trăn trở, giằng xé, mâu thuẫn nội tại,
uẩn khúc ngay trong cõi lòng. Sự xao động của nỗi niềm cá nhân thầm kín có khi
nó phá vỡ sự tĩnh lặng của hư không bằng những gam màu, âm thanh, đường nét của
thế giới thực tại đang diễn bày. Giữa không gian biển trời mênh mông, con thuyền
cứ thế lướt sóng đưa người qua bến mê. Trong cái tỉnh của hư không, tiếng sáo
làng chài bỗng cất lên như khúc nhạc lòng như phá vỡ bình lặng sương đêm bao phủ,
ánh trăng rọi chiếu những cành hoa lau đằng xa khiến người ta có cảm xúc dâng
trào giữa thực và hư, giữa đạo và đời, giữa hữu và vô mà bài Phiếm chu khắc
họa [xxvii].
Hay hình ảnh cánh chim hải
âu bay lượn giữa không trung mịt mù sóng nước, trong khi tâm trạng nhà thơ vẫn
phiêu du trên con thuyền cô độc đi tới sự tận cùng của bến giác, gợi cho ta nhiều
cảm xúc thi vị của bài thơ Chu trung mà Huyền Quang đã thi hứng.
Trong cái thế giới mênh mang của trời đất, bao giờ vẫn có thực thể hiện hữu. Đó
là con thuyền lướt qua biển khơi, là cánh chim hải âu hóa hiện giữa không
trung, tất cả như biểu tượng trong cõi mênh mông đó, vẫn có bến bờ nguồn sống: “Vị
mang tứ cố vãn triều sinh, Giang thủy liên thiên nhất âu bạch”[xxviii] (Bốn bề trông quạnh ngọn triều lên, Nước biếc
liền trời âu trắng xóa.) (Chu trung)[xxix] Nó
chẳng khác gì hình ảnh Trần Nhân Tông khắc họa trong bài Lạng Châu vãn cảnh[xxx]. Đây chính là suối nguồn để ông tạo ra những tứ thơ,
ý thơ bộc lộ những nỗi lòng qua những cảm xúc, suy tư sâu lắng, nhưng cũng
không kém phần xao động, xót xa, thương cảm trần thế.
Huyền Quang từng ý thức cuộc
đời thật bụi bặm, mở mắt mà choáng váng (Phản quan trần thế giới, Khai
nhãn túy mang mang) (Ngọ thụy) [xxxi]; để rồi ông
làm bạn núi rừng, vui thú chim muông “Trúc Lâm đa túc điểu, Quá bán bạn
nhân tăng.” (Yên Tử sơn am cư)[xxxii]. Ngay cả khi lòng
thật yên tĩnh, chỉ một tiếng dế kêu trong đêm khuya thanh vắng cũng khiến cho
ông chạnh lòng trắc ẩn, băn khoăn tự hỏi “Cùng thanh tức tức vị thùy đa.” (Tiếng
dế vì ai rầu rĩ mãi). (Sơn vũ) [xxxiii] và tự
dằn dỗi “Vong thân, chí thế dĩ đô vong.” (Cúc hoa)[xxxiv], (Quên
mình, quên đời, quên hết cả)[xxxv…
Từ cái nhìn triết lý nhân
sinh Phật giáo, được khơi nguồn bằng cảm hứng nhân văn, các tác phẩm Thiền phái
Trúc Lâm không chỉ cất lên tiếng nói yêu thương con người vạn vật mà còn lý giải
mối quan hệ hài hoà giữa con người với con người, con người với cộng đồng xã hội,
con người với thiên nhiên - vũ trụ. Sự tương thân, tương ái giữa con người với
nhau; sự tương dữ, tương ái với thiên nhiên - vũ trụ mà thơ văn Thiền phái đã
đi vào tâm thức người đọc như là một đạo lý để sống và an nhiên tự tại với đời.
Thứ đến là cảm hứng thế
sự, nhìn từ góc độ bản chất thì thời kỳ văn học nào cũng định hình và phát
triển trong một dòng chảy của bối cảnh lịch sử - xã hội cụ thể, được thể hiện
rõ ở cảm hứng thế sự. Nhưng nó không đơn thuần phản ánh các sự kiện, nhân vật,
đời sống xã hội đang diễn tiến mà còn bày tỏ cảm xúc chủ quan, sự nhìn nhận của
con người về hiện thực lịch sử đó. Điều này cắt nghĩa cho chúng ta tại sao văn
học thời Trần mang dấu ấn cảm quan Phật giáo cùng với hiện thực lịch sử. Nó
cũng lý giải và minh định cho bộ phận văn học Phật giáo đời Trần nói riêng, cụ
thể là Thiền phái Trúc Lâm có nội dung chuyển tải về truyền thống yêu nước và
nhân văn của dân tộc ta với sự xuất hiện nguồn cảm hứng thế sự đậm chất trữ
tình nhân bản.
Trong một bối cảnh lịch sử cả
dân tộc buổi đầu xác lập nền độc lập tự chủ của đất nước Đại Việt, thơ văn đời
Lý đã phản ánh trung thực diện mạo tính chất văn học gắn liền lịch sử. Với sự
tham gia của các thiền sư và quần chúng Phật tử, dân tộc ta đã làm nên kỳ tích
lần thứ hai đánh quân xâm lược nhà Tống vào năm 1077. Hầu hết những bài văn,
bài thơ các thiền sư sáng tác mang nội dung cảm quan thiền học, diễn đạt thế giới
chứng ngộ. Số còn lại là một số bài văn, bài thơ phản ánh sự quan tâm về vận mệnh
quốc gia, xã tắc trước sự xâm lược, hay ca ngợi những công đức lớn lao đối với
các thiền sư, công thần đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Sư Vạn Hạnh là người từng
khuyên Lý Công Uẩn lên ngôi để khai sáng ra triều đại nhà Lý phát triển rực rỡ
suốt hơn 200 năm (1009-1225): “Tông chủ vạn dân, xả Thân vệ, kỳ thùy đương
chi?” (Khuyến Lý Công Uẩn)[xxxvi] (Người đứng đầu
muôn dân chẳng phải Thân vệ thì còn ai đương nỗi nữa)[xxxvii].
Là người suốt đời hướng nghĩ đại cuộc, cũng như tính đến việc dời đô để “tính
kế lâu dài cho đời sau” (Thiên đô chiếu)[xxxviii],
ông đã được vua Lý Nhân Tông làm thơ truy tán ca ngợi là bậc “Trụ tích trấn
vương kỳ”[xxxix]. BàiĐại Việt quốc đương gia đệ tứ đế
Sùng Thiện Diên Linh tháp bi thì tán dương Lý Nhân Tông trong việc giữ nước,
dựng nước hợp với lòng dân là hợp với đạo Phật, với giọng văn trầm hùng, kiêu
hãnh lòng tự hào dân tộc “Thượng phương thùy củng; hạ chính bật lân… Kiềm
lê hy hợp; triệu thứ thanh di”[xl] (Trên vừa trị
yên trong nước, dưới đương giúp đỡ lân bang… Nhân dân hòa hợp; trăm họ yên vui”[xli].
Đến đời Trần, với kỳ tích ba
lần chiến thắng quân Nguyên cùng với mô hình các vị vua rút lui về làm Thái Thượng
hoàng, làm thiền gia, thiền sư thì cảm hứng thế sự đậm chất nhân văn trữ tình
phát triển về lượng và chất được thể hiện rõ trong thơ văn Thiền phái Trúc Lâm.
Theo các nhà nghiên cứu thì con người trong văn học Phật giáo Lý - Trần là con
người bản lĩnh, vô ngôn, vô úy, vô tạp, vô nhiễm, vô niệm, luôn tự chủ, tự do,
phá chấp, trí tuệ siêu việt và đầy đủ sức mạnh. Con người ấy có thể hoà nhập vũ
trụ, mang kích cỡ lớn. Đó cũng là con người biết kết hợp đạo và đời, nhập thế
tích cực để hành đạo. Ngoài ra, Trần Đình Sử còn phát biểu “Con người
trong văn học cổ điển ưu thế thuộc về tấm lòng, con người của chí khí. Việc tỏ
lòng, tỏ chí khí là nét đặc trưng của họ”[xlii].
Con người trong văn thơ Thiền phái không chỉ mang đặc trưng chung nhất nói trên
mà còn có sự biến chuyển nội tâm, giãi bày tâm sự, nỗi lòng chính mình trước thời
cuộc, với con người thật sâu lắng hay trầm bỗng.
Cắt nghĩa cho sự vận động biến
chuyển những trạng thái tâm hồn con người qua thơ văn Thiền phái với một cảm hứng
thế sự đậm đặc chất trữ tình nhân văn này là do triều Trần có cả quá trình hưng
thịnh khá tiêu biểu trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Đội ngũ
sáng tác không đơn thuần là mẫu người sống thuần túy trong chùa mà những vị vua
về sau trở thành thiền gia, thiền sư lãnh đạo đất nước và Giáo hội rất trải
nghiệm cuộc sống ở hoàng triều, và mang trọng trách lớn với quốc gia xã tắc và
đạo pháp.
Đọc Khóa hư lục của
Trần Thái Tông mới thấu hiểu tấm lòng nhân ái, vị tha, độ lượng với những biến
chuyển của hoàn cảnh, con người cụ thể kể từ khi chấp nhận lời khuyên của Quốc
sư Viên Chứng từ bỏ việc lên núi Yên Tử làm Phật, trở về kinh đô lãnh đạo đất
nước được ghi trong bài tựa Thiền tông chỉ nam. Khi đất nước thanh bình
thì nhà vua lo “làm cán cân cho hậu thế, làm khuôn phép cho tương lai”,
lúc có chiến tranh thì làm tướng đi đánh giặc “xông vào mũi tên làn đạn”,
khi nhàn rỗi thì hội kiến “các bậc kỳ đức để tham thiền học đạo và nghiên
cứu các kinh điển đại giáo”, làm vua nhưng “xem thường vinh hoa phú quý,
có thể từ bỏ ngai vàng không chút luyến tiếc” như Việt sử tiêu án từng
ghi. Có thể nói, những người lãnh đạo quốc gia vào thời Trần luôn đem hết tâm
trí lực để huy động sức mạnh toàn dân, đoàn kết nội bộ hoàng tộc để xây dựng và
bảo vệ đất nước phát triển vững bền. Trần Thánh Tông là mẫu người như thế, ông
là người đứng ra triệu tập hội nghị Diên Hồng, phát động tinh thần "sát
thát" của toàn dân, hai lần trực tiếp tham gia lãnh đạo cuộc kháng
chiến chống quân Nguyên làm nên kỳ tích. Thơ văn ông là tiếng nói chân tình giải
bày nỗi niềm tâm sự trước vận mệnh dân tộc khi nguy nan và tự hào yêu đời khi đất
nước thanh bình.
Đọc bài Tông thân chi
nghĩa luận mới thấy ông là người bộc bạch thấu tình đạt lý khi ông xác định
quyền lợi của cá nhân chính là quyền lợi hoàng tộc, của dân tộc “… Tuy ngoại
dĩ thiên hạ phụng nhất nhân chi tôn, nhi nội tắc dữ khanh đẳng cốt nhục đồng
bào, ưu tắc cộng ưu, lạc tắc cộng lạc. Khanh đẳng đương dĩ thử ngữ truyền chi tử
tôn, sử cửu vật vong, tắc tông xã vạn niên chi phúc dã”[xliii] (…
Tuy bề ngoài là cả thiên hạ phụng sự một người tôn quý, nhưng bên trong thì ta
cùng các khanh là đồng bào ruột thịt, lo thì cùng lo, vui thì cùng vui. Các
khanh nên đem mấy lời này mà truyền cho con cháu, để nhớ mãi đừng quên. Ấy là
phúc muôn đời của tông miếu xã tắc vậy” [xliv].
Tâm trạng hào hứng phấn khởi
của các nhà thơ Thiền phái còn được thể hiện qua nhiều bài thơ ngợi ca hào khí
dân tộc, sức mạnh và tinh thần quân dân Đại Việt trong những chiến công hào
hùng làm nên lịch sử. Nếu Phạm Ngũ Lão trong bài Thuật hoài với cảm
xúc mãnh liệt tạo ra hình ảnh người chiến sĩ hiên ngang“Hoành sóc giang sơn cáp
kỷ thu"[xlv] (Múa giáo non sông trải mấy
thâu) thì Trần Nhân Tông đã hứng khởi về khí hào hùng của quân dân “Xã
tắc lưỡng hồi lao thạch mã, Sơn hà thiên cổ điện kim âu” (Xã tắc hai phen
chồn ngựa đá, Non sông nghìn thuở vững âu vàng)[xlvi] trong
bài Tức sự. Đó chính nguồn cảm hứng dâng trào được thể hiện qua những
vần thơ xúc cảm về chiến thắng vinh quang của dân tộc ngày xưa vẫn còn đó“Bạch
đầu quân sĩ tại, Vãng vãng thuyết Nguyên Phong”[xlvii] (Người
lính già đầu bạc còn đến ngày nay, Thường kể lại chuyện đời Nguyên Phong) (Xuân
nhật yết Chiêu Lăng)[xlviii].
Rõ ràng, nhà thơ hòa nhập
tâm hồn của mình vào trong tâm thức thời đại đang vươn tới. Tâm điểm chính vẫn
là hình ảnh đất nước, dân tộc, thời đại được thi hứng qua những xúc cảm nhân
văn trữ tình, sâu lắng, ngời khí hùng ca. Nếu có đề cập một người thì người đó
cũng là mẫu người khác thường, có thể đại diện cho tinh thần dân tộc. Bài Tán
Tuệ Trung Thượng sĩ của Trần Nhân Tông là một thí dụ điển hình “Vọng
chi di cao, Toàn chi di kiên. Hốt nhiên tại hậu, Chiêm chi tại tiền. Phu
thị chi vị, Thượng sĩ chi Thiền.” (Càng nhìn càng cao, Càng
khoan càng bền. Chợt phía sau đó, Ngắm, phía trước liền. Cái này tên
gọi, Là Thượng sĩ Thiền)[xlix]. Ngay cả khi Tuệ
Trung tán thán đạo phong của Thánh Tông trong bài Tụng Thánh Tông đạo học[l], Pháp Loa ở bài Tán Tuệ Trung Thượng sĩ[li] ca ngợi Thượng sĩ là bậc biểu tượng của nhân
cách lớn, được tôi luyện trong ý chí và sức mạnh, phong thái con người Đại Việt
cũng không ngoài cảm thức, hứng khởi của thời đại Lý - Trần.
Sống trong thế giới thanh
bình của một đất nước độc lập, Huyền Quang cũng thường bộc lộ những cảm xúc của
mình trước cảnh vật, không gian bao la, tâm thế của con người trải nghiệm,
nhưng sâu lắng hơn trước biến chuyển của thời thế. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội,
thời đại trở thành nhân tố chi phối cảm hứng của nhà thơ. Cảnh mà Huyền Quang
miêu tả thường là cảnh chùa và am trên cao, hay là cảnh chiếc thuyền con lênh
đênh trên sông rộng, đúng như lời nhận xét của Lê Quý Đôn khen ông là “ý
tinh tế cao siêu”, còn Phan Huy Chú thì ca ngợi “lời bay bướm, phóng
khoáng.”. Sự vui vẻ với tâm hồn giản dị của mình mà sư cho là vụng dại không
mưu chước, dùng cái gậy khẳng khiu đỡ lấy thân già, cùng làm bạn chim muông ở rừng
trúc“Bão chuyết vô dư sách, Phù suy hữu sấu đằng. Trúc Lâm đa túc điểu, Quá bán
bạn nhìn tăng.” (Yên Tử am sơn tăng)[lii]. Và lòng sư
biết rõ: “Lòng thiền vằng vặc trăng soi rọi, Thế sự hiu hiu gió thổi qua.” (Vịnh
Vân Yên Tử phú)[liii].
Bên cạnh những cảm xúc hướng
đến cái chung của dân tộc, thời đại, con người trước vận hội mới của đất nước của
các nhà thơ - văn Thiền phái, vẫn có những bài văn, bài thơ bộc lộ những tâm trạng,
nỗi lòng lo lắng của cá nhân trước thời cuộc, trước những con người đang sống
trong sự ham muốn cá nhân chi phối. Là một ông vua sống trong hoàng triều, Trần
Thái Tông hiểu rất rõ con người dễ dàng bị cám dỗ bởi danh vọng, tiền bạc, sắc
đẹp làm tha hóa nhân cách. Mỗi cá nhân sai phạm ít nhiều tác động đến tự thân
và mọi người xung quanh, huống chi cá nhân đó lãnh đạo cả tập thể, một cộng đồng
thì sức ảnh hưởng càng lớn, có khi dẫn đến mất nước nhà tan. Ông viết ra Lục
thời sám hối khoa nghi để thẳng thắn nhìn nhận sự thật các vấn đề ham muốn
cá nhân, dẫn đến tham nhũng tài sản của cộng đồng hết sức nhạy cảm và tinh tế.
Nó còn có ý nghĩa nữa là đề ra biện pháp sửa chữa sai lầm của từng cá nhân sai
phạm, nhằm tác động đến các tầng lớp lãnh đạo và cả đại chúng nhân dân. Ông trở
thành “nhà thơ sám hối” vì đã “sáng tạo ra loại hình thơ sám hối
độc đáo trong thơ Thiền”[liv] để cất lên tiếng nói
sự thật của mỗi con người trước hiện thực xã hội.
Rõ ràng, các nhà thơ văn Thiền
phái rất nặng tình người với những nỗi ưu lo thế sự. Một người như Tuệ Trung
cũng cảm thấy mệt mỏi, lo lắng bởi: “Tằng vi vật dục dịch lao khu, Bãi lạc
trần hiêu thế ngoại du.” (Xuất trần) (Từng bị vật dục sai khiến làm mệt mỏi
thân xác, Mong thoát khỏi bụi trần ồn ào mà rong chơi ngoài cõi thế)[lv]; Thánh Tông thì thương tiếc đến quặn lòng cho một bề
tôi của nhà Nam Tống ra đi mãi mãi“Thống khóc Giang Nam lão cự khanh.” (Vãn Trần
Trọng Hưng) (Đau đớn khóc người bề tôi giỏi kỳ cựu của đất Giang Nam)[lvi]; Trần Nhân Tông từng chia sẻ cõi lòng mình với người
khuê phụ qua hình ảnh “Hoàng ly bất ngữ oán Đông phong[lvii] (Chim
oanh vàng bặt tiếng, oán gió Đông)[lviii]; Huyền Quang
thương cảm cho những tù nhân bị áp giải vào lao ngục khổ cực. Ông chích máu
biên thư tỏ bày tâm sự với kẻ tù tội. Trong bàiAi phù lỗ, ông đã bày tỏ
cõi lòng của mình thật ngậm ngùi, xúc động: “Khóa huyết thư thành dục ký
âm, Cô phi hàn nhạn tái vân thâm. Kỷ gia sầu đối kim tiêu nguyệt, Lưỡng xứ mang
nhiên nhất chủng tâm”[lix] (Chích máu thành thư muốn
gửi lời, Lẻ loi nhạn lạnh, ải mù khơi. Đêm nay mấy kẻ sầu trăng nhỉ? Xa
cách, nhưng lòng chỉ một thôi)[lx].
Một trái tim và khối óc như
thế đã tạo dòng cảm hứng thế sự trong thơ Huyền Quang được bộc lộ lần lượt qua
thể thơ, tứ thơ xuyên suốt cả cuộc đời ông. Ngay khi được tôn vinh làm Tổ thứ
ba của Thiền phái, lòng ông bao giờ cũng canh cánh nỗi lo cho đời, cho đạo. Ông
tiếc cảnh xuân không có chủ, thơ không có nguồn thơ và buồn khi thấy mấy cây
hoa buồn bã trước gió xuân “Xuân vô chủ tích thi vô liệu, Sầu tuyệt Đông
phong kỷ thụ hoa” (Thứ Bảo Khanh tự bích gian đề)[lxi],
để rồi phải mượn tứ xuân an ủi ông già ốm yếu“Nguyệt tá xuân tư ủy bệnh ông.” (Mai
hoa)[lxii]; và ông cũng cảm thấy trách nhiệm của mình
quá lớn mà tự nhận tài đức của mình quá mỏng, thẹn thùng với “Đức bạc thường
tàm kế Tổ đăng”[lxiii] khi phải đứng ra lãnh đạo
Giáo hội Tăng già. Chính điều đó khiến ông quyết tâm làm hóa hiện cảnh Phật ở
Yên Tử mà chẳng “Ngại chi non nước cảnh đường xa”[lxiv].
Cuộc sống có rất nhiều biến
động và chính trong sự biến động đó, người dân Đại Việt bằng tấm lòng yêu nước
đã làm nên những kỳ tích lịch sử hào hùng cho cả dân tộc. Tại đây, con người biết
đón nhận niềm hạnh phúc cũng như biết chia sẻ nỗi đau mà yêu thương nhau nhiều
hơn để cống hiến cho đời, cho đạo tươi sáng. Tất cả đã tạo nên những cảm hứng đầy
nhân văn thế sự trữ tình trong thơ văn Thiền phái Trúc Lâm mà mỗi khi ai đọc
chúng cũng thấy đây chính là tiếng nói đích thực của con người luôn khát vọng
vươn tới hạnh phúc an lạc.
2. Cảm hứng quê hương đất nước
- Quê hương Thiền tông
Quê hương bao giờ cũng là suối
nguồn thơ văn cho những ai cầm bút sáng tác. Đọc thơ văn của Thiền phái Trúc
Lâm, ta thấy cảm hứng về quê hương đất nước được khắc họa rõ nét qua những hình
ảnh thân thương của cung điện, đình làng, mái nhà, đồng ruộng, cỏ cây hoa lá,
tiếng chuông chùa, dòng sông, bến nước, tiếng sáo của mục đồng,… nơi ấy từng
lưu dấu biết bao kỷ niệm, hoài niệm của mỗi người trước biến động thăng trầm của
lịch sử, cuộc đời.
Cũng chính từ mảnh đất quê
hương đất nước mà con người luôn thực thi cuộc hành trình tìm về miền đất thanh
tịnh giải thoát của mỗi người để an trú. Miền đất an lạc đó không ở đâu xa mà
ngay trong thực tại đời thường. Nó khơi nguồn cảm hứng cho các thiền gia Thiền
phái viết về “Quê hương Thiền tông” luôn mang hơi thở và sự sống của “hồn
thiêng đất nước”.
Cảm hứng quê hương đất nước được
các tác giả Thiền phái ghi lại thành nhiều bài thơ hay, tứ thơ bay bổng với
hình ảnh tâm thế của Đại Việt trong thời đại Đông A hào hùng. Điều này chứng tỏ,
hễ ai sống với quê hương đất nước là sống với mảnh đất thân yêu, nơi sinh ra những
con người chung lòng bảo vệ Tổ quốc non sông, quét sạch quân thù, xây dựng
giang sơn ngày một huy hoàng hơn. Lịch sử như là một trình tự của dòng mạch chảy
trong suối nguồn thơ văn dân tộc, đọc toàn bộ tác phẩm văn học của Thiền phái,
hẳn thấy quê hương đất nước thay đổi qua từng thời nhà Trần trị vì.
Với những kỳ tích làm nên lịch
sử, tâm hồn các nhà thơ Thiền phái mở rộng, giao cảm với đất trời trên mảnh đất
quê hương. Hình ảnh non sông đất nước tươi đẹp cứ đi vào thơ ca theo cảm quan
riêng từng người, nhưng cùng chung một cảm hứng là giãi bày tấm lòng vui sướng
trước hiện thực cuộc sống đầm ấm đang xảy ra. Điều đáng nói, là các thi sĩ đều
xuất thân từ tầng lớp quý tộc, phần lớn thời gian là sống trong vương triều, thế
mà họ vẫn hòa điệu với đời sống dân dã, mảnh đất đã nuôi dưỡng họ nên người và
làm nên kỳ tích. Trong một lần đến phủ An Bang, Trần Thánh Tông thích thú được
sống phong cảnh hữu tình để sớm chơi núi mây nổi, đêm nghỉ bến trăng thanh. Điều
đáng nói là tứ thơ theo đó mà tuôn trào “Hốt nhiên đắc giai thú, Vạn tượng
sinh hào đoan”. (Bỗng dưng được thú lạ, Ngọn bút nảy muôn hình)[lxv]. Vì thế, hồn quê đất thiêng có lúc được sống động
hơn, không gian không còn bao la mà dường như thu hẹp lại bên cạnh thời gian hữu
hạn, tâm thức con người suy tư, tự nhìn lại chính mình. Ta có thể bắt gặp cảnh
vật con người ấy trong Cung viên xuân nhật ức cựu: “Vạn tử thiên hồng
không lạn mạn; Xuân hoa như hứa vị thùy khai” (Đầy vườn rực rỡ hồng chèn
tía; Hoa khéo vì ai vẫn nở nhiều)[lxvi], là cảnh mùa hạ
với sen nở ngát lòng thoảng qua song bắc “Hà hoa xuy khởi bắc song lương” với
tiếng ve kêu rộn ràng khi trời xế chiều “Tam lưỡng thiền thanh náo tịch
dương”[lxvii], là hình ảnh “Điểu tán lạc sơn hoa” (Chim
bay tan tác rụng hoa ngàn) trong Đề Huyền Thiên động[lxviii], hay cảnh quan trở nên thơ hơn “Vạn điệp bạch
vân già cố trạch” (Mây trắng muôn trùng mái cũ bao)[lxix], là
nước mùa thu lồng trời thu thật hữu tình không gì đẹp hơn “Thủy hữu thu
hàm mùa thu”[lxx].
Quê hương đất nước trong thi
ca Tuệ Trung thì càng gần gũi với nếp sống người dân hơn nữa. Vẫn nhà tranh
vách lá, cửa liếp nhưng ấm áp tình quê bên bếp lửa hồng với bữa ăn dây leo và
loài chuột, lòng người thanh thản không thị phi gì cả, thật là “Tự tại” thân
tâm như tên gọi bài thơ: “Sài môn mao ốc cư tiêu sái; Vô thị vô phi tự tại
tâm”[lxxi] (Nhà tranh cửa liếp phong quang chán;
Phải trái đều không, tự tại tâm)[lxxii]. Và như thế,
quê hương đất nước trở thành dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm thức con người lớn
lên, trưởng thành để cất bước chân đi vào hiện thực cuộc đời mà đóng góp cho xứ
sở thân yêu của mình ngày mỗi xanh tươi, trù phú.
Ta còn bắt gặp hình ảnh quê
hương đất nước trong tiếng thơ của Trần Nhân Tông. Ở đó, mái chùa, tiếng chuông
vang vọng cùng với tiếng kinh cầu bên mái chùa, bến nước, gốc đa, mục đồng thổi
sáo,… tất cả đều được cô đúc thành những vần thơ đẹp để phô diễn thế giới
thực tại hồn thiêng sông nước thanh bình của người nông dân áo vải, mùi thơm của
đất, trong xanh của trời, sự trong sáng của cõi tâm. Ngắm nhìn cảnh trí mùa
xuân, Trần Nhân Tông viết Xuân cảnh: “Dương liễu hoa thâm điểu ngự
trì, Hoa đường thiêm cảnh mộ vân phi. Khách lai bất vấn nhân gian sự, Chỉ bạng
lan can khán thụy vi” (Chim nhẩn nha kêu, liễu trổ đầy,Thềm hoa chiều rợp bóng
mây bay. Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân thế, Cùng tựa lan can nhìn
núi mây)[lxxiii].
Rõ ràng, Trúc Lâm nhìn cảnh
xuân thấy hoa nở, nghe tiếng chim kêu trước thềm hoa, bóng rợp mây bay với nỗi
lòng hướng nghĩ hồn quê thân thiết. Trong cái khoảnh khắc sâu lắng và ngập tràn
cảm xúc thiết tha, bao nhiêu chuyện đời rơi rụng hết, chủ khách chỉ im lặng thấy
rõ chân lý của cuộc đời. Chỉ bốn câu thơ thôi, cảnh xuân của quê hương đất nước
đưa người ta bước vào thế giới tịch lặng, thấu rõ cửa không. Nhà sư nói đạo mà
không dùng danh từ thiền đạo cả, đấy là đặc tài của thiền sư - thi sĩ.
Tiếng thơ của Trúc Lâm còn
vang lên từ tiếng chuông chùa cổ trên châu Lạng, giữa cảnh sương thu lá đỏ ráng
đỏ buổi chiều. Cảnh thật bình yên khiến lòng người cũng cô tỉnh để ngắm nhìn trần
thế trong sự chuyển hóa con người. Ai đó đọc bài Lạng châu vãn cảnh thì
thấy đây là tiếng chuông hay tiếng thu, có khi là tiếng lòng của ngư thuyền mà
ta luôn chiêm nghiệm và thể nhập với đời “Cô tự thê lương thu ái ngại; Ngư
thuyền tiêu sắc mộ chung sơ. Thủy minh, sơn tĩnh bạch âu quá; Phong tịnh,
vân nhàn, hồng thụ sơ” (Chùa cổ đìu hiu, cách khói thu; Chuông chiều gióng giả,
quạnh thuyền câu. Mây trăng, gió lặng, thưa cây đỏ; Nước sáng, non yên, trắng
bóng âu)[lxxiv].
Và không đâu đẹp bằng chính
mảnh đất thiêng liêng quê hương đất nước của mình. Theo tôi Thiên Trường
vãn vọng là bài thơ tuyệt tác trong thơ cổ Việt Nam gợi mở một thế giới
thanh bình của hồn quê sông núi nước nhà. Với tâm thế trên cao của người dân sống
trong một nước độc lập tự chủ, Trần Nhân Tông đứng ở phủ Thiên Trường nhìn ra
ruộng đồng bát ngát, xóm thôn trù phú, nghe được tiếng sáo mục đồng dắt trâu về
ngang qua cánh cò trắng từng đôi liệng xuống đồng, thật đẹp làm sao! Trong cõi
hư không vẫn mang bóng dáng chân thực của đời thường, đúng là thi trung hữu họa,
giữa cái hư gắn liền cái thực, giữa cõi tịch mà hóa thành cõi động của cuộc sống
vốn luôn vận hành:
“Thôn hậu thôn tiền đạm tự
yên,
Bán vô bán hữu tịch dương
biên.
Mục đồng địch lý quy ngưu tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền.”[lxxv]
(Trước xóm sau thôn tựa khói
lồng,
Bóng chiều dường có lại dường
không.
Mục đồng sáo vẳng, trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống
đồng.)[lxxvi]
Nét đẹp của quê hương xứ sở,
mảnh đất tình người còn xuất hiện ở nhiều bài thơ khác nữa: Xuân hiểu, Nhị
nguyệt thập nhất dạ, Động thiên hồ thượng, Vũ Lâm thu vân, Nguyệt, Thiên Trường
phủ… với nhiều tứ thơ lạ, xúc cảm dạt dào. Ngay cả những thi kệ trong các
cuộc đại tham của Trúc Lâm cũng cất lên tiếng thơ mang âm hưởng mô tả không
gian đất nước, sông núi, ruộng vườn, chùa chiền, thôn xóm… Cứ đọc thi ca văn
chương của các thi nhân Thiền phái thì sẽ thấy hồn dân tộc còn vọng, mà hồn dân
tộc còn là đất nước phát triển vững bền.
Không ai khác hơn, Pháp Loa
cũng khát khao mong chờ quê hương đất nước được trải rộng sông dài, trời cao biển
rộng, càng nhìn cảm nhận càng xa, bước vào mới thấy trập trùng mà bài Nhập
tục luyến thanhsơn mô tả “Sơ cấu cùng thu thủy; Sàm nhan lạc chiếu
trung. Ngang đầu khan bất tận; Lại lộ hựu trung trùng”[lxxvii]. (Dòng
thu in bóng núi; Chót vót dưới chiều tà. Ngước mặt nhìn vời vợi. Đường
vào trập trùng xa)[lxxviii]. Có lẽ đây là đường bước
vào Yên Tử hùng vĩ, nơi sản sinh ra những con người tuỳ duyên lạc đạo, thiết
tha xây dựng quê hương mà Huyền Quang khắc họa trong Vịnh Vân Yên tự phú: “Đất
tựa vàng liền; Cảnh bằng ngọc đúc. Mây năm thức che phủ đền Ngưu; Núi nghìn tầng
quanh co đường Thục. La đá tầng thang dốc, một hòn ướm vịnh một hòn; Nước suối
chảy làn sâu, đòi khúc những dò đòi khúc”[lxxix].
Đúng là cảnh và người thật
bình an, hòa điệu với cuộc sống. Người ta cứ thế mà ngủ thật ngon giữa buổi
trưa Ngọ thụy[lxxx] và Trú miên[lxxxi], chú tiểu bên lò sưởi hỏi nghĩa trang kinh, thầy
thổi sáo mặc cho ai cười chê qua bài Địa lô tức sự: “Ổi dư cốt đột
tuyệt phần hương; Khẩu đáp sơn đồng vấn đoản chương. Thủ bả suy thương hòa thái
thác; Đồ giao nhân tiếu lão tăng mang”[lxxxii] (Củi
đã tàn, cũng chẳng thắp hương; Miệng đáp gia đồng hỏi mấy chương. Bận bịu cho
ai cười chế lão; Liền tay ống thổi vời mo mang)[lxxxiii]. Ngòi
bút của Huyền Quang với quê hương đất nước thật đa dạng lúc thì thanh thản, lúc
thì bộc lộ tâm trạng qua nhiều cung bậc khác nhau giữa dòng đời qua bài Phiếm
chu[lxxxiv] và Chu trung[lxxxv],
lắm lúc tự độc thoại một mình trong chùm thơ Hoa cúc để cảm nhận về
quê hương và cuộc đời.
Nhìn chung, quê hương đất nước
qua ngòi bút của các nhà thơ văn Thiền phái Trúc Lâm đã được tả rất chân thực với
hồn quê, nhưng cũng rất huyền diệu lung linh sống động. Ở đó, không gian thật
bao la hùng vĩ, ứng với tâm thế của người dân Đại Việt đang sống độc lập tự chủ
hoàn toàn nhưng lại rất gần gũi quen thuộc với những con người bình dị thanh thản,
giải thoát. Đây cũng chính một trong những nguồn cảm hứng để các tác giả Thiền
phái trước tác.
Bên cạnh cảm hứng quê
hương đất nước là cảm hứng quê hương Thiền tông. Đó là hình ảnh quê
hương tự tính của mỗi người trong cuộc hành trình về miền đất an lạc vĩnh hằng.
Cuộc ra đi của Trần Thái Tông là sự trở về chính nơi mình quyết định từ bỏ khi
ông có ý nguyện rời ngai vàng vào núi Yên Tử làm Phật. Nếu không như thế thì
con người sẽ vô định, không bao giờ tìm được xứ sở quê hương của mình “Vĩnh
vi lãng đãng phong trần khách; Nhật viễn gia hương vạn lý trình”[lxxxvi] (Phong trần thất thểu làm thân khách; Muôn dặm
xa quê cuộc vĩnh trình)[lxxxvii].
Và quê hương vĩnh cửu mà Trần
Thái Tông khát khao hóa hiện được thực thi bằng cả tấm lòng lấy tâm thiên hạ là
làm tâm của mình, lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình dưới tác động của
Quốc sư Phù Vân “Thuỳ tri vân quyển, trường không tịnh; Thúy lộ thiên
biên, nhất dạng sơn”[lxxxviii]. (Ai hay mây cuốn,
trời quang tạnh; Núi hiện chân trời, biếc một màu)[lxxxix].
Ý nguyện đó được Trần Thái Tông thực thi, mở đầu bằng cuộc hành trình trở về
quê hương Thiền tông được trải dài qua hình ảnh Tứ sơn: “Tứ sơn tiểu
bích vạn thanh tùng”[xc] (Bốn núi cheo leo vạn
khóm xanh)[xci], là “Nguyệt lạc trường giang dạ kỷ
canh”[xcii] (Trăng lặn, sông dài đêm mấy canh)[xciii], để rồi hướng tâm an trú ở thế giới thanh bình mà Phổ
khuyến phát Bồ đề tâm văn mô tả “Thanh sơn đề xứ kiến thiên khoát, Hồng
ngẫu khai thời văn thủy hương”[xciv] (Non xanh nơi
thấp trông trời rộng, Sen đỏ mùa hoa nghe nước thơm)[xcv].
Quê hương Thiền tông còn được
các tác giả khắc họa qua những hình ảnh rất quen thuộc, thân thiết với đóa sen
hồng nở ngát dưới ao, trong sắc màu mùa thu tĩnh lặng, như mời gọi con người trở
về với bản lai diện mục của mình. Điều Tuệ Trung muốn nói, hoa sen được sinh ra
và lớn lên trong bùn mà không bị nhiễm bùn. Cũng thế, con người được sinh ra
trong đời, lớn lên trong đời mà không bị nhiễm ô ở đời. Đây chính là quê hương
đích thực của mỗi người, chứ không ở đâu cả mà ý tứ bài Thị chúng muốn
giải trình “Thu quang hắc bạch tùy duyên sắc, Liên nhị hồng hương bất trước
nê. Diệu khúc bản lai tu cử xướng, Mạc tầm nam bắcdữ đông tê (tây)” (Thu trong,
biếc hẳn tùy duyên sắc, Sen ngát, hồng đâu bởi nước ao. Khúc điệu “gốc nguồn”
xin cứ há, Bốn phương thôi chờ hỏi nơi nao)[xcvi]…
Đó cũng là mảnh đất tâm linh
thường được các thiền sư mời gọi các hành giả trở về từ lâu lắm rồi. Ngày xưa
Phật từng đón nhận Thiện Tài Đồng Tử trở về ngôi nhà Bồ đề tâm, sau
chuyến hành trình trải qua 53 cảnh giới được mô tả trong kinh Hoa Nghiêm. Tiếp
nối truyền thống này, các thiền gia - thi sĩ của Thiền phái cất bước quay về
trú xứ quê hương thanh tịnh giữa cuộc đời đầy biến động. Ta có thể thấy rõ hình
ảnh "về nhà" trong tứ thơ đầy tính thẩm mỹ nghệ thuật, kết cấu
chặt chẽ, súc tích, lời thơ, từ ngữ quen thuộc như“gia hương đáo” (về quê nhà),
“cố hương quy” (về quê cũ)… Đây là hình ảnh khá ấn tượng trong thơ thiền của
Thiền phái, nó minh chứng khả năng tiếp biến và sáng tạo của các nhà sáng tác
thi ca Thiền phái về hình ảnh mô tả “quê hương Thiền tông” thật gần gũi với tâm
thức người dân Việt Nam. Trần Thái Tông viết:
“Bạch ngọc nguyên lai một phủ
ngân,
Hà tu trùy trác khổ cầu tân.
Đồ trình bất thiệp gia hương
đáo,
Phó giữ huyền nhai tán thủ
nhân.”[xcvii]
(Ngọc trắng nguyên xưa không
vết búa,
Cần gì gia công mài với dũa.
Đường đi không bước vẫn về
nhà,
Mặc kệ trên non, vách dựng
ngửa.)[xcviii]
Ngọc trắng vốn sáng trong, đẹp
đẽ vô cùng. Cũng vậy tâm tính con người xưa nay cũng thế. Con đường trở về quê
hương Thiền tông là con đường trở tìm lại bản tâm trong sáng của mình. Nơi đó
chính là điểm đến “gia hương đáo”. Chỉ khi nào con người lang thang trên
vạn nẻo đường của ý thì trở thành kẻ lưu lạc ở chốn “khách trần”, không nơi
nương tựa. Hay hơn nữa là hình ảnh “hoàn gia” (trở về mái nhà xưa)
sau bao năm tháng làm khách “phong trần”. Thực chất đó cuộc hành trình trở về cội
nguồn “bản lai diện mục” xưa nay vốn có của mình. Tại đây, con người
an trú trong tự tính chân như “Đàn chỉ Đài Sơn tuyệt thị ngoa, Bất lao tiến
bộ đắc hoàn gia)[xcix] (Một phút Đài Sơn chuyện
nói ngoa, Chẳng cần mệt bước vẫn về nhà)[c]. Và hình ảnh
để lại dấu ấn tâm linh đẹp đẽ và quen thuộc nhất trong tâm thức người dân Việt
Nam nhất là “Nhất khúc vô sinh xướng liễu, Đảm hoành tất lật cố hương quy”[ci] (Vừa lúc “vô sinh” dứt khúc ca, Thì cầm ngang ống
sáo lại quê nhà)[cii].
Có gì thích thú hơn bằng trở
chốn làng xưa, nơi quê nhà có thuở còn thơ từng làm mục đồng chăn trâu, thổi
khúc nhạc “vô sinh” đồng xanh hồn nhiên. Trong cái thế giới đầy biến
động của sắc trần đầy cạm bẫy, chỉ có những giây phút buông xả hết mọi ham muốn,
tâm tư tĩnh lặng của đồng quê xứ sở, con người mới thật sự sống với hạnh phúc của
chính lòng mình.
Rõ ràng, việc tiếp cận các
phẩm văn học Thiền phái Trúc Lâm là tiếp cận nền học thuật đỉnh cao Phật giáo
thời Lý - Trần nói riêng, sự tiếp nối đó hòa nhập vào dòng chủ lưu yêu nước và
nhân văn của văn học trung đại Việt Nam trong lịch sử xây dựng và bảo vệ những
thành quả của đất nước đạt được. Ở đây, các giá trị tư tưởng triết lý thiền học,
văn học của Thiền phái được hiển bày qua từng tác phẩm cụ thể. Chính những giá
trị tư tưởng này tạo ra bản sắc riêng biệt của Thiền phái từ trong triết lý
hành động cho đến tinh thần thể nhập vào đời sống hiện thực. Đây cũng chính là
nguồn cảm hứng vô tận để làm nên các tác phẩm có giá trị tư tưởng thẩm mỹ văn học.
Ở đó, lòng yêu nước thương dân được thể hiện để tạo ra những kỳ tích hào hùng
cho đất nước, trong đó có những con người làm nên lịch sử dân tộc, biết chia sẻ
những nỗi đau và niềm vui với tấm lòng cao cả đầy tình người được hóa hiện bằng
nguồn cảm hứng nhân văn, thế sự trữ tình. Chính từ mảnh đất xứ sở đầy tình người
này, cảm hứng về quê hương đất nước, được các Thiền gia khắc họa chân dung bức
tranh đất nước Đại Việt với những đường nét chấm phá khá sắc sảo, nhưng cũng đủ
gợi cho ta cái nhìn tổng thể về quê hương nước nhà. Từ điểm nhìn sâu lắng về
quê hương hiện thực, nó lại khơi nguồn cảm hứng cho họ tìm thấy hình ảnh quê
hương Thiền tông vĩnh cửu của mình. Tất cả đã tạo nên các giá trị đặc trưng tư
tưởng văn học của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần mà chúng ta đã tìm hiểu.
[i] Xem Thích Phước Đạt: Cảm
hứng Bản thể giải thoát và cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu trong tác phẩm
thi ca Hán Nôm của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần, Tạp chí Hán Nôm số
4 (89) - 2008, tr.3-13.
[ii] Viện
Văn học, Thơ văn Lý - Trần, tập 1, Nxb. KHXH, H. 1977, tr.37-43.
[iii] Nguyễn
Đình Chú: Dạy sách giáo khoa thí điểm trung học chuyên ban Lớp 10 môn Văn. Phần Văn
học Việt Nam từ thế kỷ X đến tháng 8- 1945, Tài liệu bồi dưỡng giáo viên, Vụ
Giáo viên, H. 1994, tr.24.
[iv] Viện
Văn học: Thơ văn Lý - Trần, tập 2, Q. Thượng, Nxb. KHXH, H.
1989, tr.54.
[v] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.55.
[vi] Phùng
Quý Nhâm: Tinh thần phân tích tâm linh, một đặc trưng của chủ
nghĩa hiện thực, Tạp chí Văn học, số 4/1998, tr.38.
[vii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.403.
[viii] Viện
Văn học Sđd, tập 2, tr.403.
[ix] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.461.
[x] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.462.
[xi] Viện
Văn học Sđd, tập 2, tr.42 - 44.
[xii] Viện
Văn học, Sđd,, tập 2, tr.470.
[xiii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.471.
[xiv] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.688.
[xv] Viện
Văn học, Sđd tập 2, tr.689.
[xvi] Viện
Văn học, Sđd,tập 2, tr.691.
[xvii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.691.
[xviii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.692.
[xix] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.693.
[xx] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.235.
[xxi] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.244.
[xxii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.254.
[xxiii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.469.
[xxiv] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.469.
[xxvi] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.476.
[xxvii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.694.
[xxviii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.684.
[xxix] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.685.
[xxx] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.468.
[xxxi] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.682.
[xxxii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.683.
[xxxiii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.692.
[xxxiv] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.700.
[xxxv] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.701.
[xxxvi] Viện
Văn học, Sđd, tập 1, tr.216.
[xxxvii] Viện
Văn học, Sđd, tập 1, tr.216.
[xxxviii] Viện
Văn học, Sđd, tập 1, tr.229.
[xxxix] Viện
Văn học, Sđd, tập 1, tr.433.
[xl] Viện
Văn học, Sđd, tập 1, tr.398.
[xli] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.405.
[xlii] Chang
Chen Chi: Thiền đạo tu tập, Như Hạnh dịch, Nxb. Kinh Thi, Sài Gòn,
1972.
[xliii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.418.
[xliv] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.419.
[xlv] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.562.
[xlvi] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.483.
[xlvii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.452.
[xlviii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.453.
[xlix] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.485.
[l] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.254.
[li] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.649.
[lii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.683.
[liii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.712.
[liv] Nguyễn
Phạm Hùng: Trên hành trình văn học trung đại, Nxb. ĐHQG HN, H. 2001,
tr.311.
[lv] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.235.
[lvi] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.411.
[lvii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.461.
[lviii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.462.
[lix] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.692.
[lx] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.693.
[lxi] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.686.
[lxii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.690.
[lxiii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.688.
[lxiv] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.712.
[lxv] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.400.
[lxvi] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.403.
[lxvii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.404.
[lxviii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.401.
[lxix] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.411.
[lxx] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.411.
[lxxi] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.241.
[lxxii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.242.
[lxxiii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.460.
[lxxiv] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.468.
[lxxv] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.464.
[lxxvi] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.465.
[lxxvii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.646.
[lxxviii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr 647.
[lxxix] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.710.
[lxxx] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.682.
[lxxxi] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.691.
[lxxxii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.687.
[lxxxiii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.688.
[lxxxiv] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.694.
[lxxxv] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.684.
[lxxxvi] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.42.
[lxxxvii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.45.
[lxxxviii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.54.
[lxxxix] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.56.
[xc] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.42.
[xci] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.45.
[xcii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.44.
[xciii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.48.
[xciv] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.63.
[xcv] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.65.
[xcvi] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.265.
[xcvii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.127.
[xcviii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.142.
[xcix] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.128.
[c] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.142.
[ci] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.230.
[cii] Viện
Văn học, Sđd, tập 2, tr.231.
Phước Đạt
Nguồn Tạp chí Hán Nôm, Số 5(96)
2009
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét