Là hiện tượng
nghệ thuật điển hình, gương mặt tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới, người đã
mang đến cho thi đàn dân tộc những năm ba mươi thế kỷ XX một nguồn cảm hứng yêu
đời dào dạt, một luồng rung động mới mẻ trước tình yêu, một cái tôi giàu bản sắc
và một nhịp sống hoàn toàn khác lạ, Xuân Diệu “say đắm cảnh trời” như thể “say
đắm tình yêu”.
Bốn mùa xuân,
hạ, thu, đông là những quý ngữ và là đề tài muôn thuở của thơ. Cỏ
cây hoa lá, sông nước sao trời… là đối tượng vĩnh hằng để ký thác tâm tư, là
người bạn tâm giao, là nguồn cảm hứng bất tận của muôn đời thi sĩ. Song, cùng đứng
trước khách thể thẩm mỹ là thiên nhiên ấy, mỗi trào lưu, khuynh hướng nghệ thuật
sẽ có những cách thức cảm nhận khác nhau. Về lý thuyết, một “cái biểu đạt” có
thể mở ra vô vàn “cái được biểu đạt” và ngược lại. Với thơ cổ điển, đó là sự hiện
hữu của các môtíp “phong, vân, tuyết, nguyệt”, “mai, lan, cúc, trúc”…, những biểu
tượng mang tính ước lệ của thi pháp trung đại. Sang phạm trù Thơ mới, vượt qua
lối thác ngụ “thi dĩ ngôn chí” và tư thế trữ tình trang trọng với những “vọng”,
“đăng”, “hoài”, “cảm”… của hệ hình truyền thống, đến với thiên nhiên, các nhà
thơ đã tạo nên những bức tranh thơ sống động, hữu tình và đặc biệt là mang đậm
màu sắc cá thể hoá. Mỗi bài thơ là một hoạ đồ nhiều màu gợi cảm, đồng thời cũng
chính là thế giới tâm hồn riêng thể hiện khả năng cảm thụ, đồng hoá và tái hiện
của từng nhà thơ (Tiếng trúc tuyệt vời, Tiếng sáo thiên thai – Thế Lữ; Mùa
xuân chín, Tình quê – Hàn Mặc Tử; Tràng giang, Thu rừng – Huy Cận; Xuân
về, Mùa xuân xanh – Nguyễn Bính v.v…)
Là hiện tượng
nghệ thuật điển hình, gương mặt tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới, người đã
mang đến cho thi đàn dân tộc những năm ba mươi thế kỷ XX một nguồn cảm hứng yêu
đời dào dạt, một luồng rung động mới mẻ trước tình yêu, một cái tôi giàu bản sắc
và một nhịp sống hoàn toàn khác lạ, Xuân Diệu “say đắm cảnh trời” như thể “say
đắm tình yêu”. Tâm hồn đa cảm, mộng mơ của ông luôn đắm đuối, chan hoà giữa
thiên nhiên tạo vật để tìm kiếm hương nhụy và thanh sắc trần gian: Đi giữa
thiên nhiên để kiếm mình... Tiếng thơ đầu tiên của Xuân Diệu được cất lên từ luồng
sáng và âm thanh huyền diệu của một đêm trăng: Một tối bầu trời đắm sắc
mây/ Cây tìm nghiêng xuống nhánh hoa gầy/ Hoa nghiêng xuống cỏ, trong khi cỏ/
Nghiêng xuống làn rêu. Một tối đầy/ Những lời huyền bí toả lên trăng/ Những ý
bao la rủ xuống trần…(Với bàn tay ấy). Hai bài thơ vào tập của Thơ thơ và Gửi
hương cho gió đều bắt nguồn từ cảm hứng thiên nhiên: Là thi sĩ nghĩa
là ru với gió/ Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây…/ Không có cánh nhưng vẫn thèm
bay bổng/ Đi trong sân mà nhớ chuyện trên trời/ Trút ngàn năm trong một phút
chơi vơi/ Ngắm phong cảnh giữa hai bờ lá cỏ… (Cảm xúc) và: Tôi
là con chim đến từ núi lạ/ Ngửa cổ hát chơi … Tiếng to nhỏ chẳng xui chùm trái
chín/ Khúc huy hoàng không giúp nở bông hoa…(Lời thơ vào tập Gửi hương). Nhiều
bài thơ viết về thiên nhiên của Xuân Diệu hay vào hạng nhất nhì của Thơ mới (Nụ
cười xuân, Hè, Đây mùa thu tới, Buồn trăng, Nguyệt cầm, Thu, Hoa đêm…). Những
câu thơ viết về trăng, hoa, hương, gió, nắng, sương cũng độc đáo vào loại bậc
nhất của Thơ mới: Huy hoàng trăng rộng nguy nga gió, Sương nương theo
trăng ngừng lưng trời, Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì, Đã nghe rét mướt luồn
trong gió, v.v và v.v. Trên nền cảm hứng chung của cả trào lưu, bằng tài
nghệ, cá tính nghệ thuật riêng, Xuân Diệu đã tạo nên một hệ ký hiệu mùa nhiều sắc
màu và ám gợi. Bởi lòng người có lúc vui, lúc buồn nên cảnh sắc đất trời trong
thơ cũng hiện lên nhiều dáng vẻ. Kết hợp “kinh nghiệm thẩm mỹ” của thi ca truyền
thống với ý thức duy tân mạnh mẽ, bức tranh bốn mùa trong thơ Xuân Diệu vừa
giàu tính hoạ, vừa chứa đựng nhiều cung bậc tâm trạng, có vui, có buồn nhưng
bao giờ cũng đẹp và thơ mộng.
Xuân trước
hết là bức màn thứ nhất trong bộ tứ bình bốn mùa, là khúc dạo đầu của nhịp điệu
thiên nhiên. Đó vừa là không gian, vừa là thời gian để vòng tuần hoàn của sự sống
tồn tại và sinh sôi. Thơ mới là tiếng nói của một thế hệ thi nhân trẻ tuổi và
trẻ lòng. Điều đó cắt nghĩa vì sao các nhà thơ viết nhiều về mùa xuân. Sự đồng
điệu giữa những luồng rung động rạo rực, trẻ trung trong tâm hồn với cảnh sắc đất
trời “Tết đến xuân sang” căng tràn nhựa sống đã thăng hoa thành tiếng thơ. Thế
Lữ viết Hồ xuân và thiếu nữ; Huy Cận - Hồn xuân, Xuân, Xuân
ý; Hàn Mặc Tử - Mùa xuân chín, Xuân đầu; Nguyễn Bính - Xuân
về, Mùa xuân xanh… Chính sức sống mùa xuân đã làm tươi lại hồn thơ đầy ảo
giác và ấn tượng của Hàn Mặc Tử bằng những hình ảnh vừa thực vừa gợi cảm: Trong
làn nắng ửng khói mơ tan/ Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng/ Sột soạt gió trêu tà
áo biếc/ Bên giàn thiên lý bóng xuân sang… Ngay giữa chốn khá “mịt mờ” của
lối thơ “đánh đố” Xuân Thu nhã tập, có lẽ người ta còn nhớ được hai câu
thơ của Nguyễn Xuân Sanh: Lẵng xuân – Bờ giữ. Trái xuân sa/ Đáy đĩa – Mùa
đi. Nhịp hải hà… và cái sắc xuân, tình xuân đã trả lại sức sống và tiết điệu
trẻ trung cho hồn thơ siêu thực Bích Khê: Hỡi lời ca man dại/ Điệu nhạc thở
hơi rừng/ Đêm nay xuân đã lại/ Thuần tuý và tượng trưng… Đặc biệt là Xuân
Diệu, cứ như thể ngẫu nhiên, từ cái tên cho đến cấu trúc tâm hồn đều gợi về sự
kỳ diệu của mùa xuân. Dễ nhận thấy xuân trong thơ Xuân Diệu là một hình tượng
nghệ thuật vừa tả thực, vừa biểu trưng. Ở cấp độ thứ nhất, trong hai tập thơ,
có nhiều bài mô tả trực tiếp phong cảnh mùa xuân như Nụ cười xuân, Xuân đầu,
Xuân rụng… Ở những bài thơ này, Xuân Diệu đã tạo được những bức tranh xuân
tươi tắn màu sắc, rộn rã âm thanh, hài hoà, tình tứ như một nụ cười duyên:
Giữa vườn ánh ỏi
tiếng chim vui
Thiếu nữ nhìn
sương chói mặt trời
Sao buổi đầu
xuân êm ái thế
Cánh hồng kết
những nụ cười tươi
Ánh sáng ôm
trùm những ngọn cao
Cây vàng rung
nắng, lá xôn xao;
Gió thơm phơ
phất bay vô ý
Đem đụng cành
mai sát nhánh đào
(Nụ cười xuân)
Nhưng những bức
tranh thơ kiểu này chiếm tỉ lệ rất ít ỏi trong thơ Xuân Diệu bởi nó không tiêu
biểu cho lối viết của ông. Xuân Diệu, như ta đã biết, gần với bút pháp tượng
trưng hơn lãng mạn nên cảnh vật trong thơ ông “cốt gợi” mà không “cốt tả”. Ngay
cả khi ông vận dụng lối miêu tả thì phần biểu hiện vẫn lấn lướt và người đọc
khó lòng định vị được ranh giới giữa thực và ảo, giữa không gian ngoại giới và
không gian tâm tưởng:
Trời xanh thế!
hàng cây thơ biết mấy!
Vườn non sao!
đường cỏ mộng bao nhiêu…
Tà áo mới cũng
say mùi gió nước;
Rặng mi dài
xao động ánh dương vui
(Xuân đầu)
Tơ liễu giong
gần tơ liễu êm;
Bướm bay lại
sánh bướm bay kèm…
Son sẻ trời
như mười sáu tuổi;
Má hồng phơn
phớt mắt long lanh
(Rạo rực)
Có thể coi những
câu thơ trên là sự kết nối giữa “sắc xuân” với “tình xuân”, giúp Xuân Diệu đi
xa, đi sâu hơn vào thế giới của “xuân lòng”, của “vạn vật nức xuân tâm”. Nhiều
hơn cả trong thơ Xuân Diệu là những bài thơ có sự “khúc xạ” về ý tưởng, và xuân
dường như đồng nghĩa với những tình cảm tươi trẻ của lòng người:
Xuân của đất
trời nay mới đến;
Trong tôi,
xuân đến đã lâu rồi;
Từ lúc yêu
nhau, hoa nở mãi
Trong vườn
thơm ngát của hồn tôi
(Nguyên đán)
Mùa xuân thường
song hành với sự bừng nở của cây lá, nhưng người thơ có lúc thay vì ngất ngây
trước vẻ đẹp của mây gió cỏ hoa lại tự say mê vẻ “xinh tươi kỳ diệu” của chính
tâm hồn mình. Sự “di chuyển điểm nhìn” này đã “mờ hoá” những tín hiệu báo mùa của
thiên nhiên, khiến chúng trở nên không cần thiết:
Một ít nắng,
vài ba sương mỏng thắm.
Mấy cành xanh,
năm bảy sắc yêu yêu.
Thế là xuân.
Tôi không hỏi chi nhiều
Xuân đã sẵn
trong lòng tôi lai láng…
Bình minh quá,
mỗi khi tình lại hứa,
Xuân ơi xuân
vĩnh viễn giữa lòng ta…
Kể chi mùa, thời
tiết, với niên hoa,
Tình không tuổi,
và xuân không ngày tháng
(Xuân không
mùa)
Rất nhiều bài
thơ không nằm trong phạm vi đề tài và không trực tiếp viết cảnh sắc ngày xuân
nhưng vẫn thấp thoáng vẻ đẹp và sức sống mùa xuân. Trường liên tưởng xung quanh
ký hiệu xuân được mở ra nhiều chiều nhưng ấn tượng hơn cả là sự đồng điệu giữa
mùa xuân với những rung động mới mẻ của tình yêu đầu đời:
Hoa thứ nhất
có một mùi trinh bạch,
Xuân đầu mùa
trong sạch vẻ ban sơ.
Hương mới thắm
bền ghi như thiết thạch;
Sương nguyên
tiêu trời đất cũng chung mờ.
(Tình thứ nhất)
Thơ Xuân Diệu
vốn đã nồng, viết về xuân, giọng điệu thơ càng trở nên tha thiết, đắm say với
những: “nhan sắc ơi”, “bình minh quá”, “xuân ơi xuân”,… Khát vọng tình yêu và
nguồn cảm xúc trẻ trung, sôi nổi đã chi phối đến cách thức tạo dựng hình ảnh
thơ. Qua lăng kính lứa đôi, chủ thể trữ tình là nam – người phát ngôn – trong
thơ Xuân Diệu luôn cảm nhận sắc hương mùa xuân từ góc độ của bản tính nữ. Chỉ
có Xuân Diệu, bằng đôi mắt “xanh non”, đa tình mới có thể nhìn thấy nét gợi
tình lạ lùng từ một phạm trù vô hình vô ảnh là thời gian:
“Tháng giêng
ngon như một cặp môi gần”
(Vội vàng)
Cách viết đó của
Xuân Diệu, dù ít dù nhiều đã chứa đựng sắc thái nhục cảm. Vì vậy, khác với một
số nhà thơ thường lấy màu xanh như một “mã” ước lệ để ví mùa xuân – xa xưa là đại
thi hào Nguyễn Du: Cỏ non xanh rợn chân trời; cùng thời là Nguyễn
Bính: Mùa xuân là cả một màu xanh, Hàn Mặc Tử: Sóng cỏ xanh tươi
gợi tới trời… Xuân trong thơ Xuân Diệu lại được ký hiệu bởi màu hồng – một
tông màu ấm và có sức gợi cảm giác nhục thể hơn.
Trời reo nắng
thì chim reo tiếng sáng!
Xuân có hồng
thì tôi có tình tôi
(Tặng thơ)
Là nhà thơ
mang nỗi đau và luyến tiếc đến từng giọt thời gian. Xuân trong thơ Xuân Diệu,
vì vậy, là tình yêu tuổi trẻ, là “phần ngon nhất” của cuộc đời và đầy sức quyến
rũ nhưng lại vô cùng ngắn ngủi. Cảm thức về sự hữu hạn của đời người, sự sớm
tàn mau tạ của tuổi thanh xuân khiến tư thế trữ tình của nhà thơ chưa bao giờ
bình thản. “Vội vàng”, “giục giã”, “mau đi thôi”, “gấp đi em”… là những lựa chọn
tiêu biểu cho hành động sống của nhà thơ. Xuất phát từ nguồn cảm xúc mãnh liệt,
dâng trào này, Xuân Diệu đã viết nên nhiều câu thơ mang đậm tính triết lý. Xuân
của đất trời vận động theo nhịp điệu tuần hoàn của vũ trụ, của thời gian tự
nhiên, xuân của đời người là một đi không trở lại:
Xuân đang tới,
nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non,
nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết
nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng,
nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài
thời trẻ của nhân gian;
Nói làm chi rằng
xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ
chẳng hai lần thắm lại,
Còn trời đất,
nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng
khuâng tôi tiếc cả đất trời
(Vội vàng)
Trong niềm say
mê bồng bột và khát khao chiếm lĩnh hoa thơm mật ngọt của đời sống trần thế,
nhà thơ như đã ôm trọn được cả thực thể xuân vào lòng. Sự độc đáo của thế giới
thơ Xuân Diệu thường được mở ra bằng những khả năng liên tưởng dồi dào, mới mẻ.
Chung qui là nhằm diễn tả đến tận cùng tình yêu cuộc sống và khát vọng ái ân:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới
bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết
mây đưa và gió lượn.
Ta muốn say
cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu
trong một cái hôn nhiều
Và non nước,
và cây, và cỏ rạng,
Cho chếch
choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê
thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng,
ta muốn cắn vào ngươi!
(Vội vàng)
Cả mặt đất và
bầu trời bát ngát trong Thơ thơ và Gửi hương cho gió dường
như thuộc về tuổi trẻ và chỉ dành cho những người đang yêu. Một không gian trẻ
trung với những cô gái mười tám đôi mươi “má hồng phơn phớt mắt long lanh”, những
chàng trai “đương sức lực tươi xanh”, với những lời “mời yêu” tha thiết và tình
tứ: Mở miệng vàng và hãy nói yêu tôi; Hãy làm dáng điệu xuân ôm ấp/ Ánh
sáng ban từ một nét tay…Có thể nói, Xuân Diệu đã chăm chút tỉ mỉ đến từng chi
tiết, đã tự tay sắp đặt khu vườn trần thế để nó thực sự là “bình chứa muôn
hương của tuổi trẻ”, để khi bước chân vào đó, người người đều có cảm tưởng như
được “du ngoạn trong xứ yêu mến” và thầm ao ước được mãi mãi “hoài xuân”…
Là sự tiếp nối
mùa xuân, song, đọc Thơ thơ và Gửi hương cho gió, rất dễ nhận thấy
những bài thơ viết về mùa hạ là quá ít so với thơ mang chủ đề xuân. Điều này được
dễ dàng cắt nghĩa bởi chính những phát ngôn của một nhà thơ luôn mang ước nguyện
đem lòng mình “ràng rịt với xuân tươi”, sống đến tận cùng “thức nhọn giác quan”
và quyến luyến vô bờ đời sống thế gian: Ta ôm bó, cánh tay ta làm rắn/ Làm
dây đa quấn quít cả mình xuân/ Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần/ Chân hoá rễ
để hút mùa dưới đất (Thanh niên). Tuy nhiên, chỉ một bài Hè, Xuân Diệu đã
vượt qua nhiều người vì đã dựng nên một khung trời mùa hạ lồng lộng nắng gió,
như đốt như thiêu:
Chỉ còn lại của
mùa xuân quá vãng
Một chút hương
vương vấn bụi hồng tàn.
Gió thêm nóng,
ngày dài thêm ánh sáng
Ve thêm sầu –
em cũng kém dung nhan…
Tiếng gà gáy
buồn nghe như máu ứa,
Chết không
gian, khô héo cả hồn cao!
Thắm tuyệt vọng
hai hàng bông phượng lửa;
Thê lương đời
như trải mấy binh đao
Không khí những
ngày hạ cháy của xứ “nhiệt đới buồn” được mở ra bằng sự chuyển đổi giữa cái được
nhìn thấy và cái cảm thấy, giữa âm thanh sang hình ảnh: gió nóng, ngày dài, ve
sầu, nắng hồng nung, mây bạc chảy ngân nga… Nhưng ký hiệu nổi bật nhất vẫn thuộc
về những “bông phượng lửa”. Bài thơ ra đời tại Mỹ Tho năm 1940 và cái chói gắt
cùng cực của đất trời vùng cực nam Tổ quốc là một “phân mảnh” của tâm hồn Xuân
Diệu ở vào thời điểm có nhiều bế tắc. Nói cách khác, thiên nhiên hiện lên không
phải ở sự mô tả mà bằng giao cảm. Sau này, nhìn lại cái “atmosphère” nặng nề của
một số câu thơ, Xuân Diệu nhận thấy mình đã “không công bằng khi nói về mùa
hè”. Ở vài bài thơ khác, ngoại cảnh trở nên mơ màng bởi nội tâm nhà thơ đã có
phần nhẹ nhõm, thanh thản hơn. Dẫu sự mênh mông của đất trời và nỗi lòng của
thi nhân vẫn có chung một tiết điệu nhớ thương, buồn bã:
Muôn ngàn
thương nhớ tới bên tôi,
Tôi tới bên
cây lẳng lặng ngồi.
Ánh sáng vấn
vương chiều uể oải,
Sắc hè bông
phượng rớt từng đôi.
Sắc hạ rung
rinh bốn phía hè…
Hồn ai hiu hắt
lá xanh tre?
Dịu dàng như
có, như không có,
Biển ở xa xăm
gửi gió về
(Nhớ mông
lung)
Hình ảnh hoa
phượng là gam màu chủ đạo, một điểm nhấn trở đi trở lại trong thơ ông: Ôi!
Phượng bao giờ lại nở hoa! Đó không chỉ là một góc cảm xúc, một phần ký ức,
hoài niệm mà còn là một tín hiệu nổi bật trong thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu.
Tuy nhiên, trước 1945, nhà thơ chưa diễn tả được cái “khoẻ đẹp”, chất men nồng
say, cực lạc của ngày hè. Trái lại, từ cành hoa, khóm cỏ, đến con bướm ngu ngơ…
mọi vật như đang hấp hối, đang tự huỷ diệt “trong lòng nắng đỏ”, để mặc “lòng
tàn thiêu huỷ cả hư vô”.
Xuân Diệu đã
có lần bộc bạch: “Với lòng tôi, trời đất chỉ có hai mùa Xuân và Thu, hai mùa đặc
biệt ý nhị, hai mùa có bình minh… Xuân với Thu là hai bình
minh trong một năm, sự thay đổi hệ trọng nhất trong tâm hồn. Và bởi vậy, Thu
cũng là một mùa xuân” (Thu – Trường ca). Nói vậy là để bày tỏ ước muốn “trẻ
mãi không già”, “quyết trẻ trai” của Xuân Diệu. Thực tế sáng tác lại cho thấy
giữa hai mùa “đặc biệt ý nhị”, “hai bình minh của một năm” đã là sự hiện diện của
“mùa hạ cháy” . Thêm nữa, trạng thái cảm xúc của nhà thơ trước Xuân và Thu cũng
có nhiều khác biệt. Đất trời có Xuân và Thu ví như đời khi vui, khi buồn. Các
nhà Thơ mới nặng nỗi buồn, nhẹ niềm vui nên dù có say sưa với mùa xuân thì cuối
cùng vẫn trở về với mùa thu và coi đó là chốn nương náu của tâm hồn mình. Trong
cái hơi thu man mác sầu với nắng lá vàng, gió heo may, những tâm hồn lãng mạn
dường như dễ tìm thấy sự cộng cảm hơn các mùa khác. Cũng có thể Xuân Diệu chịu ảnh
hưởng của thơ ca nước ngoài… Nhưng rõ ràng, từ những mùa thu đi qua những áng
thơ của Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tản Đà… đến các nhà Thơ mới, mùa thu càng trở
nên gợi cảm hơn với Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, Thu rừng của
Huy Cận, Thu của Chế Lan Viên, Đây mùa thu tới, Thu, Ý thu… của
Xuân Diệu.
Viết về Thu là
cả một sự thách thức bởi Đông, Tây, kim, cổ đã có nhiều thi phẩm tuyệt tác.
Riêng với Xuân Diệu, so với thơ xuân, thơ viết về mùa thu của ông tài hoa, đúc
đọng và gần gũi với trữ tình truyền thống hơn. Tựa lưng vào hoa lá cỏ cây và
“hàng ngàn năm thương nhớ”, trước một nguồn cảm hứng vừa “rất cổ truyền”, vừa
“cũng rất moderne” (chữ dùng của chính nhà thơ), Xuân Diệu đã sáng tạo thêm một mạch
trầm cảm xúc, bên cạnh giọng điệu trẻ trung, sôi nổi của mảng thơ xuân. Có thể
sự cảm nhận thiên nhiên và cách nói năng đã khác xưa nhiều, nhưng hệ thống hình
ảnh, đặc biệt là cái hồn cốt của thơ vẫn in đậm bản sắc dân tộc và dấu ấn Đông
phương:
Nõn nà sương
ngọc quanh thềm đậu.
Nắng nhỏ bâng
khuâng chiều lỡ thì,
Hư vô bóng
khói trên đầu hạnh;
Cành biếc run
run chân ý nhi…
Bên cửa ngừng
kim thêu bức gấm,
Hây hây thục nữ
mắt như thuyền
Bảng ký hiệu sắc
màu từ hạ sang thu của thơ Xuân Diệu thay đổi từ đỏ sang vàng –
một gam màu đặc trưng nhất mang phong vị mùa thu và sâu xa hơn là nó chuyển tải
nỗi tâm sầu của thi nhân. Không còn cảnh sắc muôn vật sinh sôi, cây lá đâm chồi
nẩy lộc của tiết xuân, cũng đã qua những ngày hè chói chang như đốt cháy tâm tư
con người, sang thu là bước vào miền phai nhạt, héo tàn. Một lần nữa, thiên
nhiên lại có sự thay thế, “biến hình” ký hiệu để tạo hiệu ứng thẩm mỹ. Từ một rặng
liễu rũ buồn:
Rặng liễu đìu
hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông
xuống lệ ngàn hàng
(Đây mùa thu tới)
đến một làn
gió, một áng mây, một cơn mưa… đều mang gương mặt và tâm trạng buồn muôn đời,
buồn vô cớ của thi nhân:
Gió thầm, mây
lặng, dáng thu xa.
Mới tạnh mưa
trưa, chiều đã tà
Buồn ở sông
xanh nghe đã lại,
Mơ hồ trong một
tiếng chim qua
(Thu)
Cả sắc thu, ý
thu và tình thu trong Thơ thơ, và Gửi hương cho gió đều không ra
ngoài quĩ đạo của thơ truyền thống nói chung và thơ lãng mạn Việt Nam 1932-1945
nói riêng. Dù đậm nhạt khác nhau, sắc thu trong thơ Xuân Diệu vẫn bàng bạc một
màu vàng quen thuộc. Đó có thể là cái nhìn viễn cảnh với không gian thu được
bao phủ bởi “màu áo mơ phai dệt lá vàng”, hoặc cận cảnh với một gam màu tưởng
tượng khi “hoa đã rụng cành” và cây vườn mang “sắc đỏ rũa màu xanh” ít nhiều gợi
nhớ dáng dấp Tây phương. Cũng có thể đó là sắc vàng rực rỡ của hoa cúc cùng màu
áo nho sinh trong ngày “vinh qui bái tổ” như một “giấc mơ vàng” của tâm thức Việt:
Gió thu hoa
cúc vàng lưng giậu,
Sắc mạnh huy
hoàng áo trạng nguyên
(Thu)
Nhiều hình ảnh,
đường nét phảng phất phong vị Đường thi và những bức tranh thuỷ mặc Trung Hoa:
Đôi nhánh khô
gầy xương mỏng manh…
Non xa khởi sự
nhạt sương mờ…
(Đây mùa thu tới)
Song, viết về
mùa thu, Xuân Diệu không chịu dừng lại ở những ấn tượng thị giác mà với độ tinh
nhạy trực giác, ông đã hoá thân vào thiên nhiên để cùng với cỏ cây hoa lá cảm
nhận sự thay đổi của tiết trời vào mùa giao chuyển. Bằng cách ấy, ông đã tạo
nên những hình ảnh đồng cảm tinh tế:
Đã nghe rét mướt
luồn trong gió…
Đã vắng người
sang những chuyến đò
(Đây mùa thu tới)
Có nghĩa là
cái sắc thu không chỉ ở những gì nhìn thấy mà còn vương vấn bởi những mơ hồ, phảng
phất:
Thu gồm xa vắng
tự muôn đời,
Sương nương
theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng
lòng lên chơi vơi…
(Như hồ)
Tất cả tạo nên
sắc thu óng ánh trải lên ngoại cảnh và cái tình thu, ý thu theo đó len sâu vào
tâm hồn:
Những chút hồn
buồn, trong lá rụng
Bị nhàu ai tưởng
dưới trăm chân.
Bông hoa rứt
cánh, rơi không tiếng;
Chẳng hái mà
hoa cũng hết dần.
Dưới gốc, nào
đâu thấy xác ve,
Thế mà ve đã tắt
theo hè…
Nếu coi thiên
nhiên là một đối tượng “vật thể” không thể thiếu cho quá trình tìm kiếm nguồn
liên tưởng “phi vật thể” của tư duy thơ thì có thể nói rằng Xuân Diệu đặc biệt
tài hoa về phương diện này. Nhà thơ đã ban phát cho thiên nhiên từng “mảnh cảm
giác”, từng thoáng run rẩy nội tâm và ngược lại từ thực thể thiên nhiên, ông đã
tạo nên vô vàn những ẩn dụ, biểu tượng độc đáo. Từ những gì rất mơ hồ của “gió
thầm”, “mây lặng”, “mưa trưa”, “chiều tà”… Xuân Diệu bất ngờ tạo nên hình ảnh
“dáng thu xa”, “chiều lỡ thì”… với nhiều ám gợi. Đôi khi chỉ bằng vài đường tơ
“nhân tạo”, nhà thơ đã diễn tả tài tình sự yên tĩnh vô cùng của một buổi chiều
thu. Điệu lòng của thi nhân trở nên nhịp nhàng với cảnh vật. Không gian, thanh
sắc mùa thu đã được hữu hình hoá từ những vô hình:
Không gian như
có dây tơ
Bước đi sẽ đứt
động hờ sẽ tiêu
Êm êm chiều ngẩn
ngơ chiều
Lòng không sao
cả hiu hiu khẽ buồn
(Chiều)
Đành rằng từ
xa xưa, mỗi ký hiệu, thông điệp nghệ thuật về mùa thu dường như đều chứa đựng nỗi
buồn. Nhưng cái buồn trong thơ các bậc tài danh như Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Nguyễn
Khuyến trầm mặc, điềm đạm đến dửng dưng: Nước biếc trong như tầng khói phủ/
Song thưa để mặc bóng trăng vào/ Mấy chùm trước dậu hoa năm ngoái/ Một tiếng
trên không ngỗng nước nào?(Thu vịnh – Nguyễn Khuyến). Đến Xuân Diệu, cái
buồn đã liên kết thành những luồng xao động, run rẩy, xôn xao, rợn ngợp trong
tâm hồn và biểu hiện qua một chuỗi diễn ngôn “lạ lùng”:
Thu lạnh, càng
thêm nguyệt tỏ ngời,
Đàn ghê như nước,
lạnh, trời ơi…
Long lanh tiếng
sỏi vang vang hận:
Trăng nhớ Tầm
Dương, nhạc nhớ người…
(Nguyệt Cầm)
Chính vì lòng
ông luôn khắc khoải âu lo trước cuộc đời xuân sắc đang dần bước vào độ phôi
phai: Hoa nở để mà tàn/ Trăng tròn để mà khuyết/ Bèo hợp để chia tan/ Người
gần để ly biệt/ Hoa thu không nắng cũng phai màu/ Trên mặt người kia in nét đau
(Hoa nở để mà tàn) nên ông đã gửi gắm những tiếc nuối của mình vào sắc
vàng úa tàn rơi rụng của hoa lá cỏ cây. Cùng với những giai điệu tâm hồn, cảm
thức mùa của Xuân Diệu rõ ràng đã chi phối đến các cung bậc giọng điệu và tư thế
trữ tình của thi nhân. Nếu cái tình xuân được cất lên bằng những lời thơ “vang
động” đến “ầm ỹ” với những “ôm”, “bấu”, “riết”, “cắn” thì cái tình thu đã trở
nên lặng lẽ, mong manh, nhiều khi đó là thứ “tình không nói”: Em bước điềm
nhiên không vướng chân/ Anh đi lững đững chẳng theo gần/ Vô tâm – nhưng giữa
bài thơ dịu/ Anh với em như một cặp vần (Thơ duyên); Ít nhiều thiếu nữ buồn
không nói/ Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì…Có thể nói, trên nền cảm xúc truyền thống,
kết hợp với nỗi lòng riêng và sự cảm nhận thẩm mỹ tinh tế, Xuân Diệu đã mang đến
nhiều bức tranh thu thơ mộng, hài hoà màu sắc Đông – Tây, cổ - kim, dân tộc và
hiện đại.
Mùa cuối của một
năm: Đông, có tần số văn bản vô cùng ít ỏi trong hai tập thơ của Xuân
Diệu. Điều này có thể cắt nghĩa bởi cái “tạng” của một nhà thơ rất sợ sự lạnh lẽo,
thờ ơ và bóng tối. Tuy nhiên dù hiếm hoi và kỳ thực là thiếu những câu thơ đặc
sắc thì mùa đông vẫn mang những phẩm tính đặc trưng và ý nghĩa thông điệp
riêng. Ngoài một số câu thơ, mượn mô típ cổ điển là màu trắng tuyết đã trở
thành công thức trong thi liệu Đông phương như:
Tuyết bay mùa
đông trắng phơ tựa biển
(Mơ xưa)
hoặc:
Ta đứng đây
vĩnh viễn giữa mùa đông,
Tuyết trên đầu
vĩnh viễn choá từng không,
Trán vĩnh viễn
nặng mang sầu trái đất
(Hy Mã Lạp
Sơn)
thì ký hiệu sắc
màu mùa đông trong thơ Xuân Diệu lại là màu xám – một gam màu dường
như hiện đại hơn:
Không gian xám
tưởng sắp tan thành lệ
(Tương tư, chiều)
Trong khung
xám của mùa đông bằng sắt,
Gió qua rồi
còn lưu lại tiếng ngân:
Cây bên đường,
trụi lá, đứng tần ngần,
Khắp xương
nhánh chuyển một luồng tê tái
Dù là màu trắng
rợn của tuyết hay màu xám âm u đều nhằm biểu đạt nỗi lạnh lùng, tê tái của lòng
người. Ngay ở những bài thơ thu, Xuân Diệu cũng đã cảm nhận được cái chớm lạnh
đầu mùa: Đã nghe rét mướt luồn trong gió (Đây mùa thu tới), Gió
lạnh đây rồi! Sắp nhớ nhung/ Sương the lảng đảng bạc cây tùng/ Từng nhà mở cửa
tương tư nắng/ Sắp sửa lòng ta để lạnh lùng (Ngẩn ngơ)… Sang đông, sự
lạnh lùng đã trở thành buốt giá. Là một hồn thơ nồng ấm, quyến luyến cõi đời,
khát khao hoà hợp và thụ hưởng thanh sắc trần gian nhưng khi cái lạnh của ngày
đông bao phủ, ông thấm thía hơn nỗi lẻ loi và sự thiếu vắng hơi ấm tình yêu:
Anh chỉ là con
chim bơ vơ
Lạnh lùng bay
giữa gió, sương, mưa
(Muộn màng)
Để gia tăng
cái giá lạnh, không gian bầu trời mùa đông trong thơ Xuân Diệu thường đi kèm với
mưa và gió. Đây có thể là những quan sát thực:
Những đêm đông
giạt bước ở trên đường,
Gió khuya khoắt
dậy cơn buồn lá úa:
Sao rải rác
như lệ vàng đêm nhỏ,
Mưa lơ phơ như
dạ khóc âm thầm!
(Yêu mến)
Song, với tư
cách là một kiểu hình tượng trong “cấu trúc hệ” thiên nhiên, đông trong thơ
Xuân Diệu còn có thêm lớp nghĩa ẩn dụ:
Cốt nhất là em
chớ lạnh như đông,
Chớ thản nhiên
bên một kẻ cháy lòng
(Phải nói)
Để bừng tia
trong những mắt tê đông,
Và gợi nhịp
khiến hồn lười phải thức
(Chỉ ở lòng
ta)
Bao trùm lên mảng
thơ viết về mùa đông trong thơ Xuân Diệu là sự lạnh lẽo, giá băng, cao hơn nữa
là sự cô đơn, sầu tủi. Khi tự nâng mình lên ở một độ cao chót vót, vĩnh viễn giữa
trời đông, làm bạn với tuyết băng, gửi xuống thế gian bức thông điệp lạnh
lùng: Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất cũng chính là lúc Xuân Diệu thấm
thía đến tận cùng nỗi cô đơn:
Hiu hắt nhẽ bốn
phương trời vò võ
Lạnh lùng
chăng sầu một đỉnh chon von…
Ta bỏ đời, mà
đời cũng bỏ ta
Giữa vắng ngắt,
giữa lạnh lùng thê tuyệt!
- “Cô đơn muôn
lần, muôn thuở cô đơn”
(Hy Mã Lạp
Sơn)
Từ xuân đến hạ,
từ thu sang đông là cái vòng tuần hoàn tự nhiên của đất trời, trong thơ Xuân Diệu,
đó đồng thời là cả một hệ ẩn dụ nghệ thuật độc đáo. Có thể chưa có gì mới khi
Xuân Diệu ví sự luân chuyển bốn mùa của thiên nhiên như qui luận vận động của
thời gian đời người từ trẻ đến già, từ vui sang buồn… Có khác chăng ở Xuân Diệu
là khả năng “biểu diễn” cảm thức mùa qua cảm xúc và đặc biệt là cảm giác. Thiên
nhiên bốn mùa trong thơ Xuân Diệu, vì vậy, vừa lưu giữ bản sắc truyền thống, vừa
có nhiều cách tân mới lạ. Xuân, hạ, thu, đông đã đi qua những trang thơ của
Xuân Diệu với những ký hiệu sắc màu khác nhau: Xuân – hồng, hạ - đỏ, thu –
vàng, đông – xám. Tương ứng với biểu đồ thời gian đó là những “mã” tâm trạng
riêng không thể thay thế. Nếu mùa xuân, thời điểm mở đầu trong năm là biểu tượng
non tơ của sự sống và tình yêu thì đến thu là bước vào độ phai tàn, héo úa. Nếu
mùa hè, thế giới tâm tư của nhà thơ được đốt cháy tưởng sắp đến bờ thiêu huỷ
thì mùa đông là những lạnh lùng tê tái của lòng người. Cảm thức mùa, cũng chính
là sự kết tụ cảm hứng yêu đời và tư tưởng nhân sinh của nhà thơ. Cái được biểu
đạt, rõ ràng, đã muôn lần phong phú hơn so với cái biểu đạt. Xuân, hạ,
thu, đông không chỉ là những bức tranh thiên nhiên mà là chân dung tâm hồn,
là tài năng và cá tính của một nhà thơ được đánh giá là tiêu biểu nhất, là số một
của Phong trào thơ mới. Với Thơ thơ và Gửi hương cho gió, sau Thế
Lữ, Xuân Diệu là người kế thừa xuất sắc, tái tạo nguồn sinh lực và đưa trào lưu
thơ ca lãng mạn Việt Nam 1932-1945 đến thời hoàng kim, rực rỡ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét