Thứ Hai, 23 tháng 11, 2020

Chân dung cái Đẹp 3

Chân dung cái Đẹp 3

3. Vấn nạn Việt Nam:

Có lẽ chưa bao giờ, trong suốt lịch sử mấy nghìn năm, dân tộc Việt Nam lại phải đối mặt với một nghịch lý chua cay, nghiệt ngã như hôm nay: sau chiến thắng giành lại chủ quyền và thống nhất lãnh thổ, đất nước - thay vì đi vào kỷ nguyên phát triển vinh quang - lại bị ngập chìm trong bóng tối một quá trình suy vong, rệu rã. 215
Ở đây, ta sẽ không bàn đến khía cạnh chính trị bởi nó ngoài đề, nhưng bối cảnh đó là cái nền chung không chối cãi cho mọi phân tích liên quan đến thực trạng xứ sở.
Trên bình diện văn hóa - là phạm vi giới hạn của bài viết này -, một giả thuyết dễ dàng đến ngay, sát với chủ đề của chúng ta, đó là: những thất bại đớn đau đã thấy, nghĩ cho cùng, đều bắt nguồn từ sự đánh mất những giá trị cơ bản, dẫn tới sự phá sản của vốn liếng nhập cuộc. Nói cách khác, cái nền tảng ban đầu của đất nước ngay từ trong kháng chiến đã ngầm chứa tất cả những nhân tố độc hại làm triệt tiêu mọi khả thể thăng tiến nhân văn và phát triển xã hội: hận thù được tôn lên thành động cơ đấu tranh chính thống 216, tri thức là dấu vết đáng ngờ của một thứ «tội tổ tông» làm nhơ lý lịch, di sản văn hóa cha ông không mấy khi tránh khỏi bị quy kết là «tàn dư phong kiến», và mãi đến hôm nay vẫn tiếp tục bị lạnh lùng phá hủy...217
Một hệ tư tưởng dựa trên những xác quyết u ám như vậy, thì lấy gì để vực dậy Quê Hương, để nâng tầm dân tộc sau cuộc chiến thảm khốc vừa qua (một dân tộc dẫu không may mắn có được một Minh Trị Thiên Hoàng như nước Nhật - thay vì một Tự Đức - ở khúc quanh định mệnh của lịch sử cận đại, nhưng cũng đã từng sản sinh những Lý Thường Kiệt 218, Trần Nhân Tôn 219, Nguyễn Trãi 220)?
Dân tộc đó đang gánh chịu sự xuống cấp trầm trọng về vật chất lẫn tinh thần. Non nước xác xơ. Tuổi trẻ tiều tụy 221. "Gia tài của mẹ, một bọn lai căng; gia tài của mẹ, một lũ bội tình": câu hát nổi tiếng của Trịnh Công Sơn - tự bao giờ - vẫn giữ nguyên thời gian tính, như lằn roi quất lên gương mặt thời đại.
Đến hôm nay, “máu và nước mắt từng ngày vẫn đổ” 222. Đó là nỗi khổ nhục lớn.
Đó cũng là một trong những tiền đề cho những xót xa, suy ngẫm nơi mỗi chúng ta. Song, trong khuôn khổ Chương cuối Phần III*** của loạt bài này, ta cần có một độ lùi tối thiểu đối với thời cuộc để thử điểm lại- dưới góc độ học thuật- những điều kiện cơ bản hãy còn quá khiếm khuyết, chưa cho phép văn học nghệ thuật Việt Nam ngẩng đầu đối mặt với thử thách. 
Bất luận thời nào, cách mạng đích thực phải là cách mạng nhân văn. Thế mà, từ nhiều thập kỷ qua, cái Đẹp đã dấu mặt, tư duy tắt ngấm. Giữa khoảng trống chơ vơ là những quờ quạng, thao thức vô hình. Và nỗi bất lực triền miên...
Nhưng giải pháp làm sao ló dạng, khi chính chúng ta chưa đặt được cho mình câu hỏi bộc phá, đủ sức vạch mở - từ tọa độ dân tộc- một không gian suy tưởng ăn khớp với thời đại, tạo ra sức bật ý nghĩa nơi từng chủ thể biết nhen nhúm, thổi bùng ngọn lửa xác tín thiêng liêng về những giá trị sống chết và ý nghĩa sâu thẳm của hiện hữu, cần được khám phá, tái hiện, triển khai, dưới gam màu độc đáo và âm sắc riêng lạ của mỗi cảnh đời?  
Chúng ta đang dẫy chết trong sự thờ ơ, nhát sợ, tầm thường. Còn cái Đẹp, tự nó - và muôn đời -, là thách thức. Khi không gian mỗi ngày thêm ngạt thở, thì cái Đẹp là sinh lộ thanh thoát cho những dũng cảm nhân cách, sâu lắng tư duy và tinh khiết tâm hồn: hành trình Mỹ học, do đó, cũng là hành trình thăng hoa nhân tính và dẫn tới siêu nghiệm (transcendance), như đã thấy trên (Chương 2)***. 
Ở Việt Nam, do triết học vốn đã thiếu vắng trong cốt hồn văn hiến lại càng không có chỗ đứng trên sân chơi học thuật đương thời, nên những thách thức của cái Đẹp khó lòng vượt qua cảm tính để thâm nhập tâm thức, xoáy mạch trầm tư. Thay vào đó, văn học nghệ thuật - trong tư thế độc lập từ ngoại biên chính trị - là tác nhân sung mãn nhất còn lại, có khả năng và trách nhiệm chấp nhận thách đố - mà khởi đầu là sự tập trung khắc phục những hạn chế nội tại - để lột xác vươn lên, soi rọi nhân thế, nắm bắt sự thật, khơi gợi những chân trời khả thể, kích hoạt cuộc hồi sinh, chính danh đóng trọn vai trò vượt lịch sử (transhistorique) đầy khó khăn, tế nhị, nhưng vô cùng thanh cao của nó: sáng tạo và khai phóng.
Bởi cái Đẹp đánh thức con người. Bởi sáng tạo không ngừng kêu đòi cảm hứng. Thôi thúc, quyết liệt. Như cách mạng chờ ngòi lửa. Như hạn hán đợi cơn mưa.

Tín hiệu đáng mừng hay bức tranh siêu thực?

Những tin tức về số phận dành cho người nghiên cứu nhóm thơ hậu hiện đại Mở Miệng 223-224 gần đây, đã khiến dư luận cảm thấy - nếu không công phẫn - ít nhất là một sự thất vọng bàng hoàng. Mặc dù vậy, bên cạnh bao bức xúc khác, nếu xét kỹ dưới góc nhìn thuần túy văn hóa thì thời sự văn nghệ Việt Nam trong vòng hai năm nay thật ra cũng không phải không có một số dấu hiệu tương đối tích cực, cho ta ít nhiều hy vọng. 
Ví dụ đầu tiên: Vi Thùy Linh mang thơ vào Nhà hát Lớn, biến văn chương thành «sự kiện» sáng giá trong đêm nghệ thuật  cuối năm 2012 tại Hà Nội. Phải nhìn nhận đây là một sáng kiến táo bạo về cách làm, tạo được ấn tượng tốt ở nhiều người, từ nhà sử học Dương Trung Quốc 225-226 đến nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên 227, nếu chỉ nhắc đến chừng ấy ý kiến phát biểu. Một sự động viên giỏi, vận dụng hiệu quả nguyên lý tiếp cận thị trường hiện đại và khéo dựa trên những phương tiện sân khấu ca, vũ, nhạc cộng thêm với cả mỹ thuật đương đại: tất cả nhằm để vinh danh Thơ (mà cụ thể trước mắt là sự đăng quang những sáng tác của nhà thơ).
Một ví dụ khác - ít rầm rộ hơn, nhưng không kém phần ý nghĩa -, đó là việc một Tủ sách Văn học Việt Nam đương đại mới ra đời 228 tại Pháp nhờ công sức của dịch giả Đoàn Cầm Thi cùng nhà văn Thuận, mà chỉ riêng bức ảnh dưới đây cũng đủ làm toát lên vẻ sáng tự tin của một thế hệ xông xáo, tài năng và đẹp rạng rỡ. Rạng rỡ cũng còn là tin vui khác về việc tiểu thuyết "Biển và Chim Bói Cá" của nhà văn Bùi Ngọc Tấn được giải thưởng tại liên hoan "Sách và Biển" 2012  trên đất Pháp... 229.
Nhà văn Thuận (trái) và dịch giả Đoàn Cầm Thi 
tại lễ ra mắt Tủ sách Văn học Việt Nam đương đại tại Pháp
Bìa tác phẩm «Biển và chim bói cá» bản tiếng Pháp
Rời văn học bước sang mỹ thuật, người ta lại tiếp tục thấy thích thú trước những chứng từ mới mẻ, phong phú - có khi cảm động - của Nguyễn Quân 230, Hoàng Hưng 231, Đào Mai Trang 232, Phạm Trung. Không cảm sao được, khi biết rằng nhiều nghệ sĩ trẻ phấn đấu hết mình cho nghệ thuật, chẳng hạn như trường hợp tác giả cuối vừa nêu, cùng với Bùi Như Hương, phải bỏ thêm tiền túi ra 233 - mặc dù đã có được hỗ trợ của các quỹ và tổ chức văn hóa đỡ đầu 234 - để in tập sách Nghệ thuật đương đại Việt Nam 1990-2010 bằng tiếng Anh, chỉ vì lý do... «tiếng Anh nhiều người mua hơn; từ đó, họ mới có tiền in bản tiếng Việt»! Một tập sách đã khiến Tôn Nữ Thị Ninh phải tâm đắc: “Nếu còn là đại sứ, tôi hoàn toàn không ngại ngần mang cuốn sách này làm quà tặng cho nước ngoài, để họ hiểu thêm về văn hóa Việt Nam”. 235
Hết mình cho nghệ thuật, đó cũng là điều công chúng đã từng cảm nhận từ những người như Đào Anh Khánh, đặc biệt qua tác phẩm đồ sộ «Cây đời» 236 được trình diễn nơi công cọng cách đây hơn hai năm, với một ngân sách 2 tỷ đồng 237. «Chân bị gãy [...] mà trong suốt 4 tháng luyện tập, và cả trong đêm diễn anh vẫn phải mang đôi nạng; [...] vẫn đang là “con nợ” của 600 triệu và nhiều dự định [...], một nghệ sĩ “ròng” như anh dễ gì từ bỏ đam mê máu thịt»: Vi Thùy Linh đã thuật lại với những chi tiết chính xác như vậy 238 về nghệ sĩ tiền phong này.

Hàng ngàn người đã đến với triển lãm 
“Cây Đời” của Đào Anh Khánh khai mạc vào tối 
15/10/2010 tại Long Biên, Hà Nội.
Chưa hết. Mỹ thuật mới của Việt Nam còn xuất hiện ở những nơi khó ngờ tới nhất: một cuộc triển lãm nghệ thuật đương đại mang tên Đất Mường đã mở cửa cuối tháng 9/ 2011 tại Bảo tàng Không gian văn hóa Mường (tỉnh Hòa Bình), cùng lúc với Festival Văn hóa truyền thống của người Mường 239.
Trong bài viết đã dẫn 230, Nguyễn Quân  khẳng định: «Nếu có một bộ phận văn hóa nghệ thuật nào phát triển lạ lùng, nhanh mạnh gây ảnh hưởng nhất ở ta hai thập kỷ qua thì đó chính là CA [Contemporary Art, Nghệ Thuật Đương Đại; BĐH chú thích] chứ không phải âm nhạc, điện ảnh, sân khấu hay thơ văn…!».
Về phần mình, Hoàng Hưng cũng đã có nhận xét đầy lạc quan: «[...] Sang đầu thế kỷ mới, tình hình rõ ràng là khác, khi xu hướng mỹ thuật khái niệm, mỹ thuật ngoài giá vẽ, tiến tới mỹ thuật công cộng (public art), cụ thể qua các thể loại sắp đặt, trình diễn, video… với một thế hệ tác giả trẻ có tư duy mở rộng, tiếp nhận ngày càng sâu rộng những giá trị phổ quát Tự do, Nhân quyền, Dân chủ. Ta bắt đầu nghe được những tiếng nói chính trị xã hội cất lên trong Mỹ thuật» 231
Thật đáng mừng. Song, phác qua vài nét như vậy, bức tranh văn học nghệ thuật Việt Nam có vẻ quá... hồng đi chăng? Nhất là khi không dễ gì quên ngay «những điều trông thấy»: từ sự thiếu nghiêm túc tràn lan 240-242 - thậm chí có cả hiện tượng «đạo» tranh! 243 - về phía người làm nghệ thuật, đến sự kiểm soát không đúng chỗ của chính quyền 244 mà lập luận chính thức không dựa trên gì khác hơn là thực tế xuống cấp tệ hại của một số bộ môn trình diễn 245. Riêng về nghệ thuật đương đại, hãy nghe ý kiến của Mai Chi: «Trong khung cảnh rất nhiều sắp đặt và trình diễn được làm cẩu thả, dễ dãi và hình thức, đi kèm với các tuyên ngôn của nghệ sĩ không ăn nhập, rối ren, đau đầu và “sai chính tả” thì dường như công chúng mong muốn nhìn thấy sự thể hiện của kỹ thuật, tay nghề và công sức 240».
Màn trình diễn tác phẩm 
"Bay lên" của Lại Thị Diệu Hà 
Màn trình diễn ngồi WC đọc báo của 
Lê Anh Hoài 242: thế này mới là «đương đại» 
đúng kiểu... Marcel Duchamp ư?!
Nhưng không phải chỉ các nghệ sĩ sa đà mới đáng trách, mà ngay cả những nhà lý luận phê bình, theo Huỳnh thị Nga 246, cũng không hề «nhẹ tội». Ngoại trừ - và đó là điều đáng suy ngẫm - các tác giả người nước ngoài: khi Laurent Colin - măc dù chỉ được gọi là «a ma tơ» - viết xuất sắc một bài phân tích về nghệ thuật đương đại Việt Nam 247, hay khi Nora Taylor - với tư cách nhà nghề - phản hồi sắc bén các ý kiến này 248, thì đó chẳng những là bằng cớ về trình độ «hiểu biết sâu sắc và có kiến giải xác đáng» của giới sành điệu đến từ phương Tây, mà còn thể hiện tấm lòng tha thiết của họ đối với nghệ thuật một đất nước họ vốn nặng tình. Và kết luận đầy thất vọng của vị nữ giáo sư môn Nghệ sử Đông Nam Á Trường Nghệ thuật Chicago này, vì thế, nghe như một lời giã biệt não nùng:
<<Tôi đây cũng buồn vì không có nhiều nghệ sĩ Việt Nam đủ giỏi để các nhà phê bình nghệ thuật, các nhà sử học, và các nhà sưu tầm có thể “ngấu nghiến” lao vào mà viết sách về họ. Nói cho cùng, tôi - một chuyên gia về “Nghệ thuật Việt Nam” - lâu lâu cũng phải tự hỏi, liệu mình có nên tiếp tục viết về nghệ sĩ Việt Nam không [...] Có lẽ đã đến lúc chúng ta đem cái ý tưởng “Việt Nam và nghệ thuật Việt Nam phải có gì đó độc nhất vô nhị” mà chôn đi thôi. Chúng ta, những người nước ngoài, những kẻ đã từng yêu và còn yêu Việt Nam, nên để cho hai thứ ấy tự lớn lên mà không có chúng ta thôi>>.
«Tự lớn lên» thế nào đây, khi còn phải gặp không biết bao nhiêu chướng ngại, chẳng hạn trường hợp những «biện pháp» kỳ lạ mà nhà cầm quyền vừa mới đưa ra (đại loại như dự thảo Bộ Văn Hóa Thông Tin và Du Lịch nghiêm cấm các hành vi «mỹ thuật làm lộ... bí mật, an ninh» 249, hoặc việc <> 250, theo cách nói của báo chí cách đây không lâu khi bàn về đề án thi tuyển sinh Đại Học, Cao Đẳng hệ chính quy vào các trường khối văn hóa - nghệ thuật)?
Trong hoàn cảnh đó, giả thuyết lạc quan nhất là, rất có thể, những cái lố bịch, ép uổng, uất ức đó sẽ làm nổ ra cái mới- nếu không là cái lớn- còn ẩn tàng trong nghệ thuật, một nền nghệ thuật dấn thân- như câu nói nổi tiếng của Pompidou ở đầu bài*** - mà Phạm Trung dường như cũng đã phần nào khởi họa, qua một phát biểu thoạt trông rất nhẹ nhàng của anh: 
«Nghệ thuật đương đại có mặt mạnh là tính phản biện xã hội. Nghệ sĩ có quyền bộc lộ bằng rất nhiều hình thức khác nhau thái độ của họ trước thực trạng xã hội; [...] một xã hội nhạy cảm, lành mạnh phải biết nhìn ra những khuyết tật của mình để chỉnh sửa. Tác phẩm hay, ý nghĩ thâm thúy, sâu sắc, sẽ đọng lại với thời gian. Những tác phẩm gây sốc có vẻ ghi điểm rất nhanh, tác giả có được tên tuổi rất nhanh nhưng không có sức sống lâu bền. 233»
 “Cột chiến thắng” (Đinh Gia Lê) 



Nghệ sĩ Trương Tân và tác phẩm 
“Bỉm” cùng chi tiết mô-tip ở cuối  
Tuy nhiên, những tác phẩm như «Bỉm» của Trương Tân (2007) hay “Cột chiến thắng” của Đinh Gia Lê mà Hoàng Hưng có nhắc tới 231, hãy còn quá ít ỏi, hoặc bị dìm ngay từ trong trứng nước. Và không có chờ đợi nào cho sự xuất hiện của một Ngải Vị Vị (Ai Weiwei) 251 Việt Nam.          
Chuỗi dài trông ngóng trên nền những phẩm tính khiếm diện  
Ngược lại, nhiều tiếng nói từ trong 252-256 và cả ngoài nước 257-258 mấy năm gần đây đã gióng lên những hồi thở than thấm thía về tình trạng thiếu khởi sắc của đời sống văn nghệ Việt Nam. Nguyên Ngọc đặt dấu hỏi: «Sao văn học chúng ta không có tác phẩm lớn?». Tống Văn Công nhận xét: «Suốt 30 năm chống "văn hóa thực dân mới" làm cho văn học nghệ thuật chúng ta gần như dừng lại ở nội dung giáo điều và hình thức thể hiện của thế kỷ 19. Sau khi mở cửa, người Việt Nam mới nhận ra nền văn học nghệ thuật của mình yếu kém đến thảm hại! ***, 123».
Không chỉ dừng ở thời điểm «mở cửa» mà tính đến luôn cả giai đoạn hiện tại, một người như nguyên Viện trưởng Viện Văn Học Việt Nam Phong Lê cũng phải nói thẳng ra rằng “tình hình văn học từ năm 1995 đến nay chưa tạo được cái gì mới, mặc dù có nhiều cái lạ”. Nhưng nào phải chỉ thiếu cái mới không thôi đâu: đối với phê bình văn học chẳng hạn, Phạm Quang Đẩu lo sợ nó sẽ «tuyệt chủng» 256!
Về phần mình, Huỳnh Như Phương buông tiếng thở dài não ruột: «Thế kỷ XXI đã qua đi hơn một thập niên nhưng con đường của văn học Việt Nam vẫn còn dang dở. Những khuynh hướng nghệ thuật, dù trung tâm hay ngoại biên, đều dang dở. Những tài năng cũng dang dở. Nỗi khao khát một nền văn học đỉnh cao vẫn chưa được thỏa nguyện».
Có một cái gì ray rứt hơn cả nỗi buồn: một sự tức tối. Văn nghệ hết còn là chuyện đơn thuần thưởng ngoạn nhàn du, mà là thách thức của thế kỷ. Trong một bài báo mang tựa đề «Thấy Mạc Ngôn đoạt Nobel mà sốt cả ruột!», Trần Đăng Khoa tuyên bố không quanh co: «Sốt ruột và đau đớn. Tại sao cũng da vàng mũi tẹt như mình mà lão làm được nhiều việc lớn như thế, mà mình cứ bi bét mãi?» 259
Não trạng này không chỉ có mặt tiêu cực. Bởi tình trạng «bi bét» đó kêu đòi một phân tích thấu đáo, một ý thức trách nhiệm, một quy trình (procédure, theo nghĩa Chất lượng học [Qualitologie]) phản tỉnh. Phản tỉnh cho mọi người, cho tất cả những ai trong lãnh vực sáng tạo. Hơn bao giờ hết, thách thức của cái Đẹp ăn sát với đời sống: nó là tiếng nói vẳng ra từ tấm gương soi mặt mỗi ngày.
Chính vì vậy, trong định nghĩa về phẩm tính của trí thức nói chung, nhà khoa học Chu Hảo đã không quên nhấn mạnh đến «năng lực sáng tạo ra các giá trị mới của tri thức khoa học - công nghệ hoặc/ và văn hóa nghệ thuật 260». Muốn tạo ra giá trị mới, ít nhất phải dám khai phá. Thế nhưng, nếu dựa trên đánh giá thành quả năm 2012 của chủ tịch Hội Nhà Văn Hà Nội Phạm Xuân Nguyên, thì «ngay cả người trẻ cũng hiền. Rất ít người dám thể hiện, dám thử thách [...]. Trước hết phải cái lạ, cái khác, cái mới. Nhưng rõ ràng Văn học Việt Nam đang thiếu cái táo bạo, vẫn còn hiền quá 261». 
Hiền: phải chăng là do cái gốc thiếu tiết tháo hoặc «không có số phải tiết tháo» như cách nói rất mềm của tác giả «Bước qua lời nguyền» Tạ Duy Anh 262? Quanh đi quẩn lại, phải nhìn nhận là cái phẩm chất tiết tháo đó, cho đến giờ hình như chỉ nổi bật ở một số nhà báo - chứ không phải nhà văn, trừ vài ngoại lệ- đã cứu danh dự cho hai tiếng sĩ khí: những Điếu Cày, Huỳnh Ngọc Chênh, Huy Đức, Nguyễn Đắc Kiên.... Vâng, nhưng văn học không phải là sử học, thời sự hay chính trị, mà là một thứ nhân học toàn diện - đa thanh, đa sắc, đa thì - hơn. Nó đòi hỏi chẳng những sự dũng cảm mà nhất là tài năng nghệ thuật. Và trên mặt này, ít ai nói được- một cách cô đọng, rốt ráo, triệt để và đầy hình ảnh -  như Nguyễn Hoàng Đức 263 về căn bệnh trầm kha của văn học Việt. Hãy bình tâm đón nhận những lời tâm huyết của ông, cho dù đó là những sự thật mích lòng:
«Sự phản tỉnh của người Việt xưa nay vẫn rất yếu đuối vì dựa trên tâm trí văn hóa tiểu nông nhũn nhẽo cảm xúc, lý trí bấy bớt, thiếu đào tạo về kỹ năng tư duy phản tỉnh, quen tự hào vặt vãnh, rồi mắc chứng đố kỵ tủn mủn không muốn ai hơn mình, ngay cả con lợn nhà khác cũng không nên có quyền lớn nhanh hơn con lợn nhà mình. Dân trí chung đã thế, xét vào giới văn học, lại chủ yếu là các nhà thơ sản phẩm của đời sống nông nhàn, dong chơi vu vơ không có mục đích chính yếu nào của cuộc đời lớn hơn việc nhàn tản, nhưng vẫn tranh thủ vừa du hý vừa lượm lặt kiếm tý danh nhà thơ - nhà văn»
Cái nhức nhối nằm ở chỗ ông không nói chuyện cũ xưa mà là thời sự nóng hổi, và chỉ đích danh: 
«Mới đây, khi nhà văn Mạc Ngôn được giải Nobel, nhà thơ Trần Đăng Khoa có viết [...] thấy không mấy cuốn hay vượt hơn những tác phẩm của Mạc Ngôn như “Mông to vú nở” hoặc “Đàn hương hình”. Anh Khoa nói thế, có lẽ anh chưa đọc và quan tâm đến những tác phẩm như “Anh em nhà Caramadop” của Dostoievski, hay “Vụ kiện” của Kafka…; tôi nói thế không hề võ đoán mà dựa trên những hiện thực của văn chương Việt Nam»
Quả thế, người đọc không khỏi giật mình trước những gì được Nguyễn Hoàng Đức đem ra chỗ sáng:
«Để hiểu được những tác phẩm trên, người ta phải uyên thâm [...] Tôn giáo, thần học, công lý phổ quát chưa bao giờ là mối quan tâm của người Việt cả, vì người Việt sống chủ yếu theo “phép vua thua lệ làng”, và “chuông làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Phải nói mặt bằng tri thức của các cây bút Việt còn rất lẹt đẹt, thuyền thúng bơi khỏi ao làng, ra đại đương được vài chuyến, tưởng sẽ trưởng thành nào ngờ toàn đi mua ụ nổi, tầu cũ về kiếm mấy đồng lãi cò con. Làm sao hiểu được lộ trình của những con tầu phá băng đi tìm những vỉa quặng mới cho nhân loại?»
Từ đó, ông vạch rõ thêm những hạn chế trong tầm nhìn và cách nhìn của người làm văn học bấy lâu nay:
«Nhiều nhà thơ, đặc biệt thuộc thế hệ già Việt đừng cứ ngửa cổ lên là chẳng nhìn thấy vòm mái nào khác Nguyễn Du cả. Hãy xé cái vòm ấy ra để nhìn thấy bầu trời đầy sao lý tưởng của nhân loại. Văn chương gốc của Tầu còn ở mức tả thực, kinh nghiệm dân tộc, chưa bao giờ nhắm đến lý tưởng cao vời của nhân loại phổ quát, thì bản sao phát sinh từ bản gốc đó có được bao nhiêu ý nghĩa mà cứ nhìn ngắm nghía suýt xoa hoài không chán vậy! Để có một nền văn học tiến bộ xứng đáng chúng ta cần phải có một cách nhìn mới»
Cái nhìn mới đó, ông đề nghị ta nên học hỏi ở cách những khuôn mặt lớn Trung Hoa đã dám thẳng tay chỉ trích chính nước họ, ví dụ như:
<< 1. Tôn Trung Sơn, lãnh tụ lập thuyết của Trung Quốc, có trình độ học vấn khá cao, bằng bác sĩ, biết tiếng Đức, tiếng Nhật, tác giả cuốn “Chủ nghĩa tam dân” đã phản tỉnh: Sách Trung Quốc chỉ rặt bạo lực và hận thù, càng đọc ít sách Trung Quốc càng tốt. Không đọc gì là tốt nhất.
2. Lỗ Tấn, được coi là cha đẻ của văn học hiện đại Trung Quốc, học vấn cao, biết nhiều ngoại ngữ. Ông phản tỉnh: người Trung quốc chỉ giỏi ăn thịt người. Câu phản tỉnh này bao hàm nghĩa rất rộng, giỏi ăn thịt người tức là trình độ còn dã man hoang rợ lắm, nói gì đến văn hóa hay văn học?...>> 
Để cập nhật luồng tư tưởng phê phán triệt để này trên đất láng giềng phương Bắc, Nguyễn Hoàng Đức đã trích dẫn Tàn Thuyết (Can Xue) 264, nữ văn sĩ nổi tiếng của họ hiện nay, qua một bài phân tích của bà nhan đề Tác phẩm vĩ đại trong mắt tôi, mà theo ông là « một cơ hội hiếm có khác khiến giới văn học Việt Nam soi lại mình, để thấy tầm vóc mình ở chỗ nào»:
«Bởi quá đề cao và sùng bái truyền thống của dân tộc mình (Trung Quốc), cho nên [...] đã không thấy được hoặc không có khả năng tiến sâu vào địa giới của tinh thần. Mà những tác phẩm này chỉ dừng lại cái gọi là “kinh nghiệm dân tộc”, “tả thực”. Và sức sống của chúng tất nhiên chỉ là sự ngắn ngủi và tạm bợ; cường độ phê bình về chúng cũng đáng ngờ.
[...] Những tác phẩm vĩ đại đều là những tác phẩm tự kiểm điểm, tự phê phán.
[...] Ngọn nguồn của văn học là ở phương Tây. Còn Trung Quốc, từ khởi thủy, văn học không được xem là sản phẩm tinh thần tồn tại độc lập. Văn học Trung Quốc từ xa xưa cho đến nay đều thiếu khuyết đặc trưng cơ bản nhất của văn học - đó là sự nhận thức tự giác về bản chất tự thân của chính con người [...]. Dù là tác phẩm vĩ đại trong số đó như Hồng lâu mộng thì ngày nay nhìn lại cũng đã quá lỗi thời rồi, bởi nó không đủ sức khiến người ta phải suy ngẫm và phấn chấn, mà sự miêu tả tâm lý cũng quá nông cạn thiển cận, nó không nói tới mâu thuẫn nội tâm, và giống như văn học từ thời thơ ấu của loài người [...]. Trong ý nghĩa này, văn học của đại lục đang đứng trong sự khủng hoảng, những tác phẩm khám phá nhân tính ở tầng sâu, nâng cao tính dân tộc chưa thực sự trở thành một trào lưu».
Tàn Thuyết còn cho rằng hiện tượng «rất nhiều nhà văn mới 40 tuổi đã bắt đầu thoái hóa, hoặc không viết nổi nữa hoặc viết qua quýt lừa dối người đọc» là do "tâm lý tự cao tự đại dân tộc mà ra". Và bà kết luận bằng những lời lẽ thật nghiêm khắc:
«Văn hóa của chúng ta đã phá hủy và đầu độc các thiên tài của chúng ta. Sự khiếm khuyết về tinh thần trong văn hóa Trung Quốc đã khiến cho văn học đại lục ngày nay không thể sinh sôi và phát triển được, giống như một đứa bé mang bộ mặt già nua, mãi mãi là một ông già lõi đời, mãi mãi tự mãn, khéo léo như một người thợ giỏi nhất thế giới; nhưng chỉ có điều không biết tự kiểm, không biết tự phê”. 
Động tác tự kiểm, tự phê đó chính là bước đầu tiên và có tính quyết định trong quy trình phản tỉnh. Nó phải được nối tiếp bằng những «công đoạn» cần thiết sau đó, theo trình tự một phương pháp luận (méthodologie) chặt chẽ - như thường được áp dụng trong khoa Tiếp cận thị trường -, bao gồm phân tích, đánh giá, định vị và đề ra chiến lược cho từng văn nghệ sĩ một, cũng như cho toàn bộ nền văn học nghệ thuật 265: biện pháp chẩn đoán và giải quyết vấn đề, y như cho một doanh nghiệp đang lao đao ở mép bờ khánh tận...
Song, đó là những gì không thuộc chủ đích những dòng này. Ở đây, ta sẽ chỉ nhìn lại những nhận định đáng lưu ý nhất của một số ngòi bút uy tín, về những nhược điểm của văn học nghệ thuật Việt Nam nói chung: họ đã can đảm thắp lên ánh lửa phê phán quý báu, nhưng tiếc thay vẫn chưa đánh thức được Nàng Tiên sáng tạo hãy còn mê thiếp giữa rừng văn. Điều đó không tùy thuộc ở họ, mà bắt nguồn từ những cội rễ sâu xa.
Từ truyền thống thiếu óc phê phán đến hiện trạng một nền văn nghệ không trí nhớ
Phẩm tính trí tuệ hàng đầu, nhưng hiếm thấy ở nhiều nền văn minh trong đó có Việt Nam - và vì thế đã gây bao trì trệ, mất mát và thậm chí tội ác -, là óc phê phán (esprit critique) 266. Nó không bẩm sinh, nhưng một khi được rèn luyện thì trở thành phản xạ tự nhiên cho mọi cơ thể trí thức trưởng thành, luôn biết phản biện - kể cả tự phản biện- một cách có hệ thống trước khi đi đến kết luận, biết khảo sát thấu đáo từng vấn đề dưới nhiều góc cạnh khác nhau để phân biệt đúng sai. Yêu cầu vì chân lý ở đây đòi hỏi phải có một "đạo đức trí tuệ" khe khắt, đủ sức "khách quan hóa" tối đa từng quan điểm của chính cá nhân mình hoặc của bất cứ ai - kể cả những bậc thầy - để khỏi bị lầm lạc. Nó là vị thần hộ pháp đặc biệt chở che cho những con người quá lý tưởng, dễ tin, khỏi bị mê hoặc bởi những "thần tượng", những khẩu hiệu "công bằng", "tiến bộ", của loài phù thủy diễn ngôn...
Óc phê phán là văn hóa của văn hóa, là tủy sống của sự mẫn tuệ, là kháng thể (anticorps) chống lại lối suy nghĩ một chiều và nhất là bệnh mù quáng ý hệ. Vì vậy, trên diễn đàn tranh luận báo chí năm rồi tại Pháp về chủ đề so sánh các nền văn minh chẳng hạn, triết gia Pierre-Henri Tavoillot 267 đã không ngần ngại khẳng định rằng phương Tây hơn nhiều xứ khác nhờ có văn hóa biết tự phê phán 268.
Đối với Việt Nam, óc phê phán là mắc xích quan trọng thiếu mất trong quá trình phát triển trí tuệ dân tộc 269 và do đó là lỗ hổng lớn trong «gien» suy tưởng của mỗi cá nhân. Thiếu chìa khóa mở cánh cửa tư duy hiện đại, chúng ta phải chịu cảnh đứng mãi bên lề chân lý: thiếu sáng suốt, cận tầm nhìn và do đó, để mất nhiều cơ hội lịch sử.
Sự thể chung như thế đã đành. Nhưng tệ hại hơn nữa, trong lãnh vực văn học, là thực tế này: từ nhiều năm qua, không ít những ý kiến xác đáng được đề xuất, gây tiếng vang trong dư luận, song vẫn chẳng làm thay đổi gì được bao nhiêu. Do người làm văn nghệ thiếu óc phê phán, không nhìn ra giá trị những lời chẩn bệnh dành cho mình chăng? Hay vì bản thân nền văn nghệ không thể nào tự điều tiết? Bất luận nguyên nhân thế nào thì hậu quả vẫn là một: sự sa sút, teo mòn của văn học nghệ thuật, tức là bầu sữa dưỡng nuôi - đồng thời là bằng cớ chứng thực - cuộc sống tinh thần, là óc tưởng tượng, là chuyển động chiều sâu trong tâm thức cộng đồng.
Trên thực tế, văn học chẳng những đã lão hóa mà - nguy hơn- còn như bị khoét thủng bởi một thứ bệnh Alzheimer nào đó. Bằng cớ là những phân tích sắc bén của Nguyễn Huy Thiệp - viết mãi từ cuối thập niên 80/ đầu 90 thế kỷ trước, được in lại trong tập Giăng lưới bắt chim 270 (giải thưởng lý luận phê bình của Hôi Nhà Văn Hà Nội năm 2006) - cũng đã tỏ ra vô tác dụng. Thậm chí, có nhà nghiên cứu - trong danh sách những tác phẩm chính về lý luận văn học ông đưa ra gần đây 271 - không hề nói tới cuốn sách này (mà chính Hoàng Ngọc Hiến đã long trọng đánh giá là "sự kiện văn học quan trọng", do "chính Hội Nhà Văn Việt Nam xuất bản", và là "một trong những việc làm sáng giá nhất của Hội Nhà Văn Việt Nam từ Đổi mới đến nay" [Nguyễn Huy Thiệp, sđd, tr.305]). Rất có thể, chỉ vì nhà nghiên cứu ấy không ưa «giọng điệu» của tác giả Tướng về hưu; nhưng thế thì giải thích sao đây, việc những lời lẽ ôn tồn, thuyết phục, của nhà thơ dân tộc Chăm Inrasara hết mình cổ võ cho sự cách tân văn học - đặc biệt trong quyển Song thoại với cái mới - 272, cũng bị bỏ quên nốt?
Và điều khó tưởng tượng- khó chấp nhận - nhất là một công trình xuất sắc và quan trọng hàng đầu như Lý luận và văn học (giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1991) 273 của Lê Ngọc Trà, cũng không thấy được nhắc tới. Chả lẽ đó là "hình phạt" - vào giờ này! - dành cho tác giả câu viết quá hiển nhiên  "bây giờ mọi thứ đều đã đa nguyên" ông để trên mạng từ cách đây cả mấy năm 274? 
Văn học nghệ thuật Việt Nam thiếu dưỡng khí từ lâu, điều đó ai cũng biết. Nhưng xuôi tay bỏ cuộc, hoặc hời hợt đánh mất chính mình - qua một thái độ đầy vẻ tự cao tự đại, coi thường những ý kiến phê bình, một mực "bế quan tỏa cảng" bất chấp những trần tình -, là một sai lầm to lớn có thể dẫn đến hiểm họa diệt vong, y hệt như trong lịch sử cận đại của dân tộc: một nền văn nghệ không trí nhớ là một thứ con hoang không gốc gác cội nguồn, vô phương tiến hóa.
Không trí nhớ cũng vì không muốn nhớ. Chẳng những đối với lý luận phê bình, mà cả với văn học sử: những bất công, nông cạn trong lối đánh giá "phải đạo" một thời - đối với Đông Dương Tạp Chí 275, Phong Hóa/ Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn 276, Nguyễn Văn Vĩnh 277-278 Phạm Quỳnh 279 v.v... -, may thay gần đây đã dần dà được sửa chữa, nhờ ý thức và sáng kiến đến từ xã hội công dân. Để khỏi đắc tội với tiền nhân, hổ thẹn với hậu thế. Để hàn gắn lại phần nào hiện tượng mà nghệ sĩ Pháp Việt Nhất Lý tâm đắc gọi là sự đứt đoạn văn hóa 280.
Nguyễn Đình Đăng
"Sự ra đời của chữ Quốc ngữ - Cái chết 
siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh" 278 
 
Hoa Phong Lan của Nhất Linh (28/10/1957) 276c

Đứt đoạn văn hóa, ở mức độ cá nhân, đồng nghĩa với sự chối nhận chính mình, là buông thả, là tự hủy. Nó dẫn tới những suy sụp tệ hại về nhân cách - đáng xấu hổ cho dân tộc -, khiến nhiều người phải ra tay "lập biên bản" - nói theo thuật ngữ quen thuộc của Inrasara (sđd) - trên mạng gần đây. 281-282
Trong lãnh vực thuần túy mỹ thuật, đứt đoạn văn hóa là thực chất sự để mất đẳng cấp mà Jean-Francois Hubert, thuộc hãng đấu giá nghệ thuật Christie's, đã thẳng thắn chỉ ra với nhiều tiếc nuối (bởi ông là một trong số rất ít chuyên gia nước ngoài về mỹ thuật châu Á còn "bênh vực" cho hội họa Việt Nam hiện nay): “Hội họa Việt Nam giai đoạn Trường Mỹ thuật Đông Dương đã tạo ra rất nhiều họa sĩ được thế giới biết đến, hơn hẳn các nước lân cận như Indonesia, Thái Lan, Campuchia, Lào, kể cả Trung Quốc và Nhật Bản [BĐH nhấn mạnh]. Cho đến nay tình hình ngược lại, nghệ thuật đương đại của các nước lân cận được thế giới biết đến nhiều hơn Việt Nam”. 283

Đó là một mất mát lớn. Bởi vì, nói như Phạm Vĩnh Cư 284, "nếu ta tính đến những cống hiến còn khiêm tốn của văn chương và những khó khăn trong sự trưởng thành âm nhạc bác học ở ta, thì có thể nói rằng những thành tựu cao nhất của hội họa Việt Nam cũng là những thành công cao nhất của nghệ thuật Việt Nam từ sau 1945".

Khi không còn sự tiếp nối, kế thừa, luân lưu tư tưởng giữa các thế hệ, thì nghệ thuật bị bứt gốc. Tại cuộc tọa đàm "Nghệ thuật đương đại tiếp cận di sản” do Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam tổ chức mới đây, các diễn giả cũng đã không làm gì khác hơn là nhấn mạnh trên những điều mà thế hệ các nghệ sĩ sau này dường như không mấy để ý, chẳng hạn việc "các bậc nghệ sĩ danh tiếng Việt Nam đi trước, có ảnh hưởng tầm quốc tế, đều có một nền tảng văn hóa di sản cực kỳ chuẩn mực". 285

Trong lãnh vực văn chương, Nguyễn Huy Thiệp còn đặt mốc cao hơn: người cầm bút phải "hiểu biết sâu sắc dân tộc"' không phải chỉ "theo lối một nghệ sĩ" - vì " điều đó sẽ hạn chế sức nặng tác phẩm"  - mà là "theo lối một nhà tư tưởng". Ông nhìn nhận việc này "đòi hỏi nhà văn một sức làm việc phi thường, một lòng dũng cảm phi thường, một sức chịu đựng phi thường" (Nguyễn Huy Thiệp, sđd, tr.32- 33). Đó là cái giá mồ hôi nước mắt phải trả để may ra có được những sáng tạo tầm cỡ.

Nghĩ cho cùng, giữa văn hóa thiếu óc phê phán và văn nghệ không trí nhớ có một mối quan hệ nhân quả: không đủ sức để tra vấn lịch sử và chính mình thì tác phẩm đương nhiên sẽ mang nhiều lỗ trống do thiếu tư duy, và - tệ hơn - những khoảng trắng do e dè húy kỵ. Cho tới nay, những người làm nghệ thuật (kể cả nhà văn) dường như đã tránh né hoặc chưa khai thác đủ quá khứ. Không phải thứ quá khứ ám ảnh hay ve vuốt. Cũng không phải thứ khuynh hướng hoài cổ hoặc tôn sùng quá đáng những thành tựu cổ điển (như quan điểm 284 cho rằng văn học hiện tai không thể nào sánh nổi với những Nam Cao, Vũ Trọng Phụng!).

Mà là thực tế này: những thử thách cùng cực của đất nước, những vết cắt đớn đau trên con người cụ thể, những tiếng kêu xé lòng từ mỗi mảnh đời «độc bản», tất cả dường như vẫn chưa thật sự được "cháy lên" trong tác phẩm, chưa hóa thân ra sắc màu kiệt tác.

Văn hóa, dù của cá nhân hay dân tộc, đều phải có hệ quy chiếu (référentiel). Do đó, một nền văn nghệ không trí nhớ sẽ chỉ tương đương với sự xóa sổ, chôn vùi sự kiện, kể cả những sự kiện sống còn: nó lười lĩnh, tùy tiện, không tìm tòi tra vấn, không học hỏi trau dồi. Tình trạng bông lông vô định đó khiến ta không thể nào không đặt vấn đề nguyên nhân và trách nhiệm.

Do thời thế khó khăn ư? Không hẳn vậy, bởi lịch sử nhân loại đã cho thấy những bằng chứng ngược lại: ví dụ trường hợp "dưới chính thể toàn trị ở nước Nga sau 1917, vẫn nảy nở những tài năng siêu đẳng, làm gương cho nhiều thế hệ đồng nghiệp noi theo" 284

Do thiếu đề tài ư? Không chắc, vì ta không thể coi nhẹ điều mà nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, với tư cách Phó Tổng thư ký thứ nhất Hội Nhà văn Á - Phi hiện nay, đã thổ lộ trong một cuộc phỏng vấn hồi đầu năm 286:  

"Nhiều nhà văn châu Âu chia sẻ với tôi rằng họ thèm khát hiện thực của châu Á - châu Phi. Con đường của các nhà văn trẻ châu Âu cũng khó khăn hơn vì hiện thực xã hội khu vực họ đang sống không có nhiều biến động, thử thách. Trong khi con đường dành cho các nhà văn trẻ châu Á - châu Phi vẫn còn rậm rì, thậm chí chưa có dấu chân người qua. Lợi thế tuyệt vời đó đang mời gọi các nhà văn trẻ Á - Phi". Nói rõ hơn, ông cho rằng "những xung đột về văn hóa, chính trị, kinh tế ở hai châu lục Á - Phi đang đặt ra rất nhiều vấn đề cho văn học và nhiều người tin rằng trong tương lai, khu vực này sẽ sinh ra những tác giả lớn. Văn học châu Á và châu Phi cũng sẽ được đọc nhiều hơn. Ngay cả tác phẩm của những tác giả Á - Phi định cư ở các nước châu Âu cũng sẽ được đọc nhiều hơn".

Do thiếu tài năng ư? Hình như đây mới là điểm mấu chốt. Là người trong cuộc, Nguyễn Việt Hà 287 đã tỏ ra rất chắc chắn:

"Văn học nói riêng cũng như nghệ thuật nói chung, chưa đồng hành được với đời sống là do nó thiếu tài năng chứ không phải là do vấn đề nó phản ánh [...] Còn nếu có điều gì cản trở chúng ta (tôi hiểu là tác phẩm) chưa có tác giả lớn thì đó không phải là lỗi của chúng ta. Bởi đơn giản đấy là ý Chúa".

Nhưng tài năng, dẫu có là ân sủng của Thượng đế, cũng tùy thuộc rất nhiều vào nỗ lực cá nhân. Không bằng lòng với những công thức có sẵn - dù là định lượng theo kiểu Thomas Edison ("Thiên tài là do 1% cảm hứng và 99% lao động") hay định tính theo cách Benjamin Franklin ("Thiên tài không rèn luyện thì như chất bạc còn nằm trong mỏ") -, Nguyễn Huy Thiệp, cùng một vài tác giả khác như Inrasara - ở những mức độ khác nhau -, đã ra công nghiền ngẫm kiếm tìm cho sự hoàn thiện của nền văn học Việt Nam bằng những lời lẽ xác đáng, chân thành và quyết liệt nhất. Ở đây, ta tạm thời không đề cập đến mảng văn học hải ngoai.

Những ý kiến tâm huyết về lối ra cho văn học

Trước hết, hãy nghe Inrasara phát biểu - từ thời điểm 2006 - về nhóm Mở Miệng, mà nhiều độc giả chỉ mới "tái khám phá" gần đây qua "vụ án" Nhã Thuyên: "Có thể nhận định rằng, sau Sáng Tạo những năm 60 của thế kỷ trước, Mở Miệng là nhóm thơ đầu tiên đặt dấu ấn rất đậm trong dòng chảy của thơ Việt. Chúng ta hy vọng năm khuôn mặt này làm nên cuộc cách tân lớn. Nhưng rồi họ cũng không thể. Tại sao?" (Inrasara, sđd, tr.256). 

Không trở lại những lý do và đề nghị giải pháp tác giả đưa ra, ta cũng thấy sự quan tâm và trân trọng của ông đối với thơ hậu hiện đại như vậy là đi trước rất nhiều người. Hãy đến ngay với ý kiến cơ bản nhất của ông, trong cách lý giải về sự trì trệ của văn học nói chung: "[...] phải có chiến lược vĩ mô, dài lâu và liên tục. Không chỉ nhu yếu phẩm mới cần tiếp thị, quảng bá… mà tác phẩm nghệ thuật cũng thế". Để nhấn mạnh ý nghĩa của việc dám mang "chí lớn", Inrasara mượn lời Italo Calvino làm đề từ cho một bài viết của mình : 

“Những dự án mang tham vọng quá trớn có thể bị chối từ trong nhiều lĩnh vực nhưng không thể bị chối từ trong lĩnh vực văn chương. Văn chương chỉ còn sức sống nếu chúng ta tự đặt ra cho chính mình những mục tiêu bất khả lượng đạt, vượt quá tất cả những hy vọng về sự thành tựu. Chỉ chừng nào các nhà thơ và nhà văn tự đề ra cho chính mình những công tác không có bất cứ ai dám tưởng tượng đến, thì văn chương mới đạt được tác dụng của nó...” (sđd, tr.48)

Ý chí và mục tiêu - rất "strategic marketing"- như vậy đã rõ; nhưng còn điều kiện sáng tác, và nhất là năng lực đòi hỏi ở người cầm bút, thì sao? Nguyễn Huy Thiệp đã cố gắng tìm cách trả lời qua gần 300 trang sách, với "bức xúc đổi mới [...] bộc lộ có khi còn mạnh mẽ và quyết liệt hơn trong những truyện ngắn và vở kịch" của ông, theo lời Hoàng Ngọc Hiến (Nguyễn Huy Thiệp, sđd, tr.292).

Về hiện trạng, với con mắt phê phán - là bước đầu tiên trong tiến trình phản tỉnh -, họ Nguyễn đã không ngại ngùng hạ bút: 

"Trong khu vực văn chương ở ta, trừ đôi ba người thực sự xuất chúng, còn nhìn chung văn chương của các cụ ta xưa và những nhà văn hiện đại ngày nay, so với nhiều dân tộc khác, phải thừa nhận là kém cỏi" (sđd, tr.31). Nếu nhìn cận cảnh, vẫn theo ông, thì "khoảng hơn chục năm trở lại đây, ở Việt Nam không có những nhà văn có phong độ, khí phách lớn. Đến ngay cả nỗi buồn cũng không phải là những nỗi buồn lớn" (tr.256).

Không chỉ có thế. Tình hình chung còn tệ đến nỗi họ Nguyễn phải dùng những tiếng nặng nề hơn, như để thét to lên cho hả dạ:
"Văn học Việt Nam gần đây mất đi khả năng tưởng tượng, lãng mạn, mơ mộng và nhiệt huyết sống. Nó trở nên thực dụng, ê chề, lọc lõi, oái oăm, đôi khi đểu cáng" (tr.257).
Có điều, cái nghịch lý cho tất cả chúng ta là - bất luận hoàn cảnh ra sao và ở thời điểm nào - ta vẫn phải gìn giữ cái tình yêu tuyệt đối ấy. Bởi lẽ, ngay cả ở thơ - xưa nay vốn là niềm hãnh diện của số đông người Việt - Nguyễn Huy Thiệp cũng phát hiện ra là chẳng có gì: "Tôi không dám khẳng  định rằng một dân tộc đi đâu cũng thấy tiếng thơ véo von là một dân tộc suy đồi nhưng bất hạnh là chắc chắn" (tr.41).
Có lẽ không một ai khác, từ trước đến nay, dám nói như vậy. Và ông giải thích: "Khi hình thức (thơ) bình dân được tư tưởng (thơ) bình dân nhân lên nhiều lần theo cấp số nhân (giống như cơm bình dân, nhà nghỉ bình dân) thì tình trạng cả nước làm thơ, thiếu vắng một đẳng cấp ngoại hạng, thượng lưu thì đấy là một bi kịch, một sự cay đắng vô cùng cho văn học" ( tr.164). 
Chúng ta đã nhầm lẫn quá lâu trong những ảo tưởng. Điểm mạnh của những phát biểu như trên là giúp đặt lại toàn diện vấn đề: sự kém cỏi bắt nguồn từ tình trạng thiếu căn bản, yếu tư duy và nghèo trực giác (họ Nguyễn gọi đó là khả năng "thấu thị" của "thiên nhãn").
Về những điều kiện chủ quan tối thiểu cần thiết cho người cầm bút, Nguyễn Huy Thiệp đã khéo léo trích dẫn nhiều lần Lê Quý Đôn trong các tiểu luận, để làm nổi bật những đòi hỏi khắt khe cơ bản được xác định từ lâu bởi bậc danh tài dân tộc:
"Văn học không phải là trò chơi, là câu chuyện phiếm. Muốn văn hay phải hiểu biết và từng trải nhiều. Văn chương chữ nghĩa không phải là lời nói suông. Trong bụng không có ba vạn quyển sách, trong mắt không có núi sông kỳ lạ của thiên hạ thì không thể làm văn được" (tr.47). 
Ý thức rõ như vậy nên họ Nguyễn đã buột miệng: "làm người thật khó, làm một nhà văn càng khó hơn" (tr.83). Đi xa hơn nữa trong lịch sử minh triết, ông mượn lời Khổng Tử làm khởi điểm để yêu cầu nhà văn trước hết phải chính danh:
"... Hình như nghĩa "chính danh" của một nhà văn là toàn bộ thần thái tạo nên hình ảnh tác phẩm của anh ta [...]. Tôi muốn nói là nhà văn cũng phải viết trên một cơ sở lý luận, một quan niệm nhất định [...] tính bản thiện là hạt nhân cơ bản tạo nên con người [...]. Có lẽ, điều kiện để cho mọi người đạt tới chính danh chỉ đơn giản có vậy thôi" (tr.22-23).
Nhưng đặc sắc nhất trong những góp ý của Nguyễn Huy Thiệp có lẽ là đòi hỏi về sự chính xác:
"Ở ta, tôi nghĩ rằng phải hết sức chú ý đến yếu tố chính xác trong các giá trị thẩm mỹ văn chương. Chính xác ở ngôn từ thể hiện. Chính xác ở bản thân sự kiện. Chính xác ở tư tưởng. Thậm chí chính xác ở thể loại. Chính xác ở chức năng văn học. Văn học nước ta mới hình thành chưa được 100 năm. Đã đến lúc văn học phải bước những bước chính xác trên hành trình gian khổ của nó. Chính xác cũng là một trong những điều kiện thiết yếu của cái đẹp" (tr.35).
Về vai trò và cách tiếp cận của nhà văn, họ Nguyễn khẳng định, với một sự sáng suốt hiếm thấy, nhất là khi đối chiếu với tình hình những chuyển biến gần đây:
<<Nhân dân đang cần những cuốn sách giúp họ nhận thức lại mình [...] 
Nhân dân chẳng cần nhà văn phải chỉ bảo "hướng tiến lên" cho họ thế nào, tự họ sẽ đi tìm lấy>> (tr.34).
Muốn thế thì, theo quan điểm của ông khi đề cập tới thi ca, "chỉ có đối mặt thẳng thắn, lý giải nó bằng triết học, nhà thơ mới tìm ra được một giải pháp tương đương, có tính chất toàn bộ nhằm chống chọi và giữ được thế cân bằng với cái ác trong bản chất sự sống" (tr.39). Chữ "nó" trong bài viết chỉ "tính thiện", nhưng nếu ta có thay bằng "cuộc đời" hay "thân phận", thì  ý nghĩa thâm trầm của câu văn vẫn nguyên vẹn.
Hình như Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn nhấn mạnh nhiều nhất đến tầm quan trọng của triết học. Ông nói không quanh co với thi nhân: 
"Cần phải tiến tới triết học. Đấy là đích đi đến của nhà thơ. Nhưng muốn tiến tới triết học, nhà thơ bắt buộc phải vượt qua nhịp cầu tâm lý học. Nhà thơ - nhà tâm lý không thiếu việc làm: anh ta liên tục quan sát, liên tục nhận xét và liên tục tìm cách cải thiện các mối quan hệ để thể nghiệm những nhận xét ấy" (tr.40-41).
Thậm chí, nếu phải chọn thì, theo ông, "nhà thơ - nhà triết học dứt khoát phải biết gạt các cảm xúc sang bên để nghiền ngẫm về bản chất" (tr.40).
Quan niệm triệt để này có thể làm ta ngạc nhiên, nhất là đối với thi ca vốn là lãnh địa muôn đời của cảm xúc: phải chăng đó chỉ là một cách nói của tác giả, trước sự tràn ngập của cái khả sắc (le sensible), nhận chìm luôn cả cái khả tri (l'intelligible) quý báu? 
Đừng quên rằng cái họ Nguyễn gọi là triết học hoàn toàn không có tính suy biện (spéculatif) lý thuyết khô khan mà hừng hực hơi thở cuộc sống. 
Bằng chứng thứ nhất là, ngay khi viện dẫn Lê Quý Đôn luận về "đạo" ("Vô luận cổ văn hay kim văn, tuy thể loại và câu văn có khác nhau, nhưng đại để đều phải có nội dung là đạo"), ông cũng uốn nắn theo hướng lập trường rất duy thực giới (le réel) của mình, như một tuyên ngôn văn học gãy gọn, chắc nịch và sâu sắc:
"Ta cũng có thể coi đạo như một mạch sống. Cảm nhận được mạch sống của thời, thể hiện được bằng con chữ, đấy là văn chương thần thánh" (tr.55).
Bằng chứng thứ hai là khi chê trách Chế Lan Viên, ông có nói rõ: 
"Chế Lan Viên chỉ băn khoăn về các chân lý hình nhi thượng mà thôi. Hỡi ơi, ngoài những chân lý hình nhi thượng, đời [BĐH nhấn mạnh] còn có bao điều khác nữa" (tr.82).
Bằng chứng thứ ba, hết sức cơ bản: Nguyễn Huy Thiệp có lẽ là người đầu tiên trong văn học Việt Nam nói đến tín ngưỡng với cuộc sống.
Ông quả quyết: "đối với nhà văn không có lòng tín ngưỡng với sự sống thì những trang viết của anh chỉ có thể dừng ở mức độ viết kiếm ăn thôi chứ nâng lên được tầm văn học thì còn lâu mới với tới [...] cuối cùng trên từng trang viết nhà văn phải dần dần tạo cho mình một quan niệm tín ngưỡng ít nhất ra cũng với mình. Tín ngưỡng đó hướng về đấng tối cao của sự sống" (tr.19).
Nguyễn Huy Thiệp nhiều lần nói tới "tín ngưỡng", "đức tin" (tr.36), rồi "kinh nghiệm tâm linh" (tr.40)..., như một cách phản ứng sau những lầm lạc của chính mình (?) và của thời đại. Ông thú nhận: "Chúng ta đã quá tự tin, vô thần khi coi nhẹ mặt tâm linh trong đời sống con người. Điều ấy thật khủng khiếp: ô trọc và vô văn hóa sẽ ngự trị khắp nơi" (tr.52).
Phát biểu như vậy, họ Nguyễn đã cùng lúc công nhận hai điều. 
Một là, về lập trường, «ý thức tín ngưỡng, hướng thượng, vươn lên sự cao cả, chân lý, cái đẹp, sự tuyệt đối phải là những hòn than ủ đỏ trong tác phẩm nhà văn» (tr.34).
Hai là, về cứu cánh, "thơ là kết quả của trạng thái sáng tạo trong đó Sự Thật biểu hiện. Quan niệm ấy na ná như một quan niệm tôn giáo nhưng thật ra không thể hiểu khác được" (tr.41).
Quan niệm này khá thú vị, bởi nó dẫn tới sự gặp gỡ tột cùng với cái siêu nghiệm (transcendance). Trong văn chương Việt Nam, tuy ít nhiều cũng đã có điểm xuyết đôi nét siêu nghiệm - từ vẻ đẹp huyền thoại của câu chuyện Từ Thức đến những cảm xúc mê say của một Tú Uyên trong Bích Câu Kỳ Ngộ-, nhưng rồi mạch cảm hứng ấy dường như đã bị cắt đứt, phải ngừng lại ở một Bướm Trắng, hay Dòng Sông Thanh Thủy, là những tác phẩm tiêu biểu mà chỉ có một số hiếm hoi nhà phê bình đã công tâm nêu rõ giá trị mỹ học. 288-289
Trong một chừng mực nào đó, công trạng lớn nhất của Nguyễn Huy Thiệp, ngoài những tác phẩm để đời, có lẽ là sự thấu cảm - bằng trực giác - và ý muốn khôi phục vai trò khai mở của tính siêu nghiệm - mặc dù ông không gọi đích danh thuật ngữ này - cho văn học Việt Nam.
Điều đó bao hàm, như một hệ luận, những đòi hỏi gắt gao đối với mọi dự án sáng tạo, đặc biệt ở thời buổi hiện nay. 
Về phía nhà văn, theo họ Nguyễn, thì: <<Có lẽ đã đến lúc người ta phải nghĩ đến một "typ" nhà văn khác: lớp nhà văn trí thức của một xã hội phát triển. Họ viết văn có bài bản, có lý luận, lý lẽ chứ không mò mẫm>> (tr. 257).
Về phía nền văn học thì: "Khi văn học chưa đạt được tới ngưỡng của tri thức văn hóa của thời đại nhà văn đang sống thì văn học không thể có sức mạnh được" (tr.19 ).
Trên phương diện này, Inrasara cũng có nhận xét tương tự đối với thi ca: "Khủng hoảng lẩn quẩn mãi trong vòng bế tắc nghề nghiệp với phản kháng mang tính cục bộ, nhất thời, chưa một lần được chúng ta đẩy tới cấp độ cao hơn. Thì làm thế nào tư tưởng chúng ta có thể lớn? Nền thơ tiếng Việt có thể lớn? (Inrasara, sđd, tr.89). 
Ông hô hào: "... chúng ta cần phát biểu nhiều hơn nữa, có nghề [BĐH nhấn mạnh] hơn nữa. Để có thể khai mở một trào lưu sáng tác, một trường phái văn chương. Các ý kiến cảm tính, cảm nhận mơ hồ hay quan điểm còn rời rạc… cần được đúc kết và nâng cấp thành một hệ thống lý thuyết. Làm nền tảng cho sáng tạo chuyên nghiệp" (Inrasara, sđd, tr.15). 
Nhưng hệ thống mới nào đây? Khác với Nguyễn Huy Thiệp, Inrasara cởi mở, nồng nhiệt với cái đương đại (họ Nguyễn cho «đương đại là suy đồi» [NHT, sđd,tr.183]), và nhất là những khuynh hướng hậu hiện đại mà ông say sưa giới thiệu, cổ võ một cách chân tình. Ông không ngớt trích dẫn những Mary Klages («hãy chơi với cái vô nghĩa» [Inrasara, sđd, tr.190]), Mikhail Epstein (“Hậu hiện đại tháo gỡ vấn đề tha hóa bằng cách tháo gỡ luôn hiện thực” [tr.189]) v.v..., nhưng - đồng thời - sự «lương thiện trí thức» đã khiến ông không thể không nhìn nhận giới hạn mỹ học của nó («... dù Mở miệng đóng góp vào kho tàng văn chương Việt lượng ngôn từ mới, húy kỵ đáng kể nhưng, nếu chúng ta từ chối các từ cao sang, ngôn ngữ thơ của thi sĩ trẻ sẽ nghèo nàn biết bao. Vô hình trung chúng ta tự buộc tay chân mình, chặt gẫy đôi cánh chưa có gì là khỏe khoắn của mình, cuối cùng tự rơi vào một thế bí hệt thế hệ hôm qua, nhưng ở chiều ngược lại: đối xử phân biệt với ngôn ngữ quý phái!» [tr.89]; <<Một số “tác giả” còn quyết liệt đẩy quan niệm thơ về phía cực đoan hơn nữa! Các khái niệm: hay, đẹp, có hồn, rất thật…, cần phải bị biến mất mà thay vào đó là những khái niệm mới: vui, buồn cười, quái chiêu… [...]. Một không khí tạp nham, hỗn độn, rối mù mù nhưng… vui vẻ!>> [tr.213]).
Mặc dù những thành tựu rất hứa hẹn ghi nhận mới đây trong lãnh vực truyện hậu hiện đại 290, sự dè dặt của Inrasara  xác nhận - ở trường hợp Việt Nam - cơ sở thực tế của những kết luận về sự bế tắc - ở phương Tây và có lẽ trên cả toàn cầu - của «giải pháp hậu hiện đại», như đã phân tích (Chương 2***). Nhất là, đến đây, ta còn có thêm một lẽ rất hiển nhiên này: nếu «hậu hiện đại tháo gỡ  hiện thực», thì  để làm thêm được cái gì sau đó?
Chính Heidegger, cha đẻ của thuật ngữ thời thượng «tháo gỡ (giải cấu trúc)», cũng đã giải thích cặn kẽ rằng thao tác này của chủ thể chỉ có mục đích «trở về nguồn» để nắm bắt cho được «những ý niệm uyên nguyên đích thực» 291.
Vậy vấn đề là ta có khám phá hay phát minh ra được ý niệm mới nào không.
Nhưng muốn tiến tới đó, mà chỉ biết miệt mài "có công mài sắt" trong một góc riêng, thì không đủ. Chưa nói đến tài năng, người làm văn nghệ còn phải ấp ủ biết bao thứ tình cảm lớn: cái tham vọng canh cánh bên lòng, cái ám ảnh cào xé tâm tư, cái chất liệu nóng bỏng, những thôi thúc mãnh liệt, những cảm hứng diệu kỳ đó, lấy ở đâu ra, nếu không phải là ngay giữa lòng đời, trên mảnh đất thiêng liêng đã nhận từ cha ông và sẽ còn phải trân trọng trao lại con cháu? 
Nguyên Sa, từ lâu, đã diễn tả mối trăn trở ấy với tất cả bầu máu nóng và chiều sâu tâm hồn, mà khoảng cách 45 năm qua dường như không hề làm mất thời gian tính hay cường độ suy tư: 
"Những sa đọa chính trị đó bây giờ đã tan thành hơi thở, lẩn trong nước uống, chìm trong món ăn. Chỗ nào cũng đầy rẫy những tên lừa bịp lộn sòng [...]. Đó là cái số phận chung [...]. Cho nên, trong nước mẹ khổ đau này, văn nghệ không thể không bị ám ảnh bởi lo âu hơi nóng sẽ vĩnh viễn trở thành băng giá được. Phải ôm lấy những khổ đau ấy [...]. Phải giải quyết số phận đó. Bởi vì đó là số phận của văn nghệ. Hơi nóng đó bay đi văn nghệ cũng chẳng còn. Đóng góp vào việc giải quyết những khổ đau của dân tộc bằng tác phẩm (BĐH nhấn mạnh) là đóng góp vào việc giải quyết số phận của chính văn nghệ".
Và nhà thơ kết thúc, dứt khoát như một lời tuyên thệ:
“Bây giờ chưa có gì cả. Bây giờ chỗ đứng của văn nghệ cũng như của dân tộc là tảng đá sắp rời khỏi núi. Là căn bệnh dịch hạch đang lan tràn trên đất nước. Dịch hạch chết chóc. Dịch hạch nghèo đói. Dịch hạch tan nát. Văn nghệ phải làm khỏe chính nó bằng cách làm khỏe dân tộc. Bằng cách cúi đầu hôn lên những vi trùng tàn phá thân thể dân tộc. Đó là con đường, mặc dầu đe dọa, bằng kiên trì, tin tưởng và tình yêu, tôi sẽ tiến tới”» 292
Đó cũng là con đường đưa đến - hoặc đúng hơn, trở về - siêu nghiệm, một siêu nghiệm tại thế 293 theo nghĩa của Fernand Dumont như đã đề cập kỳ trước***.
Vòng tròn như vậy đã được khép kín, như thân phận con người, giữa trần gian, một trần gian dẫu không lung linh thần thoại cũng chứa đựng vô vàn hiện thực hấp dẫn vì đầy cái bất ngờ, vô định, cái bất khả quyết (indécidables) như định lý Gödel 294 nổi tiếng đã chỉ ra bởi lẽ, một đằng, bất cứ thực thể dạng thức hoá (formalisé) nào - dựa trên một hệ công lý [toán học] (axiomatique) hoàn chỉnh chặt chẽ đến đâu chăng nữa - cũng chứa đựng những «biểu đề» (énoncé) không thể chứng minh được với chỉ riêng hệ công lý [toán học] nội tại, huống hồ chi cuộc đời; đằng khác, do bất cứ thực thể nào cũng mang tính bất toàn (incomplétude) nên điều kiện hoàn thiện tối thượng (ultime) cho mọi hệ thống là sự vươn mở tới cái nằm ngoài nó: đây là một yếu tố tạo cơ sở luận lý cho sự hiện hữu và tính tất yếu của siêu nghiệm, mà ta đã coi như một định đề (postulat) ở trên (Chương 2 ***).
Như vậy, những tiếng nói thiết tha của một số tác giả uy tín - từ nhiều phía và ở nhiều thời điểm khác nhau - đã góp phần xác định một quan điểm đáng mong ước cho nền văn học nghệ thuật Việt Nam nói chung, trong thời “bá đạo” (tr.25), “mạt pháp” (tr.183) - như Nguyễn Huy Thiệp thường gọi -, giữa một xã hội được ông lý giải là “không có những tác phẩm văn học hay, không có những tác phẩm văn học giá trị, nghĩa là nhân tính mất đi” (tr.264). Ông tuyên bố:
“dân chủ tức là vương chính, khủng bố tức là bá chính [...],   Tiêu chuẩn đầu tiên của văn minh là tính khoan dung và sự phi bạo lực”; “không khí dân chủ cộng với chỗ dựa kinh tế lành mạnh là những cơ sở để tiến tới một thể chế chính trị vương đạo. Chỉ có một thể chế chính trị vương đạo mới làm cho bản tính con người phát triển hết” (tr.25).
Tất cả gần như đồng nhất với nhận định trong suốt của Bùi Ngọc Tấn rằng “Tiểu thuyết không thể tương hợp được với thế giới toàn trị” 295 và đồng thời cũng nêu lên vấn đề lương tâm, đạo đức đối với nghệ thuật. Trên mặt này, Nguyễn Huy Thiệp khẳng định không chút do dự, như một thứ kim chỉ nam cho kẻ sĩ mọi thời:
“Trinh khiết giữa cuộc đời ô trọc và phàm phu, hướng tới sự sống, tuyệt giao với mọi biểu hiện suy đồi theo tôi, đấy chính là đạo đức rồi. Chỉ cần một thứ để làm nên bất tử thôi: Tác phẩm” (tr.42).
Cũng như Tình Yêu, cái Đẹp là thiên sứ đến với nhân gian để làm thăng hoa cuộc sống và ban cho con người chiếc đũa tiên vượt thoát sự tầm thường.
Nó là khát vọng khôn nguôi trong tâm can khả sắc*, là ám ảnh sáng tạo không ngừng của nỗ lực tư duy**, là phần thưởng cao quý cho khách tao nhân sau những thử thách cam go, như hành trình “tìm tới cội nguồn, cái gốc gác, cái động mạnh chủ của cuộc sống” - theo cách nói của Bùi Ngọc Tấn 295 - để thấu hiểu, khai phá, diễn đạt và hiến dâng tơ thắm cho đời.
Cuộc sống và con người, những huyền nhiệm, những thế giới vô biên đầy ẩn số! Hegel rồi Merleau-Ponty đã lần lượt cho ra đời Hiện tượng học của tinh thần và Hiện tượng học của tri giác; Michel Henry đã viết cả ngàn trang Hiện tượng học thân xác và đời sống 296: nhưng triết học vẫn chưa - và có lẽ sẽ không bao giờ - xác lập được một Hiện tượng luận đầy đủ cho con người toàn diện.
Bên cạnh đó, nghệ thuật là những đóm sáng diệu kỳ lóe lên trong quá trình sáng tạo từ thuở bình minh của nhân loại 297. Hơn thế nữa, nó hiện diện thường trực. Bởi vì, chẳng những “là hình thức của tư duy, thiếu nó ý thức con người sẽ không tồn tại, cũng như không thể tồn tại ý thức với chỉ một nửa bán cầu đại não” như Yuri Lotman đã nói 298, nó còn là chứng tích ý nghĩa nhất xuyên qua các thời đại, như nhận xét sắc sảo của Claude Lévi-Strauss, mà Đặng Tiến 299 đã nhắc đến trong bài viết kỷ niệm sinh nhật 100 tuổi của nhà nhân chủng học lừng danh này để ta cùng suy ngẫm:
“Tình cờ, xóa đi mười, hai mươi thế kỷ lịch sử, kiến thức chúng ta về bản chất con người cũng không thay đổi bao nhiêu. Mất mát không bù đắp lại được là những tác phẩm nghệ thuật mà những thế kỷ kia đã tạo nên. Vì con người chỉ khác nhau, thậm chí chỉ tồn tại, qua tác phẩm của mình. Như tượng gỗ sinh ra từ thân cây, chỉ có tác phẩm nghệ thuật mới chứng tỏ được hiển nhiên, rằng qua thời gian giữa người với người, có cái gì đó đã thực sự xảy ra».
Cái Đẹp đã thực sự đến. Và sẽ mãi mãi đồng hành với ta, bao lâu cuộc đời còn giữ trọn sắc màu nhân tính.

Rồi, bằng một "tông" trầm đến độ nghe như nghẹn lại, họ Nguyễn bộc lộ những thao thức của mình:

"Có lẽ chưa bao giờ dân tộc Việt Nam lại cần đến các nhà văn có tư tưởng sáng suốt như trong thời điểm hiện nay [...]. Chúng ta cần phải tỉnh táo nhận ra rằng tình trạng hiện nay của dân tộc ta là thê thảm. Tôi không muốn nói đến tình trạng thiếu thốn vật chất mà muốn nói đến thế giới tinh thần của họ [...]. Tôi đã thấy sự nghèo đói nhưng tôi không sợ. Tôi đã thấy sự sai lầm trong công việc ở nhiều nơi nhưng tôi không sợ. Tôi chỉ sợ khi con người không còn sự tôn trọng lẫn nhau, không còn lòng dũng cảm, không còn đức tính trung thực và như thế sẽ không đào đâu ra được tình yêu tuyệt đối" ( tr.33-34).

Rõ ràng là hết sức thời sự, những dòng tác giả viết từ ..1989!

Chú thích:
* Xem Phần I : http://www.vanchuongviet.org/

** Xem Phần II: http://www.vanchuongviet.org/

*** Xem Phần III (kỳ1: http://vanchuongviet.org/
kỳ 2: http://vanchuongviet.org/
215 Lữ Phương, Ngày 30/4 khởi đầu một trào lưu bất đồng, http://www.bbc.co.uk/
216 Đến nỗi một người như Trần Bạch Đẳng đã từng đặt điều kiện là Phạm Duy phải… “tự sát đi, chúng ta sẽ xét”! (Báo SGGP, 12/2/1989, tr.2; trích dẫn bởi Kiến Văn, Đoàn Kết, số tháng 3/1989, Pháp): xem chứng từ  của Nguyễn Ngọc Giao: http://www.diendan.org/
217 "Coi thường di sản sẽ phải trả giá”, http://petrotimes.vn/news/vn/; xem thêm: Phạm Xuân Nguyên, Bắn vào di tích bằng súng gì?, http://phapluattp.vn/
218 http://vi.wikipedia.org/
219 Hoàng Văn, Có một Viện Trần Nhân Tông ở Đại học Harvard (Hoa Kỳ), http://vanhoanghean.vn/; Vũ Quần Phương, Trần Nhân Tông: Yêu đời và siêu thoát, http://www.vanhoanghean.com.vn/; Nguyễn Huệ Chi - Trần Thị Băng Thanh, Sự thống nhất giữa hoàng đế, thi nhân và thiền gia trong một nhân cách - Trần Nhân Tông  (27 Tháng 8/ 2012), http://www.vanhoanghean.com.vn/
220 Mai Khắc Ứng, Gặp Nguyễn Trãi bên pháo đài Quebec, http://vanhoanghean.vn/; Thơ Nguyễn Trãi vòng quanh nước Mỹ, http://www.tienphong.vn/
221 Giáp Văn Dương, Người Việt trẻ tự đốt đuốc mà đi, http://www.giapvan.net/
Phải chăng ta có thể xem tuổi trẻ mô tả ở đây là tuổi trẻ đa số thường ngày, tồn tại cùng lúc với một tuổi trẻ siêu tuyệt mà hiện thân là những Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, Trịnh Kim Tiến, theo “quy luật” cá nhân ưu tú của lịch sử?
222 Nguyễn Thị Từ Huy, Máu và nước mắt từng ngày vẫn đổ, http://quechoa.vn/;
Xem thêm: http://boxitvn.blogspot.co.uk/
223 Phạm Thị Hoài, Cú giãy cuối cùng của nền Phê bình Chỉnh huấn ,http://www.procontra.asia/; Khước từ thỏa hiệp để lựa chọn tự do, http://www.procontra.asia/
224 Luận văn Đỗ Thị Thoan, một Nhân Văn Giai Phẩm thứ hai (RFI P/v nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, 5-8-13);  Xem thêm: Nguyễn Hưng Quốc, Vụ án Nhã Thuyên, https://www.facebook.com/
225 Khi văn học tự cho mình quyền sang trọng, http://laodong.com.vn/
226 ViLi mang đến cuộc tình tự văn chương - âm nhạc, http://giaitri.vnexpress.net/
227 Phạm Xuân Nguyên, Linh là lạ, http://giaitri.vnexpress.net/
228 Đoàn Cầm Thi (Diệp Anh phỏng vấn), Đưa văn học Việt Nam sang Pháp: Phiêu lưu và kỳ vọng, http://www.tienphong.vn/ và mới đây: http://thethaovanhoa.vn/
229 Nhà văn Bùi Ngọc Tấn đoạt giải thưởng Henri Queffélec của Pháp (Mặc Lâm pv, 15/4/2012), http://www.rfa.org/; Ngoài ra, "Chuyện kể năm 2000" của Bùi Ngọc Tấn cũng mới được dịch và xuất bản ở Pháp (http://www.diendan.org/)
230 Nguyễn Quân, Nghệ thuật đương đại sống với cộng đồng, http://tiasang.com.vn/
231 Hoàng Hưng, Mỹ thuật và chính trị ở Việt Nam hiện nay, http://www.diendan.org/
232 Đào Mai Trang, Một làn sóng nghệ thuật mới đang đến, http://tailieu.vn/
233 Nghệ thuật đương đại từ không đến có hộ khẩu (04/10/2012), http://www.thanhnien.com.vn/
234 Theo nguồn  http://www.qdnd.vn/: «Dưới sự tài trợ của Quỹ Trao đổi và phát triển văn hóa thuộc Đại sứ quán Đan Mạch tại Hà Nội, cuốn sách tiếng Anh “Vietnamese contemporary art 1990-2010” (Nghệ thuật Việt Nam đương đại 1990-2010) của hai nhà nghiên cứu Bùi Như Hương và Phạm Trung đã được NXB Tri thức ấn hành»
235 Trinh Nguyễn, Sứ giả của nghệ thuật đương đại, http://www.thanhnien.com.vn/
236 NS Đào Anh Khánh trình diễn tác phẩm "Cây đời", http://thethaovanhoa.vn/
237 Đào Anh Khánh gãy chân vẫn dựng "Cây đời", http://thethaovanhoa.vn/
238 Đào Anh Khánh sau "Cây đời": Trời Đất sẽ phù trợ giấc mơ của anh, http://thethaovanhoa.vn/
Tuy nhiên, cũng cần xem thêm: Nghệ thuật cũng phải tôn trọng lề thói ứng xử, http://sgtt.vn/
239 Nghệ thuật đương đại hội tụ về “đất’’ Mường, http://thethaovanhoa.vn/; xem thêm: Đưa nghệ thuật đương đại về “nơi hẻo lánh”, http://thethaovanhoa.vn/
240 Mai Chi, Nghệ thuật đương đại 2011: Quyết liệt và bảo thủ( 23/01/2012), http://thethaovanhoa.vn/
241 “Thổi còi” nghệ thuật đương đại, http://www.thanhnien.com.vn/
242 Trình diễn nghệ thuật đương đại hay những trò lố,  http://laodong.com.vn/; xem thêm: "Sốc" với màn w.c.doc và những đồn thổi, http://www.baomoi.com/
243 Thế mà là nghệ thuật ư? Dễ dãi vậy ư? (20/ 12/12), http://soi.com.vn/; xem thêm: Nghệ thuật đương đại dễ vậy sao (01/01/2013), http://thethaovanhoa.vn/
244 Trình diễn nghệ thuật đương đại hay những trò lố, http://laodong.com.vn/
245 Những lệch lạc về thẩm mỹ trong nghệ thuật biểu diễn (04/01/2013), http://www.nhandan.com.vn/
Riêng về cách ăn mặc thiếu thẩm mỹ của các ca sĩ ở Việt Nam, chúng tôi đã có dịp đề cập trong một bài viết ởhttp://www.vanchuongviet.org/
246 Huỳnh Thị Nga, Phê bình lý luận mỹ thuật: Hổng, http://laodong.com.vn/
247 Laurent Colin (Hồ Như Mai dịch), Nghệ thuật đương đại Việt Nam có (còn) gì để nói? (Bản tổng hợp, không hình ảnh, 20. 02. 12), http://soi.com.vn/
Xem thêm bài tiếng Pháp ở - Carnets du Vietnam, No 33, Avril 2012, p. 30: L’art contemporain vietnamien a-t-il (encore) quelque chose à dire? par Laurent Colin
248 Nora A. Taylor,  Sao “Nghệ thuật đương đại Việt Nam có (còn) gì để nói” lại phải quan trọng thế?, http://soi.com.vn/
249 Ngại hoạt động mỹ thuật lộ bí mật, an ninh! (15/01/2013), http://phapluattp.vn/
250 Bộ Giáo dục  «đuổi» văn hóa ra khỏi nghệ thuật?( 30/01/2013),  http://www.baodatviet.vn/;
Xem thêm: a/ Môn Văn bị thất sủng thì phi nhân tính lên ngôi (Phỏng vấn Võ Thị Hảo), http://phunutoday.vn/;
b/ GS Chu Hảo: Sẽ cho ra lò những “thợ” văn nghệ vô cảm?, http://www.baodatviet.vn/;
c/ Các lối  giải thích của Bộ (http://www.baodatviet.vn/)
251 http://fr.wikipedia.org/
252 Nguyên Ngọc, Sao văn học chúng ta không có tác phẩm lớn? (17/12/2010), http://vietnamnet.vn/
253 Phong Lê, Khối C thất thế: "Sự xuống cấp của văn hóa"(29/05/2011), http://www.bee.net.vn/; => Nguyễn Thị Từ Huy, trong Sự mất tự do của một số người là điều kiện cho tự do của mọi người  viết: «Bản thân cái lạ chưa là giá trị, cái lạ - hay mới là giá trị. Hiện nay không ít các cây viết trẻ tìm kiếm cái lạ một cách điên cuồng, nhưng vẫn hiếm thấy cái lạ - hay. Cái lạ hay này nó phải có máu của tư tưởng mới thành được, nếu không chỉ còn là thời thượng »« (http://boxitvn.blogspot.fr/)
254 Văn chương đỉnh cao?, http://nguyentrongtao.info/
255 HUỲNH NHƯ PHƯƠNG, Còn đó giấc mơ văn học đỉnh cao, http://www.viet-studies.info/
256 Phạm Quang Đẩu, Phê bình văn học: Liệu có “tuyệt chủng”?, http://quyphanchautrinh.org.vn/
257   Trần Hữu Dũng, Thời vắng những nhà văn hóa lớn? (Tháng 12, 2010), http://www.viet-studies.info/;
Trách nhiệm văn hóa là trách nhiệm chung (cuối năm 2011), http://www.viet-studies.info/
258 Nguyễn Hưng Quốc, Văn học Việt Nam: một nền văn học nghiệp dư, http://www.tienve.org/;
Xem thêm: Toàn cầu hóa và văn học Việt Nam, http://viendongdaily.com/
259 Trần Đăng Khoa: Thấy Mạc Ngôn đoạt Nobel mà sốt cả ruột!, http://www.tienphong.vn/
260 Giáo sư Chu Hảo: Là trí thức, cần nhận thức đầy đủ trách nhiệm trước vận mệnh của dân tộc, http://vanhoanghean.vn/
261 Phạm Xuân Nguyên, Văn học Việt, xin đừng hiền quá!, http://vnmedia.vn/
262 Tạ Duy Anh: Phần lớn nhà văn "thiếu tiết tháo"!, http://www.thanhnien.com.vn/
263 Nguyễn Hoàng Đức, Văn học Việt Nam có cơ hội soi gương, http://www.viet-studies.info/
264 Tàn Tuyết - Kafka của phương Đông, http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/;
Xem thêm: http://www.tienve.org/
265 Vấn đề này đã được  đề cập trong một bài viết trước đây: Thử nhận định về Gió Lẻ sau hiện tượng Cánh Đồng Bất Tận trong hành trình văn học Nguyễn Ngọc Tư, http://www.vanchuongviet.org/
266 Tham khảo: http://fr.wikipedia.org/
267 Xem tiểu sử ở: http://fr.wikipedia.org/
268 Pierre-Henri Tavoillot,  L’Occident est superieur par l’autocritique, Le Monde 24/2/2012, tr.20
269 Nguyễn Hưng Quốc, Tinh thần phê phán,http://www.tienve.org/; Xem thêm về tư thế tiên phong của Trần Đình Hượu trên vấn đề này: Trần Đình Hượu, người đi ngược đám đông.
270 Nguyễn Huy Thiệp, Giăng lưới bắt chim, tái bản bởi Đông A - NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2006 (xuất bản lần đầu bởi Văn Mới - 2003); Xem thêm các ý kiến không đồng tình về tính chất «tiểu luận phê bình» của một số bài: GIĂNG LƯỚI BẮT GIẢI THƯỞNG, Thế giới mới số 712, năm 2006, đăng lại ở http://www.viet-studies.info/; Đỗ Ngọc Thạch (th.12-2010), NGUYỄN HUY THIỆP 'GIĂNG LƯỚI BẮT CHIM', http://www.bichkhe.org/
271 Nguyễn Ngọc Thiện, Khát vọng về cái đẹp, lòng nhân ái, cảm xúc huyền diệu, công sức về câu chữ…, http://vanhocquenha.vn/
272 Inrasara, Song thoại với cái mới, NXB Hội Nhà văn và Nhà sách Kiến thức, Hà Nội, 2008
273 Lê Ngọc Trà, Lý luận và văn học, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1990; Xem thêm: Đặng Tiến, Lê Ngọc Trà, Văn học và dân chủ, http://www.diendan.org/; Trần Quý Phiệt, Văn học và Phê bình văn học: Giới thiệu tư tưởng Lê Ngọc Trà, http://www.viet-studies.info/
274 Lê Ngọc Trà, Thế nào là xây dựng một nền Lý luận văn học Việt Nam hiện đại (2/2/2009), http://www.tiasang.com.vn/
275 Nguyễn Lân Bình, Đông Dương tạp chí - tờ báo chữ Quốc ngữ sớm nhất ở Hà Nội (tháng 9 năm 2012),http://tannamtu.com/
276 Nguyễn Huệ Chi, THỬ ĐỊNH VỊ TỰ LỰC VĂN ĐOÀN, http://boxitvn.blogspot.fr/(a);
Xem  thêm : Số đặc biệt Phong Hóa - Ngày Nay, http://www.diendan.org/ (b); Nguyễn Tường Thiết, Hai Vẻ Đẹp của Nhất Linh, http://damau.org/ (c)
277 Nguyễn Lân Bình, Chúng ta hiểu gì về tờ báo duy nhất của người Việt, http://tannamtu.com/; Những điều chưa biết về học giả Nguyễn Văn Vĩnh, http://sgtt.vn/
278 Nguyễn Đình Đăng, Tôi đã vẽ bức tranh “Sự ra đời của chữ Quốc ngữ (Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh)” như thế nào?, http://www.tannamtu.com/
279 Ra mắt sách lạ kỳ của Phạm Quỳnh, http://www.tienphong.vn/; Và nhiều tư liệu quan trọng ở đây: http://quyetnguyenblog.blogspot.fr/
280 Nghệ sĩ Nhất Lý, Những tiền đề của tự do văn hoá..., http://sgtt.vn/
281 Giáp Văn Dương, Sự tùy tiện đã thành bản sắc?, http://www.giapvan.net/
282 Nguyễn Lân Dũng: Rất nhiều người Việt ham tiền, vô cảm, hèn nhát, http://giaoduc.net.vn/; Vài ví dụ khác: http://vietnamnet.vn/phap.html; http://vietnamnet.vn/ v.v…
283 Hội họa Việt Nam có nhiều nghịch lý, http://citinews.net/
284 Phạm Vĩnh Cư, Văn chương và Hội họa Việt Nam (II), http://www.baodatviet.vn/
285 Ứng xử với quá khứ: Đối thoại giữa nghệ thuật đương đại và di sản (06/07/2013), http://daidoanket.vn/
286 Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: Văn hóa đánh thức nhân cách một dân tộc,http://thethaovanhoa.vn/
287 Nguyễn Việt Hà, Nhà văn nào cầm bút cũng phải có nghĩa khí, http://sgtt.vn/
288 Đặng Tiến, Hạnh phúc trong tác phẩm Nhất Linh, http://www.diendan.org/
289 Huỳnh Phan Anh, Đi tìm tác phẩm văn chương, Đồng Tháp xuất bản, Sài Gòn, 1972, tr.130-131 (trích dẫn bởi Trần Hoài Anh: http://www.vanchuongviet.org/)
290 Đà Linh, MỘT NIỀM VUI VĂN HỌC MỚI, http://www.diendan.org/:
«Với 666 trang, 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] thực sự là một bước đi tiếp trong sáng tạo, một sự cố gắng, nỗ lực rất lớn của Đặng Thân, đặc biệt trong bối cảnh cuộc sống đang diễn ra với nhiều mặt, đa chiều, phức tạp, nhiều tầng nấc đan xen, chằng chịt, với tốc độ chóng mặt, mà nhiều nhà văn đã chững lại, thậm chí rất khó khăn để tiếp tục sáng tạo... đã thêm khẳng định bản lĩnh, tâm huyết và đặc biệt là gương mặt, giọng điệu văn học thời kỳ mới, nổi bật trên văn đàn của anh»
291 Martin Heidegger, Les problèmes fondamentaux de la phénoménologie, trad. fr. Jean-FrançoisCourtine, (Paris: Gallimard, 1985), tr.41
Nguyên văn câu viết:
«L'interprétation conceptuelle de l'être et de ses structures, c'est-à-dire la construction réductrice de l'être, implique donc nécessairement une destruction, autrement dit une dé-construction (Abbau) critique des concepts reçus, qui sont d'abord nécessairement en usage, afin de remonter aux sources où ils ont été puisés. C'est seulement par cette destruction que l'ontologie peut phénoménologiquement s'assurer pleinement de l'authenticité de ses concepts» 
292 NguyênSa,Văn nghệ trong việc làm khỏe dân tộc (trích từ tạp chí Nghiên Cứu Văn Học, không rõ năm, hình như là số 3 năm 1968), đăng lại trong THƯ QUÁN BẢN THẢO SỐ 56 THÁNG 6- 2013 (tr.93-94), http://phayvan2009.files.wordpress.com/
293 Từ này gần với khái niệm "immanence-transcendance" của J.P.Sartre trong Critique de la dialectique, và không dính dáng gì với từ tương tự được G. Genette  dùng trong tác phẩm của ông (L’œuvre de l’art, Immanence et transcendance, Paris, Seuil,1994)
294 http://fr.wikipedia.org/) «Les théorèmes d'incomplétude de Gödel [...]: le premier dit essentiellement qu'une théorie suffisante pour faire de l'arithmétique est nécessairement incomplète, au sens où il existe dans cette théorie des énoncés qui ne sont pas démontrables et dont la négation n'est pas non plus démontrable: c'est-à-dire qu'il existe des énoncés que l'on ne pourra jamais déterminer en restant dans le cadre de la théorie. Sous le même genre d'hypothèses sur les théories considérées, le second théorème affirme qu'il existe un énoncé exprimant la cohérence de la théorie - le fait qu'elle ne permette pas de démontrer tout, et donc n'importe quoi - et que cet énoncé ne peut pas être démontré dans la théorie elle-même».
295 Bùi Ngọc Tấn - Người chăn kiến (Phạm Tường Vân PV), http://www.viet-studies.info/
296 Michel Henry, Philosophie et Phénoménologie du corps, PUF, collection "Epiméthée", 1965, et réédition 1987; Phénoménologie de la vie ( Tome I-IV ), PUF, collection "Epiméthée", 2003-2004
297. Phạm Anh Tuấn, Một xã hội vắng bóng những "tuyệt tác"! (15/10/2011), http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/
298. Ju. Lotman, Về bản chất của nghệ thuật, (Trần Đình Sử dịch từ tiếng Nga, trong tập Ju. Lotman và trường phái ký hiệu học Tartu - Matskva, M. Nxb. “Gnozís”, 1994), http://lythuyetvanhoc.wordpress.com/
299. Đặng Tiến, CLAUDE LÉVI-STRAUSS Bách niên giai lão, http://www.diendan.org/.

6/10/2013
Bùi Đức Hào

Theo https://www.vanchuongviet.org/ 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...