Thời Hùng Vương
qua truyền thuyết và huyền thoại 1
LỜI BẠCH
Cuốn “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại“
sau khi phát hành lần thứ I vào tháng 1/1999 đã được sự quan tâm của bạn đọc.
Cuốn sách nhằm chứng minh một thời huyền sử đã đi sâu vào tâm linh người Việt về
một nước Văn Lang dưới thời các vua Hùng.
Sự phát triển của khoa học hiện đại với những đòi hỏi về tính
chính xác và hợp lý của nó, đã đặt lại những vấn đề về thời Hùng Vương. Nội
dung chính của cuốn sách này là: qua những truyền thuyết huyền thoại thời Hùng
Vương liên quan giữa những vấn đề, hiện tượng trong văn hóa truyền thống Việt
Nam và văn hóa cổ Đông Phương, để minh chứng trên cơ sở sự tương quan hợp lý giữa
những vấn đề liên quan và tìm về cội nguồn một nền văn minh rực rỡ đã tồn tại
trong lịch sử nhân loại. Đó chính là nền văn minh Văn Lang, cội nguồn của đất
nước Việt Nam đã 5000 năm văn hiến. Trong lần xuất bản thứ I, do lần đầu tiên
trình bày một luận điểm mới, lại viết về một thời thuộc về huyền sử, tư liệu và
hoàn cảnh lúc bấy giờ cũng có nhiều điều thiếu thốn, bất cập; do đó có nhiều ý
tưởng chưa trình bày được thấu đáo. Kể từ lần xuất bản thứ I đến nay, người viết
đã hân hạnh trình bày với bạn đọc 3 cuốn sách cùng một chủ đề tìm hiểu về thời
kỳ Hùng Vương, thông qua một số hiện tượng và vấn đề trong văn hóa cổ Đông
phương liên quan đến văn hóa truyền thống Việt Nam. Qua quá trình tìm hiểu để
hoàn thiện, minh chứng một cách nhất quán trong sự tương quan những vấn đề được
đặt ra; người viết cố gắng sưu tầm tài liệu, để so sánh đối chiếu với những vấn
đề và hiện tượng liên quan. Vì vậy trong lần xuất bản này, cuốn sách có sửa chữa
bổ sung một số vấn đề chưa khẳng định rõ, hoặc chưa chính xác. Người viết hy vọng
rằng cuốn Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại trong lần
tái bản này, sẽ trình bày được rõ hơn, chứng tỏ tính nhất quán với sự phát triển
của quan điểm xuyên suốt cho rằng: Nền văn hóa của dân tộc Việt Nam là sự sống
tiếp tục của một nền văn hiến rực rỡ từ trong cổ sử. Đó là nền văn hiến bắt đầu
từ gần 5000 năm trước, tính từ triều đại của các vua Hùng. Quan điểm này được chứng
minh trên cơ sở tiêu chí khoa học là: “Một giả thuyết khoa học chỉ được coi là
đúng, nếu nó giải thích được hầu hết những vấn đề liên quan đến nó”. Người viết
chân thành bày tỏ lòng biết ơn những ý kiến đóng góp quý báu trong lần xuất bản
trước, đã tạo điều kiện cho việc sửa chữa và hiệu chỉnh cho lần tái bản này.
Một lần nữa, người viết chân thành cảm tạ và hết sức mong muốn
được sự tiếp tục quan tâm đóng góp của bạn đọc.
Nguyễn Vũ Tuấn Anh
Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương
NXB Văn hóa thông tin
LỜI NÓI ĐẦU
Nhưng may thay, sự phát triển của khoa học lịch sử những năm
gần đây qua những di vật tìm được đã khẳng định: Thời Hùng Vương là một thời đại
có thật. Nhưng những vấn đề của thời Hùng Vương vẫn còn gây ra nhiều tranh cãi
về thực trạng xã hội và niên đại của thời kỳ lịch sử này. Nhân lễ hội giỗ Tổ
năm 98, báo chí vẫn còn nhắc tới hơn 4000 năm lịch sử và nền văn hiến của dân tộc
Việt tính từ thời Hùng Vương. Nhưng trong một số những tác phẩm chuyên ngành
thì cho rằng: Thời Hùng Vương chỉ bắt đầu từ khoảng thế kỷ thứ VII tr.CN và kết
thúc từ năm 208 tr.CN; do đó nước Việt Nam chỉ có khoảng 2.500 năm lịch sử!
Trong cuốn Thế thứ các triều đại vua Việt Nam (Nguyễn
Khắc Thuần, Nxb Giáo Dục 1997, tr. 15) đã viết:
Trái với ghi chép của chính sử cũ và các tài liệu dã sử khác,
các nhà nghiên cứu cho rằng: Nước Văn Lang của các vua Hùng chỉ tồn tại trong
khoảng 300 năm và niên đại tan rã khoảng năm 208 tr.CN. Với 300 năm, con số 18
đời Hùng Vương là con số dễ chấp nhận. Tuy nhiên, cũng không vì thế mà khẳng định
rằng nước Văn Lang thực sự có 18 đời vua Hùng nối tiếp nhau trị vì.
Tóm lại, nước Văn Lang là một thực thể có thật của lịch sử. Nhưng nước Văn
Lang chỉ tồn tại trước sau khoảng 300 năm và con số 18 đời vua Hùng cho đến nay
vẫn chỉ là con số của huyền sử.
Về thực trạng thời Hùng Vương, nhiều người cho rằng đó là một
thời kỳ chưa được văn minh lắm. Cụ thể hơn trên báo “Pháp luật và xã hội” số
ra nhân dịp lễ Tổ Hùng Vương Mậu Dần 1998 - tác giả Anh Phó - với tựa đề “Trang
phục tổ tiên ta như thế nào?” đã viết (phần in đậm do người viết thực hiện):
“... Nói vua Hùng làm vua nước Văn Lang, nhưng kỳ thực vua
Hùng không giống như những ông vua quân chủ phong kiến của thế hệ sau; nước
Văn Lang cũng chưa đủ yếu tố cấu thành một quốc gia hoàn chỉnh mà lúc ấy nước
Văn Lang chỉ mới là một liên minh giữa 15 bộ lạc, người đứng đầu liên minh là
tù trưởng đứng đầu bộ lạc Văn Lang - một bộ lạc hùng mạnh nhất trong số 15 bộ lạc.
Vị tù trưởng ấy là vua Hùng.
Hình thức trang phục thời Hùng Vương ngày nay chúng ta còn có thể hình dung được
qua những hình chạm khắc trên trống đồng, khạp đồng, lưỡi rìu đồng... đó là những
cổ vật có niên đại từ giữa thiên niên kỷ thứ nhất tr.CN đến đầu CN, tìm thấy
qua các di chỉ khảo cổ ở Bắc bộ ngày nay.
Nói chung, trang phục tổ tiên ta thời đó là cởi trần, đi đất, đóng khố, mặc
váy, vật liệu chủ yếu làm bằng lông cầm thú và lá cây. Thời ấy có lẽ đã có vải
nhưng còn thô sơ và chưa nhiều. Khố là một dải vải hẹp, thắt vòng quanh bụng, rổi
từ đó thắt vòng xuống háng, đuôi khố phía sau để dài đến chấm mông. Hầu hết
nam nữ đều ở trần, không mặc áo, cả nam lẫn nữ. Và thời đó tổ tiên ta không có
trang phục ở phần chân, tất cả đều đi chân đất... chiếc mũ đội của tổ tiên
ta “làm bằng lông vũ có thể lấy từ lông cánh, lông đuôi chim dài, cắm dài và dựng
đứng thành vòng tròn theo khuôn đầu. Phía trước điểm chêm, cao vọt lên là những
bông lau, có khi cao bằng cả người”.
Như vậy, thời Hùng Vương chưa phải đã văn minh lắm, song
phong tục về ăn mặc đã hình thành và ổn định. Bao nhiêu hình ảnh được chạm khắc
trên cổ vật như nói trên ắt là hình ảnh phổ biến. Thường là hình ảnh của tầng lớp
trên của xã hội lúc bấy giờ. Nó luôn luôn thể hiện tính chất gọn gàng, thích
nghi với điều kiện khí hậu và lao động.
Theo chúng tôi nghĩ, đời nay, khi con cháu tái lập lại hình ảnh tổ tiên, chúng
ta cũng cần để ý đến tính khoa học của nó. Không nên để đời sau có thể hiểu lầm
rằng tổ tiên người Việt là Trung Quốc, như một số ý kiến đã từng cố sức phủ nhận
thời kỳ Hùng Vương, bằng cách chứng minh rằng “Hùng Vương chỉ là tên các
vua nước Sở”...
Quan niệm mới cho rằng thời Hùng Vương tồn tại khoảng 300 năm, không phải chỉ dừng
lại ở vài quyển sách, bài báo đặt vấn đề một cách dè dặt mà gần như đã được khẳng
định. Qua bài báo đăng trên một tạp chí được phát hành rộng rãi là “Kiến thức
ngày nay”, số 256, phát hành ngày 1/9/97 - với tựa đề “Thời điểm lập quốc
và quốc hiệu Việt Nam” của tác giả Nguyễn Anh Hùng, đã viết:
“Các nhà sử học ngày càng thống nhất chung quan điểm khi cho
rằng nhà nước đầu tiên trên đất nước ta chỉ có thể xuất hiện vào thời văn hóa
Đông Sơn – giai đoạn phát triển đỉnh cao của thời
đại đồ đồng và giai đoạn đầu của thời kỳ đồ sắt. Quan niệm này được cộng đồng
khoa học thế giới thừa nhận - chẳng hạn trong nhiều công trình lịch sử, xã
hội học của các tác giả nước ngoài đã dùng từ “văn minh” (civilization) thay vì
“văn hóa” (culture) khi bàn về văn hóa Đông Sơn. Do vậy chỉ có thể dùng
niên đại văn hóa Đông Sơn làm giới hạn đầu cho thời kỳ lập quốc của dân tộc ta
cách đây chừng 25 - 27 thế kỷ. Nó cũng phù hợp với ghi chép của Việt Sử lược
- bộ sử khuyết danh nhưng có độ chính xác cao, được biên soạn sớm nhất ở nước
ta - theo đó, “Đến thời Trang Vương nhà Chu (696-681 tr.CN), ở bộ Gia Ninh có
người lạ dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô
tại Phong Châu, phong tục thuần phác, chính sự dùng nối kết nút, truyền được 18
đời, đều gọi là Hùng Vương”.
Những hình ảnh trang phục của tổ tiên – theo cách hiểu như
trên – cũng được thể hiện trong tập “Lịch sử Việt Nam bằng tranh” do
Nxb Trẻ xuất bản vào năm 1996.
Vua Hùng và các quan lang
Hình minh họa cho bài báo nói trên:
(Lịch sử Việt Nam bằng tranh Tập 3, Nxb Trẻ 1996)
Và có lẽ bài báo sau đây của tiến sĩ Vũ Minh Hoàng sẽ khái
quát được toàn cảnh sự nhận thức vấn đề lịch sử thời Hùng Vương. Trong tạp
chí “Thế giới mới” số 89 năm 1994 qua bài “Có phải Việt Nam lập
quốc cách đây 4000 năm?”, trong mục “Nhìn lại lịch sử” tác giả Tiến sĩ
Vũ Minh Hoàng đã viết:
“Mỗi quốc gia đều có thời điểm bắt đầu lịch sử văn minh của
mình. Đó là lúc nhà nước đầu tiên xuất hiện. Trong lịch sử Việt Nam, điểm
khởi đầu là thời các vua Hùng dựng nước. Từ lâu có một quan niệm phổ biến gần
như hiển nhiên, cho rằng cách đây 4000 năm, chúng ta đã bước vào thời lập quốc.
Những cụm từ như “4000 năm lịch sử”, “4000 năm dựng nước và giữ nước” hay “4000
năm văn hiến”… trở thành rất quen thuộc trong tiếng Việt.
Quan niệm trên đây thực ra chưa từng được khoa học chứng minh và vì vậy cần
xem nó có chính xác hay không?
Từ truyền thuyết đến lịch sử
Dân tộc ta có một hoàn cảnh lịch sử khá đặc biệt: vừa bước
vào thời kỳ dựng nước chưa được bao lâu thì mất nước. Hơn một nghìn năm bị
đô hộ, lịch sử văn hiến của người Việt đã hầu như bị xóa mất mọi dấu vết về một
thời văn minh của dân tộc. Do vậy lịch sử dựng nước của dân tộc ta không được
ghi chép để truyền lại. Điều duy nhất mà những thế lực đô hộ không thể xóa được
là ký ức của nhân dân về lịch sử của cha ông mình. Chính vì lẽ đó mà thời kỳ lập
quốc của dân tộc Việt Nam, trong một thời gian dài, chỉ được phản ánh trong các
huyền thoại hoặc truyền thuyết dân gian. Những câu chuyện kể về 18 đời vua Hùng
nối nhau trị nước hay những truyền thuyết về sự tích “bánh chưng, bánh dầy”, sự
tích “trầu cau”… liên quan đến phong tục tập quán và cuộc sống của người xưa là
những mảng màu còn giữ được trong ký ức của nhân dân, lưu truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác về thời đại Hùng Vương. Huyền thoại Sơn Tinh, Thuỷ Tinh và
thiên anh hùng ca Thánh Gióng là những hình tượng khái quát do nhân dân sáng tạo
nên để truyền cho nhau về sự nghiệp của cha ông thời mở nước. Những “pho sử”
không thành văn này đã tỏ ra có sức sống mãnh liệt trong suốt hơn một nghìn năm
Bắc thuộc.
Sau khi giành được độc lập, đất nước ta bước vào kỷ nguyên phục hưng và phát
triển. Nhu cầu nhận thức về nguồn gốc và ý thức tự tôn dân tộc và thôi thúc các
nhà sử học yêu nước tìm hiểu về lịch sử thời Hùng Vương. Đến thời Trần – Lê những
truyền thuyết và huyền thoại bấy lâu chỉ lưu truyền trong dân gian lần đầu tiên
được sưu tầm, biên khảo và ghi chép lại trong các tài liệu thành văn. Các bộ
sách Việt điện u linh của Lý tế Xuyên và Lĩnh Nam chích quái của Trần Thể Pháp
lần lượt ra đời. Đặc biệt, đến thế kỷ XV, nhà sử học Ngô Sĩ Liên đã chính thức
đưa những tư liệu dân gian đó vào bộ chính sử đồ sộ, do ông và các sử thần triều
Lê biên soạn. Trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên đã dành riêng một kỷ
đặt tên là “Kỷ Hồng Bàng” để trình bày một cách có hệ thống các truyền thuyết
mà ông tập hợp được với một diễn biến thế phổ: Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân
- Hùng Vương. Ông cũng là người đầu tiên đưa ra những niên đại tuyệt đối
cho thời đại lịch sử này. Theo đó, Kinh Dương Vương (ông nội của Hùng
Vương thứ nhất) lên ngôi vào thời Chu Noãn Vương thứ 57(?) (năm 2879 trước Công
nguyên - TCN) và năm cai trị cuối cùng của Hùng Vương thứ 18 là năm 258 TCN.
Nhưng sự cố gắng chứng minh Việt Nam có lịch sử văn minh lâu đời của Ngô Sĩ
Liên không khỏi gây ra sự băn khoăn, hoài nghi của các nhà sử học thuộc các thời
đại sau. Ông viết như vậy, nhưng không nêu ra được những cơ sở khoa học có sức
thuyết phục. Chính bản thân ông theo sự trình bày những điều trên cũng phải
hạ bút viết câu: “ Hãy tạm thuật lại chuyện cũ để truyền lại sự nghi ngờ thôi”.
Quả thực, những điều Ngô Sĩ Liên đưa vào chính sử đều là huyền thoại và truyền
thuyết. Các chuyên gia về văn học dân gian thừa nhận rằng các truyền thuyết và
huyền thoại luôn chứa đựng trong nó những cốt lõi lịch sử. Nhưng đó không phải
là lịch sử. Không thể dựa vào truyền thuyết để xác định niên đại tuyệt đối cho
các sự kiện lịch sử. Vả lại khung niên đại về thời gian trị vì của 20 ông vua
thời dựng nước do Ngô Sĩ Liên đưa ra lên tới 2622 năm (2879-258 tr.CN) là
điều phi lý, không thể chấp nhận. trong khoảng thời gian đó, mỗi ông vua trung
bình phải cai trị tới hơn 130 năm
Thời đại dựng nước có thể bắt đầu từ bao giờ?
Về phương diện lý luận, Nhà nước chỉ có thể ra đời trên
cơ sở kinh tế đã phát triển, tạo tiền đề cho những chuyển biến xã hội tới mức
có sự phân hóa. Thực tế lịch sử văn minh nhân loại chỉ ra rằng các nhà nước đầu
tiên trên thế giới thường xuất hiện vào giai đoạn rực rỡ của thời đại đồ đồng
hoặc đầu thời đại đồ sắt.
Nhờ các phát hiện khảo cổ học, khoa học lịch sử Việt Nam đã xây dựng khá hoàn
chỉnh một sơ đồ diễn biến văn hóa vật chất, từ sơ kỳ thời đại đồ đồng đến sơ kỳ
thời đại đồ sắt với các giai đoạn chủ yếu sau:
Văn hóa Phùng Nguyên - Văn hóa Đồng Đậu - Văn hóa Gò Mun -
Văn hóa Đông Sơn.
Theo kết quả xác định niên đại bằng phương pháp các bon phóng
xạ (C14), văn hóa Phùng Nguyên (thuộc giai đoạn sơ kỳ đồ đồng) tồn tại cách
ngày nay khoảng trên dưới 4000 năm. Nêu theo quan niệm dân gian thì thời điểm
nhà nước đầu tiên xuất hiện trên đất nước ta tương ứng với niên đại của văn hóa Đông Sơn. Nhưng các chứng cứ vật chất được khảo cổ học phát hiện đã không cho
phép kết luận như vậy. Ở thời Phùng Nguyên, mặc dù đã sớm bước vào thời đại đồ
đồng, nhưng công cụ bằng đá vẫn còn phổ biến và chiếm ưu thế tuyệt đối. Trong tất
cả những di chỉ đã khai quật thuộc loại hình văn hóa này, ngoài vài mẩu xỉ
đồng, chưa hề tìm thấy bất kỳ một công cụ bằng đồng nào. Các nhà sử học đã thống
nhất nhận định rằng cư dân thời Phùng Nguyên chưa vượt ra khỏi phạm trù của hình
thái công xã nguyên thủy. Có nghĩa là không thể nói từ cách đây 4000 năm, nước
ta đã bước vào thời đại văn minh, đã có nhà nước.
Tiếp theo văn hóa Phùng Nguyên và các giai đoạn phát triển của Văn hóa Đồng Đậu
và Gò Mun. Tuy số lượng và chất lượng của công cụ đồng thau có xu hướng
ngày càng tăng, nhưng cũng chưa thấy bằng chứng rõ rệt về phân hóa xã hội - tiền
đề cần thiết cho sự xuất hiện nhà nước.
Tất cả những chứng cứ hội đủ điều kiện cho sự ra đời của nhà nước đều tìm thấy ở
giai đoạn Văn hóa Đông Sơn. Ở giai đoạn này, con người đã làm chủ được kỹ thuật
đúc đồng và bắt đầu biết chế tác công cụ từ quặng sắt. Chủ nhân văn hóa Đông
Sơn đã có thể chế tạo ra những vật dung tinh xảo, đòi hỏi trình độ kỹ thuật và
óc thẩm mỹ cao, như trống đồng, thạp đồng. Nhiều tài liệu khảo cổ học cho thấy
nền kinh tế thời Đông Sơn phát triển khá cao. Đặc biệt, sự phân hóa giai tầng
cũng đã có những biểu hiện rõ nét. Chẳng hạn, trong di chỉ mộ táng Việt Khê (Hải
Phòng), được xác định niên đại tuyệt đối là 2415 ± 100 năm (tính đến năm 1950),
thuộc thời đại Đông Sơn, các nhà khảo cổ học phát hiện 4 ngôi mộ chôn quan tài
hình thuyền. Ba ngôi trong số đó hoàn toàn không có hiện vật chôn theo. Trong
khi đó, có một ngôi người chết được chôn theo 107 hiện vật với 73 hiện vật bằng
đồng, trong đó có những đồ dùng sang trọng như thạp, thố, bình, âu, khay, ấm…
Chắc chắn khi sống, chủ nhân của ngôi mộ này phải là người giàu sang và có nhiều
quyền thế. Sự khác biệt giữa các ngôi mộ phản ánh sự phân biệt thân phận xã hội
của họ khi còn sống.
Các nhà sử học có xu hướng thống nhất ngày càng cao, cho rằng nhà nước đầu tiên
trên đất nước ta chỉ có thể xuất hiện vào thời đại Đông Sơn - giai đoạn phát
triển rực rỡ nhất của văn hóa đồ đồng đang bước sang giai đoạn đầu của thời đại
đồ sắt. Ý kiến này được các nhà khoa học quốc tế thừa nhận. Trong nhiều giáo
trình và tài liệu nước ngoài đã dùng từ văn minh (civilization) khi nói về giai
đoạn văn hóa Đông Sơn của Việt Nam. Như vậy thì chỉ có thể dùng niên đại của
Văn hóa Đông Sơn làm giới hạn đầu cho thời đại dựng nước của Việt Nam. Đó là
khoảng 2.500-2.700 năm nay. Điều này phù hợp với ghi chép của sách Việt
sử lược - một bộ sử khuyết danh nhưng được biên soạn sớm nhất ở nước ta. Sách
viết:
“Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-681 TCN), ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo
thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, phong
tục thuần phác, chính sự dùng lối kết nút, truyền được 18 đời, đều gọi là Hùng
Vương”.
Chúng ta có quyền tự hào về lịch sử văn minh lâu đời của dân tộc. Nhưng điều
không kém phần quan trọng là cần tự hào đúng với cái mình có. Với tinh thần đó,
năm 1992. Quốc hội nước ta đã tiếp thu sự góp ý của các nhà sử học, sửa lại cụm
từ “Trải qua 4.000 năm lịch sử…” được ghi trong lời mở đầu của Hiến pháp năm
1980, thành cụm từ “Trải qua mấy nghìn năm lịch sử…”.Viết như vậy vừa là tôn trọng
sự khách quan của lịch sử, vừa rộng đường cho sự phát hiện mới của khoa học. Vả
lại, với hơn 2.500 năm lịch sử Việt Nam vẫn thuộc vào hàng các nước có nền văn
minh sớm trên thế giới và là dân tộc có lịch sử lâu đời nhất ở khu vực Đông Nam
châu Á.
Chú thích của bài báo: (*) Tác giả hiện là Chủ nhiệm khoa Sử
trường ĐH Tổng hợp Hà Nội (BT).
So sánh với quan điểm mới về thời Hùng Vương được trình bày ở
trên với một số bộ chính sử của các triều đại Việt Nam trước đây ghi chép lại,
thì thời kỳ Hùng Vương tồn tại 2622 năm (từ 2879 tr.CN đến 258 tr.CN). Như vậy,
giữa quan niệm của một số học giả hiện nay và sử cũ có một khoảng cách quá lớn.
Sự chênh lệch thời gian của khoảng cách này là gần 2500 năm, tức là xấp xỉ một
nửa lịch sử của nhân loại kể từ khi các quốc gia cổ đại đầu tiên của loài người
được thành lập.
Cổ nhân khi viết về thời Hùng Vương có thể sai lầm đến như vậy chăng?
So sánh với sử cũ thì quan niệm mới cho rằng: thời Hùng Vương chỉ tồn tại 300
năm và là một quốc gia lạc hậu, quan niệm này sẽ có những mâu thuẫn khó lý giải
trong sự tương tác của không gian lịch sử với thời đại Hùng Vương và sự diễn biến
của thời gian lịch sử về sau.
Về sự tương tác trong không gian lịch sử thời Hùng
Vào thời điểm xuất hiện nước Văn Lang, nếu cho rằng chỉ tồn tại
khoảng 300 năm - tức là khoảng 500 năm tr.CN - lúc đó, những quốc gia bên
cạnh nước Văn Lang đã bước vào thời đại đồ sắt từ lâu với những kỹ thuật cao cấp
và một nền văn minh phát triển về văn hóa, xã hội; kể cả những luận thuyết quân
sự còn được sử dụng đến tận bây giờ cho khoa học quân sự hiện đại (như Binh
pháp Tôn Tử). Đó là dân tộc Hán ở phía Bắc, hoặc như Phù Nam ở phía Nam, mà những
di vật tìm được gần đây đã chứng tỏ nền văn minh của những đất nước này phát
triển rất rực rỡ từ trước thời gian đó. Liệu một nước Văn Lang có thể hình
thành và tồn tại một cách lạc hậu bên cạnh các dân tộc đó suốt 300 năm hay
không?
Về quan hệ giao lưu văn hóa
Một điều khó lý giải tiếp theo là: yếu tố cần yếu để có sự
phát triển cho lịch sử tiến hóa xã hội của con người là phải có sự giao lưu văn
hóa dưới mọi hình thức. Thực tế lịch sử đã cho thấy: ngay cả khi loài người chuẩn
bị bước vào thế kỷ 21, vẫn còn những tộc người sống ở thời kỳ bán khai, khi
không có sự giao lưu văn hóa. Trong khi đó, những sự kiện khảo cổ đã cho thấy ở
Việt Nam đã có sự hiện diện của người Tiền sử (di chỉ núi Đọ với những di vật
được xác định niên đại cách đây cả hàng chục ngàn năm). Do đó, thật khó tưởng
tượng được một sự tiến hóa khép kín của những tộc người tồn tại từ sơ kỳ thời đồ
đá (như di chỉ Núi Đọ đã chứng tỏ), trải hàng ngàn năm đến thời đại đồ đồng
phát triển, trong một không gian hẹp ở miền Trung và Bắc Việt Nam.
Về diễn biến của thời gian lịch sử về sau
Dân tộc Việt Nam đã mất nước và chịu sự đô hộ nghiệt ngã của
các triều đại phong kiến phương Bắc hơn 1000 năm. Một ngàn năm không phải là một
con số được đọc trong một giây, mà là thời gian của 10 thế kỷ. Chỉ trong thế kỷ
20 này, người Việt đã chứng kiến sự lụi tàn của Nho giáo – một học thuyết (vốn
được coi là thuộc về văn minh Hoa Hạ) đã tồn tại, hòa nhập và ảnh hưởng sâu sắc
đến bản sắc văn hóa Việt Nam qua nhiều thế kỷ. Nếu tính từ lúc Nho giáo du nhập
vào Việt Nam thì đã 1800 năm. Còn nếu tính Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính
thống dưới triều Hậu Lê thì cũng hơn 500 năm. Vậy mà chỉ mới có cuộc xâm lăng của
nước Pháp với sự du nhập của văn minh phương Tây, Nho giáo đã gần như tan biến.
Thật là khó lý giải khi cho rằng: Văn Lang có một nền văn minh lạc hậu và tính
từ khi hình thành đến kết thúc chỉ có 300 năm - lại có thể để lại bản sắc và dấu
ấn cho con cháu lưu truyền qua hơn 1000 năm dưới ách đô hộ với một âm mưu đồng
hóa tàn khốc và kiên trì qua nhiều thế hệ.
Xuất phát từ nhận xét những mâu thuẫn khó thuyết phục của quan niệm mới về thời
Hùng Vương, dẫn đến sự ra đời của cuốn sách nhỏ này để chứng minh cho một quan
niệm khác, dựa trên cơ sở phân tích những truyền thuyết còn lại gồm: Truyền
thuyết “Con Rồng Cháu Tiên”, “Phù Đổng Thiên Vương”, “Bánh Chưng Bánh Dầy”,
“Trương Chi - Mỵ Nương”, sự tích “Đầm Nhất Dạ“, sự tích “Trầu Cau”, sự tích “Quả
Dưa Hấu”, “Sơn Tinh Thủy Tinh”, “Thạch Sanh”, “Mỵ Châu - Trọng Thủy”.
Thời Hùng Vương - một thời đại đã đi vào huyền sử, chỉ còn lại những truyền
thuyết được dân gian trân trọng lưu truyền, trong lúc lịch sử nước Việt bước
vào không gian u tối của thời kỳ Bắc thuộc. Những truyền thuyết này đã nhắc nhở
cho hậu thế sự tồn tại của một quốc gia đầu tiên của dân tộc - được tổ tiên tạo
lập - với hy vọng một ngày nào đó, người dân Việt phục hồi được giang sơn sẽ
tìm lại cội nguồn. Một ngàn năm sau, nước Việt hưng quốc kể từ thời Đinh, Lê,
Lý, Trần... Một ngàn năm nữa trôi đi, khoa sử học hiện đại đã minh chứng được
nước Văn Lang tồn tại trên thực tế. Mơ ước của tiền nhân đã trở thành hiện thực.
Linh diệu thay, nền văn minh nước Việt. Vấn đề còn lại phải giải quyết là thực
trạng xã hội Văn Lang...
Ngày nay, kính cẩn suy ngẫm những tinh túy mà tiền nhân đã gửi gấm qua truyền
thuyết để lại sợ khả năng có hạn, không nói được hết ý, rất mong được sự đóng
góp của những bậc trí giả.
PHẦN MỞ ĐẦU
Những di vật tìm được liên quan đến thời kỳ này cũng gần như
không có, kể cả trống đồng là những cổ vật thể hiện bản sắc văn hóa độc đáo tìm
thấy được ở đồng bằng Bắc bộ, nhưng cũng có ở miền Nam Trung Quốc và ở những
vùng đất thuộc Chiêm Thành, Phù Nam; thậm chí ở cả vài vùng Đông Nam Á. Đó
chính là nguyên nhân để cho đến bây giờ - mặc dù khoa học lịch sử tiến bộ hơn
nhiều - nhưng chưa hề có một giả thuyết nào đủ sức để chứng minh một cách thuyết
phục cho thực trạng của nước Văn Lang dưới thời vua Hùng, mà mới chỉ chứng tỏ
được sự tồn tại trên thực tế của thời đại này. Điều đó chỉ phản ánh được một
trong những nội dung của chính truyền thuyết đã nói tới.
Đền Hùng
Ảnh Võ An Ninh
Chúng ta thử đặt một giả thuyết: nếu như không có những truyền
thuyết từ thời Hùng Vương để các học giả đời sau hàng ngàn năm ghi lại trong những
bộ quốc sử, thì liệu những tư liệu không liên quan đến truyền thuyết và những
di vật, có thể có một định hướng nhanh chóng cho việc tìm về nguồn cội và khẳng
định sự tồn tại trên thực tế của nước Văn Lang hay không?
Điều này đã chứng tỏ: Những truyền thuyết từ thời Hùng Vương đã phản ánh thực tế
của thời đại này dưới hình thức này hay hình thức khác, chứ không phải chỉ đơn
thuần là những câu chuyện cổ tích phản ánh cái nhìn hoang sơ của con người về
các hiện tượng tự nhiên và xã hội, như nhận xét về một số huyền thoại cổ tích của
nhiều dân tộc khác trên thế giới của các nhà nghiên cứu.
Có nhiều học giả tìm hiểu về truyền thuyết, cổ tích và huyền thoại Việt Nam nói
chung, hầu như đều tìm thấy những nét tương đồng về cốt truyện hoặc tình tiết
trong những truyện tương tự ở các dân tộc khác trên thế giới. Thí dụ như bộ “Kho
tàng cổ tích Việt Nam” của cụ Nguyễn Đổng Chi, hầu như truyện nào cũng có
khảo dị. Hoặc cuốn “Lĩnh Nam chích quái” (bản dịch của Gs. Đinh Gia
Khánh chủ biên, Nguyễn Ngọc San biên khảo - Nxb Văn Học 1990) là một cuốn sách
cổ được viết từ thời Lê, chép lại rất nhiều truyền thuyết thời Hùng Vương, những
dịch giả cũng tìm được rất nhiều truyện tương đồng của Chiêm Thành, Phù Nam và
Trung Quốc.
Trong sự trùng hợp về nội dung, tình tiết tương đối phổ biến của truyền thuyết,
cổ tích và huyền thoại có thể phân loại như sau:
Sự trùng lặp do câu chuyện cùng có một nguồn gốc
Thí dụ như sự tích “Đức Thánh Chèm” cả bên Trung Quốc lẫn Việt Nam đều
có truyện này, do một nhân vật có thật trong lịch sử là Lý Ông Trọng, gốc ở Việt
Nam, nhưng làm quan bên Trung Quốc vào thời nhà Tần.
Sự trùng lặp do tái hiện lại câu chuyện
Thí dụ cho trường hợp này là “Truyện Kiều” của cụ
Nguyễn Du và “Đoạn Trường Tân Thanh” của Thanh Tâm Tài Nhân. Đây là
trường hợp trùng lặp khi có sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc.
Sự trùng lặp ý tưởng ngẫu nhiên
Do sự phát triển giống nhau trong diễn biến tâm lý xã hội và
những quan hệ xã hội của con người. Thí dụ như truyện “Nghêu, Sò, Ốc, Hến” của
Việt Nam và truyện “Ba ông thần bếp” của Ấn Độ.
Đặc điểm truyền thuyết và huyền thoại thời Hùng Vương
Cổ tích thần thoại và truyền thuyết từ thời Hùng Vương trải
hơn 1000 năm sau mới được chép lại, không tránh khỏi việc tam sao thất bản và
truyện Việt Nam truyền sang Trung Quốc trở thành truyện của Trung Quốc hoặc
ngược lại. Hoặc giả, do người đời sau thêm những tình tiết theo cái nhìn thời đại
của họ, đôi khi rất bất hợp lý như “Sự tích Đầm Nhất Dạ” trong Lĩnh
Nam chích quái (sách đã dẫn) có đoạn chép: “Đổng Tử trở về giảng lại đạo
Phật. Tiên Dung giác ngộ...” thì thật là vô lý, bởi vì mở đầu câu chuyện đã
định vị yếu tố thời gian vào thời Hùng Vương thứ III (theo Truyền thuyết Hùng
Vương - Thần thoại Vĩnh Phú, Vũ Kim Biên, Sở VHTT-TT Phú Thọ 1998; truyền thuyết
còn lưu truyền trong dân gian, cũng nói là Hùng Vương thứ XVIII). Nếu chưa nói
đến sự tồn tại hơn 2600 năm của các vua Hùng theo các bộ sử xưa chép lại - ngay
cả việc tạm ứng dụng quan niệm mới cho rằng thời Hùng Vương chỉ tồn tại khoảng
300 năm và kết thúc vào năm 208 tr.CN - thì ngay cuối thời Hùng Vương thứ XVIII
cũng hơn 200 năm tr.CN, lúc này Phật giáo chưa thể truyền đến Việt Nam. Lịch sử
Phật giáo ghi nhận: Phật giáo truyền đến Việt Nam vào thế kỷ thứ 2 sau CN.
Do đó, dựa vào truyền thuyết để phân tích thực trạng xã hội thời Hùng Vương là
một việc không dễ dàng. Nhưng một nét độc đáo khác của truyền thuyết thời Hùng
Vương so với truyền thuyết cổ tích, thần thoại nói chung là:
@ Có những truyền thuyết được bảo chứng bằng di vật văn hóa truyền lại từ đời
này qua đời khác như là một sự tiếp nối văn hóa, đó là: truyền thuyết “Bánh
Chưng, bánh Dầy” và truyền thuyết “Trầu Cau”.
@ Những truyền thuyết từ thời Hùng Vương mặc dù bị vùi lấp trong cơn lốc của thời
kỳ Bắc thuộc hơn 1000 năm, nhưng vẫn giữ được kết cấu hợp lý cho giá trị nội
dung mà truyền thuyết đó thể hiện. Đây là một sự kỳ diệu! Sự kỳ diệu này nếu
không thể giải thích bằng quyền năng của thần thánh thì chỉ có thể cho rằng: Tổ
tiên ta đã có chữ viết, nên đã ghi lại được những giá trị của nền văn minh thời
Hùng Vương. Do đó, vẫn giữ được nét căn bản cho nội dung câu chuyện không bị
sai lệch với thời gian. Mặc dù sau đó loại chữ viết này đã bị thất truyền (vấn
đề chữ viết của thời Hùng Vương xin được nói rõ hơn ở phần sau).
@ Hầu hết những truyền thuyết lịch sử về thời Hùng Vương đều có ghi nhận thời
gian xảy ra sự kiện, thường bắt đầu bằng câu: “Vào thời Hùng Vương thứ...” hoặc
có sự hiện diện của vua Hùng - kể cả Sơn Tinh, Thủy Tinh (trừ Trương Chi và Thạch
Sanh là hai tác phẩm văn học thời Hùng và “Mỵ Châu, Trọng Thủy” - xin được minh
chứng ở phần sau).
Những truyền thuyết từ thời Hùng Vương sau này sưu tầm được rất nhiều. Nhưng để
tìm hiểu về thực trạng thời Hùng Vương, trong cuốn sách này sẽ được chứng tỏ bằng
những truyền thuyết được phổ biến và truyền tụng mà hầu hết những người Việt
Nam ai cũng biết là: Truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên; Phù Đổng Thiên Vương;
Bánh Chưng Bánh Dầy; Trầu Cau; Sự tích Dưa hấu; Sự tích Đầm Nhất Dạ, Trương Chi
Mỵ Nương; Sơn Tinh Thủy Tinh. (Riêng hai truyện “Thạch Sanh” và “Mỵ Châu Trọng
Thủy” cũng được phân tích trong tập sách này với tư cách là những tác phẩm tiêu
biểu cho nền văn hóa, nghệ thuật thời Hùng Vương; trong đó có sự minh chứng xuất
xứ của truyện “Thạch Sanh” có nguồn gốc từ thời vua Hùng và truyện “Mỵ Châu Trọng
Thủy”; bởi nước Âu Lạc là sự tiếp nối của nước Văn Lang, do đó phải có sự tiếp
nối về văn hóa).
Trong những truyền thuyết và cổ tích từ thời Hùng Vương thì hai truyền thuyết
có di vật lưu truyền qua nhiều thế hệ là “Trầu Cau” và “Bánh Chưng, bánh Dầy”.
Tục ăn trầu thì ở Đài Loan hiện nay cũng có, nhưng coi trầu cau là một nghi lễ
có tính văn hóa truyền thống thì chỉ có ở Việt Nam. Những di chứng này đã chứng
minh cho tính thực tế của truyền thuyết ở các thời vua Hùng. Vì vậy, việc tìm
hiểu những ý nghĩa của tiền nhân khi lưu truyền lại cho con cháu qua những truyền
thuyết là một hướng hoàn toàn có cơ sở.
Trong dân gian Việt Nam đã lưu truyền một câu tục ngữ: “Xanh vỏ, đỏ lòng” xuất
phát từ hình tượng của quả dưa hấu trong “Sự tích Dưa Hấu” là một truyền thuyết
được truyền lại từ thời vua Hùng như muốn nhắc nhở cho hậu thế tìm hiểu nội
dung của truyền thuyết do cha ông để lại qua bề ngoài đầy huyền thoại của nó.
Riêng truyền thuyết “Con Rồng, cháu Tiên”, vì nội dung của truyền thuyết này đã
khẳng định thời điểm bắt đầu của thời Hùng Vương tương đương với thời Tam Hoàng
- Ngũ Đế bên Trung Hoa (tức là gần 3000 năm tr.CN), phủ nhận quan điểm cho rằng
thời Hùng Vương chỉ tồn tại khoảng 300 năm. Vì vậy, để bảo đảm tính khách quan,
cuốn sách này sẽ không phân tích tính thời gian của truyền thuyết nói trên
(theo sử cũ thì thời điểm lập quốc của Văn Lang bắt đầu từ năm 2879 tr.CN).
Nhưng những tình tiết của truyền thuyết “Con Rồng, cháu Tiên” khẳng định không
gian tồn tại và nền văn minh kỳ vĩ của Văn Lang sẽ được minh chứng cùng với các
truyền thuyết khác trong cuốn sách này.
Mỗi truyền thuyết đều có những giới hạn trong phạm vi nội dung của nó, cho nên
những vấn đề được đặt ra trong truyền thuyết này phải bổ sung cho sự minh chứng
trong một truyền thuyết khác. Do đó không tránh khỏi sự lặp lại một vài vấn đề.
Mong độc giả lượng thứ.
Quan niệm cho rằng: “Thời Hùng Vương bắt đầu từ thiên niên kỷ thứ 3 tr.CN
và là một thời kỳ có nền văn minh rực rỡ so với các quốc gia cổ đại khác trên
thế giới” được trình bày trong tập sách này, hoàn toàn dựa trên sự phân
tích những truyền thuyết đã được nêu ở trên. Trong sách này, những tư liệu của
các học giả cổ kim, trong và ngoài nước, kể cả những di vật, chỉ xin được sử dụng
hoặc trình bày có tính minh họa như một hiện tượng liên quan, không phải là cơ
sở của giả thuyết đã trình bày. Bởi vì di vật chỉ là những cái còn lại của một
thời đại, nhưng không phải là tất cả những cái của thời đại đó đã có. Còn tư liệu
về thời Hùng Vương đang có hiện nay đều được viết lại sau đó cả hàng ngàn năm,
không tránh khỏi việc tam sao thất bản. Trong sách này, tất cả phần trích dẫn
được thể hiện bằng kiểu chữ Vni-Helve 10; phần chính văn của người viết được thể
hiện bằng kiểu chữ Vni-Times 12. Những phần in đậm đều do người viết thực hiện.
Hy vọng những sự phân tích dưới đây, là một đóng góp nhỏ so với những công
trình nghiên cứu công phu của các học giả cổ kim, trong và ngoài nước về thời đại
các vua Hùng, với mong muốn làm sáng tỏ về thực trạng của nước Văn Lang, quốc
gia đầu tiên của dân tộc Việt.
THỜI HÙNG VƯƠNG QUA TRUYỀN THUYẾT VÀ HUYỀN THOẠI - CHƯƠNG 1
Hầu hết mọi người quan tâm đến “Truyền thuyết bánh Chưng, bánh Dầy” đều
thống nhất nhận thấy ở trong đó thể hiện vũ trụ quan của dân tộc Việt. Nhưng hầu
hết những ý kiến đều cho đó là quan niệm thô sơ của người xưa: “Trời tròn,
đất vuông”. Trời như cái vung úp xuống đất, đất bằng phẳng và chung quanh
là biển. Hoặc cũng có người cho rằng bánh chưng, bánh dầy là thể hiện những giá
trị đạo lý của người xưa đối với cha mẹ: “Trời sinh là cha, đất dưỡng là mẹ”.
Bánh Chưng tượng đất, chứa đựng những hình tượng về sự phú túc của đất mẹ nuôi
dưỡng con người (trong bài tựa “Lĩnh Nam Chích Quái” của Vũ Quỳnh, thời
Hồng Đức cũng nói đến ý này)...
Nhưng nếu hình vuông và tròn của bánh chưng và bánh dầy chỉ
là hình tượng để thể hiện một ý niệm đơn giản, thì trong những thực phẩm khác
cũng có thể lý giải tương tự: đĩa xôi, bánh chay, bánh trôi cũng tròn như
bánh dầy. Hoặc bánh gai, bánh cốm, bánh giò... cũng gồm đủ những yếu tố dinh dưỡng
và hình thức tương tự như ở bánh chưng. Do đó, nếu chỉ với ý nghĩa và hình tượng
đơn giản được gán cho bánh chưng, bánh dầy thì sẽ khó bền vững qua thời gian
hơn 2000 năm, chỉ tính với thời gian ít nhất là từ khi Nam Việt của Triệu Đà bị
tiêu diệt. Trên thực tế hiện nay, vì chiếc bánh chưng bánh dầy đã mất ý nghĩa
nguyên thủy đích thực, nên sự tồn tại của nó chỉ là một phong tục truyền thống
và sự cảm nhận thiêng liêng đối với tổ tiên, hơn là một sự tiếp nối những giá
trị tư tưởng mà bánh chưng, bánh dầy thể hiện. Vậy ý nghĩa đích thực của bánh
chưng, bánh dầy là gì?
Trước hết, chúng ta đặt vấn đề bắt đầu từ hình tượng bánh chưng vuông và bánh dầy
tròn. Hình tượng vuông tròn này đã được sử dụng một cách phổ biến trong ngôn ngữ
dân gian, cách đây hơn 20 năm trở về trước. Đó là câu: “Mẹ tròn, con
vuông”. Từ trước đến nay, câu “Mẹ tròn, con vuông” thường sử dụng sai lầm
như là một thành ngữ để chúc lành cho sản phụ sinh nở; do đó ngày nay không còn
mấy ai nhắc tới, bởi vì sự khó hiểu của nó. Trong truyện Kiều của cụ Nguyễn Du
cũng dùng hình tượng vuông tròn nhiều lần. Đó là những câu:
Sắn, bìm chút phận cỏn con
Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng?
Hoặc:
Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn
Khuôn xanh biết có vuông tròn cho chăng?
Hay là:
Trăm năm tính cuộc vuông tròn
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.
Vậy hình tượng vuông tròn thể hiện cho cái gì?
Hình tượng vuông tròn trong lý học cổ Đông phương
Để tìm hiểu về vấn đề này, người viết xin bắt đầu bằng sự
trình bày về những ý niệm của vũ trụ quan cổ Đông phương. Những sách Lý học
Đông phương khi lý giải về sự hình thành vũ trụ cho rằng: “Khởi thủy của
vũ trụ là Thái Cực”. Sách cổ nhất nói về điều này là kinh Dịch. Hệ từ thượng
chương XI viết:
“Thị cố Dịch hữu Thái Cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi
sinh Tứ tượng. Tứ tượng sinh Bát quái”.
Theo Chu Hy - nhà Lý học đời Tống - nói:
“Thánh nhân gọi là Thái Cực để chỉ cái bản căn của trời đất
muôn vật” (Đại cương Triết học Trung Quốc - Giản Chi & Nguyễn Hiến
Lê, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh 1992).
Một số nhà Lý học Trung Hoa từ cuối thời Hán về sau còn diễn
đạt trạng thái ban đầu của vũ trụ dưới các ý niệm khác là: Thái Hư (Hư - sự trống
rỗng, Thái - vượt ra ngoài sự trống rỗng) hoặc Thái Vô (Vô - không, Thái - vượt
ra ngoài cái không). Những ý niệm này đều nhằm mục đích giải thích rõ hơn cho ý
niệm của Thái Cực.
Theo sách Đại cương Triết học Trung Quốc (sách đã dẫn) thì quan niệm
Thái Cực của các nhà Lý học Trung Hoa chưa có sự thống nhất:
Trịnh Khang Thành cắt nghĩa: “Thái Cực là đạo Cực Trung, là
cái khí thuần hòa còn chưa chia” (Văn tuyển chú dẫn). Ngu Phiên thì nói: “Thái
Cực là Thái Nhất nghĩa là theo thuyết cũ của Hán Nho cho 4 câu này (Dịch hữu
Thái Cực) là nói cái quá trình hình thành vũ trụ. Chu tử đời Tống thì cho rằng
4 câu này là quá trình tập hợp quái của cổ nhân. Thuyết của Chu tử sau bị Lý Thứ
Cốc đời sau phản bác.
Thái Cực sinh Lưỡng Nghi là Âm Dương. Theo Chu Hy thì “Thái
Cực đem phân ra chỉ là Âm Dương” (Thái Cực phân khai chỉ thị lưỡng cá Âm
Dương).
Khí Dương - theo Lý học cổ Đông phương - có tính thuần khiết, viên mãn và thông
biến nên tượng của Dương hình tròn. Khí Âm tụ, đục, giới hạn nên tượng của Âm
hình vuông.
Câu nói của người Việt được lưu truyền: “Mẹ tròn, con vuông” thường
là để chúc lành cho sản phụ sắp sinh nở sẽ rất khó hiểu về ý nghĩa thực tế.
Nhưng nếu coi đó là câu tục ngữ mà ông cha lưu truyền cho đời sau sự nhận thức
về vũ tru, thì hoàn toàn có thể hiểu được: tính hiếu sinh của vũ trụ - Thái Cực
sinh Lưỡng Nghi và Âm Dương hài hòa là nguồn gốc của mọi sự phát triển tốt đẹp
(theo ý nghĩa của câu tục ngữ “Mẹ tròn, con vuông” thể hiện vũ trụ
quan của người Việt, khác hẳn tất cả các ý niệm về bản nguyên vũ trụ của các
nhà Lý học cổ kim, trong tất cả các sách liên quan đến vấn đề này từ trước đến
nay, xin được trình bày rõ hơn ở phần sau).
Theo thuyết Âm Dương thì phạm trù của Âm Dương rất rộng: bao trùm từ sự khởi
nguyên cho đến mọi sự vận động, phát sinh, phát triển của vũ tru. Dương bao gồm:
Trời, cha, đàn ông... Âm bao gồm: Đất, mẹ, đàn bà... Như vậy, hình tượng vuông
tròn và tính chất của bánh chưng, bánh dầy hoàn toàn đầy đủ điều kiện để biểu
tượng cho Âm Dương: Bánh dầy có màu trắng, không vị của nếp giã thể hiện sự thuần
khiết; tính dẻo thể hiện sự thông biến; hình tròn của bánh dầy thể hiện sự viên
mãn của Dương. Bánh chưng hình vuông là tượng của Âm. Nhưng những vật liệu cấu
tạo nên bánh chưng là một vấn đề đáng chú ý khi hình tượng vuông tròn của bánh
chưng, bánh dầy thể hiện Âm Dương trong vũ trụ quan cổ Đông phương.
Thuyết Âm Dương và Ngũ hành được chính thức chấp nhận từ thời Hán trong lịch sử
Trung Hoa về sau có nói đến: sự chuyển hóa Âm Dương sinh ra 5 dạng vật chất căn
bản là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ gọi chung là Ngũ hành. Năm dạng vật chất này
tương tác lẫn nhau trong sự chi phối của Âm Dương tạo nên vạn vật.
Sự tương tác, vận động của Ngũ hành trong thuyết Âm Dương Ngũ hành rất phức tạp,
nhưng khởi thủy từ hai dạng vận động chính là tương sinh và tương khắc được thể
hiện ở hình vẽ sau.Nhìn chung Ngũ hành tương sinh theo quan niệm Lý học Đông
phương là nguồn gốc của mọi sự phát sinh và phát triển trong sự chi phối hài
hòa của Âm Dương. Ngũ Hành tương khắc là nguồn gốc của mọi sự ngưng trệ. Tượng
của Ngũ Hành khi thể hiện ở màu sắc là: Hỏa màu đỏ; Thổ màu vàng; Kim màu trắng;
Thủy màu đen; Mộc màu xanh lá cây.
Xét cấu tạo của chiếc bánh chưng gồm bốn vật liệu chính và phải luộc bánh (dụng
Thủy) thì có thể khẳng định đó là biểu tượng của Ngũ hành được sắp xếp theo lý
tương sinh từ trong ra ngoài: thịt lợn (heo) sắc hồng thuộc Hỏa sinh Thổ - sắc
vàng của đậu xanh; Thổ sinh Kim - sắc trắng của gạo nếp; Kim sinh Thủy - dịch
chất của gạo nếp và diệp lục tố của lá dong tạo nên màu xanh trên mặt bánh khi
luộc; Thủy dưỡng Mộc - lá dong bọc bên ngoài bánh. Cách buộc dây lạc ( lạt) của
bánh chưng lễ gồm 4 sợi dây lạc nhuộm đỏ, buộc từng cặp song song và vuông góc
với nhau chia bánh chưng thành 9 hình vuông, còn liên quan đến một đồ hình bí ẩn
trong văn hóa đông phương cổ đó là cửu cung Hà đồ.Bánh chưngBiểu tượng của Ngũ hành tương sinhBánh Chưng bánh Dầy - theo truyền thuyết kể lại - đã được chấm
giải nhất trong cuộc thi, không phải là ngon hơn các món ăn khác mà là tính biểu
tượng cao của nó. Vì vậy, chiếc bánh chưng, bánh dầy không chỉ thể hiện quan niệm
vũ trụ quan một cách đơn giản theo cách hiểu của đời sau, khi truyền thuyết này
phải xuyên qua thời gian, không gian lịch sử được tính bằng thiên niên kỷ. Bởi
vì, nếu bánh chưng, bánh dầy chỉ thể hiện những ý niệm đơn giản như người đời
sau quan niệm, thì không chỉ có bánh chưng, bánh dầy mới thể hiện được sự đơn
giản đó. Chỉ có sự thể hiện cho thuyết Âm Dương Ngũ hành mới chứng tỏ được tính
biểu tượng độc đáo của nó. Với ý nghĩa này thì bánh chưng bánh dầy bao trùm
luôn những cách hiểu đơn giản của đời sau. Bởi vì Dương bao gồm: trời, cha...
Âm bao gồm: đất, mẹ... Theo quan niệm lý học cổ Đông phương thì Âm Dương hài
hòa, Ngũ hành tương sinh là nguồn gốc của sự phú túc, phát triển trong tự
nhiên, xã hội và con người.
Bánh chưng, bánh dầy được vua Hùng chấm giải nhất, vì tính biểu tượng độc đáo,
thể hiện thuyết Âm Dương Ngũ hành hệ tư tưởng vũ trụ quan chính thống trong nền
văn minh Văn Lang.
Những vấn đề về nguồn gốc của thuyết Âm Dương ngũ hành
Theo quan niệm phổ biến hiện nay thì Nho giáo có nguồn gốc từ
văn hóa Hán, được tôn vinh vào thời Hán Vũ Đế (159-87 tr.CN) và phổ biến ở Việt
Nam từ thời Bắc thuộc - theo truyền thuyết là do Sĩ Nhiếp - đến nay trải gần
1800 năm. Nếu chỉ tính từ khi Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống dưới
thời Hậu Lê thì cũng đã hơn 500 năm. Trong hệ thống tư tưởng của Nho giáo phổ
biến bằng văn tự Hán ở đất Giao Chỉ, có một hệ thống ý niệm vũ trụ quan cổ đại
hết sức huyễn ảo, thể hiện trong kinh Dịch. Từ trước đến nay, kinh Dịch vẫn được
coi là sản phẩm của nền văn minh cổ Hoa Hạ, trong đó nói đến sự biến hóa của 64
quẻ Dịch từ thuyết Âm Dương và bản nguyên của vũ trụ là Thái Cực. Cùng với vũ
trụ quan Dịch học nói trên là những phương pháp ứng dụng được coi là của một hệ
tư tưởng vũ trụ quan khác, không có hệ thống lý luận khởi thủy bản nguyên vũ trụ,
đó là thuyết Ngũ hành. Nhưng nếu hệ thống ký hiệu của Dịch học cho đến đầu thế
kỷ 20 này phạm vi ứng dụng rất hạn chế, chỉ sử dụng chủ yếu vào việc dự đoán
tương lai (hầu hết các nhà nghiên cứu hiện đại cũng cho rằng kinh Dịch ra đời mục
đích chủ yếu dùng để bói), thì ngược lại: sự ứng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ
hành – được coi là sự kết hợp của hai hệ thống vũ trụ quan nói trên – lại hết sức
rộng rãi; có thể nói: trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, dự đoán tương ai, y
lý, lịch số... áp dụng trong các vấn đề tự nhiên, xã hội và con người hết sức
sâu sắc, vi diệu.
Nhưng ở trong cổ thư chữ Hán, thuyết Âm Dương và thuyết gũ hành là hai hệ thống
lý thuyết không có sự liên hệ khởi thủy. hững nhà nghiên cứu hiện đại cũng có
nhiều ý kiến khác nhau về hởi nguồn của hai học thuyết này. Thuyết Âm Dương
theo truyền huyết được hình thành ít nhất cũng từ thời nhà Chu, sau Chu Văn
ương, Chu Công biên soạn Dịch, viết Hào từ. Thuyết Ngũ hành theo truyền thuyết
thì do vua Đại Vũ phát hiện trước Chu Công hàng ngàn năm. Riêng Trâu Diễn -
theo các nhà nghiên cứu - được coi là người nếu không phải là phát minh thì
cũng là người đầu tiên kết hợp giữa hai học thuyết này?
Phải chăng Trâu Diễn là người đề xướng Thuyết Âm Dương - Ngũ
Hành
Theo Sử ký và sách Lã Thị Xuân Thu thì thuyết Âm
Dương – Ngũ hành do Trâu Diễn sống vào thời Chiến quốc (350-270 tr.CN) là người
hoàn chỉnh những ý niệm ban đầu của nó và là người sáng lập ra phái Âm Dương
gia (nhưng Sử ký và Lã Thị Xuân Thu chỉ cho biết việc này và Trâu Diễn
cũng không hề để lại một tác phẩm nào để chứng tỏ Âm Dương Ngũ hành là học thuyết
của ông phát minh ra hay chỉ là trình bày lại). Trong khi đó, so sánh thời điểm
xuất hiện của tác gia Trâu Diễn với thời điểm mà truyền thuyết Việt Nam ghi nhận
sự xuất hiện của bánh chưng bánh dầy vào cuối thời Hùng Vương thứ VI, sẽ đặt ra
một vấn đề sau đây:
Nếu tạm cho rằng các vua Hùng chỉ tồn tại khoảng 400 năm và lấy sự trung bình
toán học cho các đời vua Hùng (tạm giả định là 18 vị cách hiểu phổ biến qua
truyền thuyết còn lại, thực tế là 18 thời Hùng Vương. Xin được chứng minh ở phần
sau) thì từ khi có bánh chưng, bánh dầy đến kết thúc thời đại Hùng Vương sẽ là
hơn 200 năm. Cộng với số năm tính từ Văn Lang đổi quốc hiệu là Âu Lạc đến năm
chuẩn Công Nguyên (208 tr.CN theo quan niệm mới, sử cũ là 258 tr.CN), chúng ta
sẽ có hơn 400 năm tr.CN cho thời gian xuất hiện của thuyết Âm Dương Ngũ hành của
tổ tiên người Việt, tức là trước khi nhà Lý học Trâu Diễn nói đến thuyết này gần
cả trăm năm. Do đó, như phần trên đã trình bầy thì không phải người sáng lập
thuyết Âm Dương Ngũ hành là Trâu Diễn. Ngay những cổ thư chữ Hán, như cuốn sách
lý luận Đông y nổi tiếng Hoàng đế nội kinh tố vấn – được coi là xuất
hiện vào thời Xuân Thu - Chiến quốc, mà trong đó đã thể hiện sự ứng dụng phương
pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành một cách rất sâu sắc vi diệu. Sự ứng dụng
phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành trong nội dung cuốn sách, đã phủ
nhận Trâu Diễn không thể là người sáng lập hoặc kết hợp hai học thuyết này.
Thuyết Âm Dương trong thư tịch cổ và truyền thuyết Trung Hoa
Theo sách “Đại cương Triết học Trung Quốc” (sách đã
dẫn) viết:
Thuyết Âm Dương Ngũ hành được ghi ở thiên Hồng phạm trong
sách Kim Văn Thượng Thư (sách của bác sĩ nhà Tần là Phục Thắng truyền lại) -
thì đề xướng thuyết này không biết đích là ai. Trong thiên chỉ thấy chép rằng:
“Cửu trù Hồng phạm” là của Cơ Tử trình bày với vua Võ Vương nhà Chu. Trong Cửu
trù Hồng phạm thì trù thứ nhất là Ngũ hành.
Nhưng theo sách Kinh Thư diễn nghĩa (Lê Quý Đôn, dịch
giả Ngô Thế Long, Trần Văn Quyền, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh 1993) thì tương
truyền Cửu trù Hồng phạm lại do vua Đại Vũ nhà Hạ (2205 tr.CN) tìm ra (cuốn Kinh
Thư được lưu truyền từ thời Hán Cảnh Đế về sau là do Khổng An Quốc - cháu
12 đời của Khổng tử - biên soạn lại.
Tương truyền Khổng An Quốc tìm được cuốn Kinh Thư viết bằng cổ văn
trong vách nhà cũ của Khổng tử).
Trên thực tế thuyết Ngũ hành chỉ thật sự được phổ biến bên Trung Hoa từ thời
Hán Vũ Đế. Sự kiện này đã được nhắc đến trong Sử ký - Nhật giả liệt truyện như
sau:
Hán Vũ Đế (156 - 87 tr.CN) (*) triệu các nhà chiêm tinh lại hỏi
gày x, tháng x, cưới vợ được hay không? Người theo thuyết “Ngũ ành” bảo được,
người theo thuyết “Kham dư” bảo không được, người heo thuyết “Kiến trừ” bảo xấu,
người theo thuyết “Tùng thời” bảo rất ấu, người theo thuyết “Lịch gia” bảo hơi
xấu, người theo thuyết Thiên nhân” bảo tốt vừa, người theo thuyết “Thái nhất” bảo
đại cát. ranh cãi nhau hồi lâu, đỏ mặt tía tai, không ai chịu ai. Cuối
cùng án Vũ Đế phán: mọi điều nên hay kiêng, phải lấy thuyết Ngũ hành là chính, kết
thúc buổi tranh luận. Kể từ đó thuyết Ngũ hành lược phát triển.
* Chú thích: năm sinh và mất của Hán Vũ Đế ở trên theo học giả Nguyễn Tôn Nhan
Thuyết Âm Dương Ngũ hành và những phương pháp ứng dụng ủa nó
trong mọi lĩnh vực của cuộc sống và con người với một thời gian thực tế xuất hiện
và tồn tại ở Việt Nam bằng văn tự Hán đã gần “100 nhân vật nổi tiếng văn
hóa Trung Quốc” Nxb Văn Học 1998 800 năm. Mặc nhiên mọi người đều coi những học
thuyết đó thuộc về ự phát hiện của nền văn minh Trung Hoa.
Khái niệm Âm Dương trong kinh Dịch
Như phần trên đã trình bày kinh Dịch là cuốn sách được coi là
cổ nhất nói đến thuyết Âm Dương. Khởi thủy của Dịch học theo truyền thuyết bắt
đầu từ vua Phục Hy (có niên đại khoảng trên 3500 năm tr.CN; có sách chép 4477 –
4363 tr.CN) qua gần 3000 năm đến Khổng tử thì hoàn chỉnh (theo truyền thuyết và
một số thư tịch cổ).
Tương truyền - Vua Phục Hy ngửa xem tượng Trời, cúi xem phép
tắc dưới Đất, xem các văn vẻ của chim muông cùng những thích nghi của trời đất.
Gần thì lấy thân mình, xa thì lấy ở vật, thế rồi mới làm ra Bát quái (8 quẻ của
Dịch học Trung Hoa) (Hệ từ Hạ - Chương II - Chu Dịch Vũ trụ quan -
Gs. Lê Văn Quán, Nxb Giáo Dục 1995).
Cũng theo truyền thuyết thì vua Phục Hy là người đầu tiên vạch
ra đồ hình Bát quái gọi là Tiên thiên Bát quái và kết hợp lại làm thành 64 quẻ,
tạo nên hệ thống ký hiệu đầu tiên của Dịch học Trung Hoa, gọi Hy Dịch. Hy Dịch
chỉ có hệ thống ký hiệu không có văn tự (?). Trên thực tế, hệ thống Hy Dịch xuất
hiện vào đời Tống (khoảng 1000 năm sau công nguyên) do ngài Thiệu Khang Tiết
công bố.Tiên Thiên bát quái đồTheo truyền thuyết do vua Phục Hy sáng tạoCũng theo truyền thuyết: Kể từ khi vua Phục Hy làm ra Tiên
thiên bát quái, trải hơn 2000 năm sau, đến đời vua Văn Vương nhà Chu khi bị Trụ
Vương giam ở ngục Dữu Lý, ngài đã hiệu chỉnh Tiên thiên Bát quái của vua Phục
Hy thành Hậu thiên bát quái. Ngài cũng sắp xếp lại thứ tự hệ thống 64 quẻ Tiên
thiên Bát quái theo một trình tự mới gọi là hệ thống Hậu thiên Bát quái, hay
còn gọi là Chu Dịch và viết rõ nghĩa lại từng quẻ gọi là Soán từ. Con của ngài
là Chu Công viết rõ nghĩa từng Hào trong quẻ gọi là Hào từ.
Sau đó gần 700 năm, theo truyền thuyết Khổng tử tiếp tục diễn giải kinh Dịch
qua: Thoán truyện (thượng, hạ); Đại Tượng truyện (thượng, hạ); Hệ từ truyện
(thượng, hạ); Thuyết Quái truyện; Tự Quái truyện; Tạp Quái truyện; Văn ngôn. Gọi
chung là Thập dực.
Căn cứ theo kinh văn của kinh Dịch thì:
Biểu tượng dịch học hiện nay
@ Từ vua Phục Hy cho đến đời Chu Văn Vương, Chu công viết Soán từ, Hào từ, trong chính văn chưa thấy nói đến Âm Dương.
@ Cũng theo sách Chu Dịch nói trên, thì khái niệm Âm Dương lần đầu tiên xuất hiện
ở Thập dực do Khổng tử khi diễn giải Chu Dịch nói đến. Đó là lời Thoán truyện
trong các quẻ: Địa Thiên thái; Thiên Địa bỉ; Đại Hỏa minh di; Trạch Thiên quải.
Và trong Hệ từ thượng chương V – tiết thứ nhất, có đoạn viết:
Nhất Âm, Nhất Dương vị chi đạo.
Hệ từ Thượng, chương thứ XI viết:
Thị cố Dịch hữu Thái Cực, Thị Sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi
sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái.
Nói tóm lại, theo truyền thuyết thì đến trước thời ngài Khổng
tử khái niệm Âm Dương đã xuất hiện như một hiện tượng, nhưng chưa phải là một học
thuyết lý giải sự hình thành vũ trụ và sau đó là Thái Cực với tư cách là hiện
tượng có trước Âm Dương và là thể bản nguyên của vũ trụ. Các nhà Lý học từ đời
Hán về sau, căn cứ trên những hiện tượng này bắt đầu lý giải bản nguyên của vũ
trụ. Tuy nhiên, về cách lý giải Thái Cực là gì có thể nói cho đến tận bây giờ
các nhà Lý học nói chung vẫn chưa ngã ngũ, như đã trình bày ở phần trên.
CHƯƠNG I - PHẦN 1
Nhưng thật sự không thể giải thích nổi khi:
* Thái Cực thể bản nguyên của vũ trụ lại được phát hiện sau
cùng vào thời Khổng Tử (500 năm tr.CN).
* Âm Dương phát hiện vào đầu thời Chu (khoảng 1200 năm tr.CN).
* Cuối cùng theo Lý học Trung Hoa thì hậu quả lại là có cái trước: Bát quái và
64 quẻ được phát hiện vào khoảng 3500 năm tr.CN (Đời vua Phục Hy).
Sau đó vào thời Hán, sách vở sưu tầm được lại nói đến Trâu Diễn với thuyết Âm
Dương Ngũ hành (đã trình bày ở trên). Khi thuyết Ngũ hành bắt đầu được phát triển
và ứng dụng từ thời Hán Vũ Đế thì: Thái Cực - Âm Dương - Ngũ hành lại được gắn
với nhau với sự ứng dụng phổ cập trong nhiều mặt của cuộc sống như: thiên văn,
địa lý, y học Đông phương... như một hệ thống vũ trụ quan hoàn chỉnh. Trong khi
đó thuyết Ngũ hành tương truyền do vua Đại Vũ phát hiện trước thời nhà Chu, tức
là trước khi phát hiện Âm Dương cũng cả 1000 năm?
Hiện tượng vô lý này đã được ông cha ta nhắc đến trong một câu ca dao nổi tiếng
còn lưu truyền trong dân gian đến tận bây giờ:
Sinh con (Bát quái) rồi mới sinh cha (Âm
Dương)
Sinh cháu (Ngũ hành) giữ nhà rồi mới sinh ông (Thái Cực).
Câu ca dao này được dùng làm tựa và gán ghép cho một truyện cổ
tích đã được cụ Nguyễn Đổng Chi sưu tầm trong bộ Kho tàng truyện cổ tích
Việt Nam. Nhưng nội dung câu truyện cổ tích huyền thoại này chỉ là phương tiện
chuyển tải câu ca dao đó. Chính nhờ câu ca dao này của tổ tiên truyền lại, nhắc
nhở con cháu tìm ra sự vô lý trong quá trình hình thành thuyết Âm Dương Ngũ
hành mà cổ thư chữ Hán ghi nhận và được coi là thuộc về văn minh Hoa Hạ.
Nhà lý học nổi tiếng Trung Quốc và quốc tế hiện nay là Thiệu Vĩ Hoa cũng đã nhận
xét trong cuốn Chu Dịch và dự đoán học(Nxb Văn Hóa 1995 - người dịch: Mạnh
Hà) thì sự ra đời của thuyết Ngũ hành là một vấn đề chưa được sáng tỏ. Xin được
trích dẫn như sau:
Giới dịch học cho rằng sự ra đời của học thuyết Ngũ hành
rất có khả năng đồng thời với học thuyết Âm Dương. Nhưng giới sử học lại cho rằng
người đầu tiên sáng lập ra thuyết Ngũ hành là Mạnh tử. Trong cuốn “Trung Quốc
thông sử giản biên” của Phạm Văn Lan nói: “Mạnh tử là người đầu tiên sáng lập
ra thuyết Ngũ hành, Mạnh tử nói 500 năm tất có vương giả hưng, từ Nghiêu Thuấn
đến Vu Thang là hơn 500 năm... Từ Văn Vương đến Khổng tử lại hơn 500 năm... hầu
như đã có cách nói tính toán về Ngũ hành. Sau Mạnh tử một ít, Trâu Diễn đã mở rộng
thuyết Ngũ hành thành Âm Dương – Ngũ hành”. Nói học thuyết Ngũ hành là do Mạnh
tử phát minh là không có chứng cứ xác thực. Điều này chính Phạm Văn Lan đã tự
phủ định mình. Trong cùng một chương của cuốn sách trên đã nói: “Mạnh tử không
tin Ngũ hành, bác bỏ thuật chiêm bốc dùng ngũ thanh long để định cát hung, điều
đó đủ thấy thời Đông Chu thuyết Ngũ hành đã thông dụng rồi, đến Trâu Diễn đặc
biệt phát huy”. Mạnh tử là người nước Lỗ thời Chiến quốc mà thời Đông Chu đã có
thuyết Ngũ hành rồi, rõ ràng không phải là Mạnh tử phát minh ra Ngũ hành. Có những
sách sử nói học thuyết Âm Dương Ngũ hành là Đổng Trọng Thư thời Hán sáng lập
ra, điều đó càng không đúng.
Giới triết học như Vu Bạch Huệ, Vương Dung thì cho rằng: “Văn bản công khai của
Ngũ hành có thể thấy trong cuốn sách “Thượng Thư” của Hồng phạm (tương truyền
văn tự những năm đầu thời Tây Chu, theo những khảo chứng của người cận đại có
thể là thời Chiến quốc). Ngũ hành, một Thủy, hai Hỏa, ba Mộc, bốn Kim, năm Thổ;
Thủy nhuận dưới, Hỏa nóng trên, Mộc cong thẳng, Kim là cắt đứt, Thổ là nông gia
trồng trọt” (Xem “Ảnh hưởng của học thuyết Âm Dương - Ngũ hành với khoa học truyền
thống Trung Quốc”). Qua đó có thể thấy vấn đề nguồn gốc học thuyết Ngũ
hành vẫn là điều chưa sáng tỏ.
Qua phần trình bày ở trên thì ngay các nhà lý học Trung Hoa
cũng không xác định được nguồn gốc của thuyết Âm Dương Ngũ hành.
Tất cả những điều vô lý nói trên đã chứng tỏ sự gán ghép một cách khiên cưỡng
những giá trị tư tưởng cho những nhân vật tuy nổi tiếng, nhưng lại không phải
tác giả của nó. Đây là một hiện tượng phổ biến trong việc tìm hiểu, nghiên cứu
lý học Trung Hoa vào thời Hán và hậu quả của sai lầm này còn kéo dài đến tận
bây giờ.
Ông Hồ Thích - một học giả nổi tiếng Trung Hoa vào đầu thế kỷ này - đã có nhận
xét:
Triết học sử có ba mục đích là chứng tỏ sự biến hóa, tìm tòi
nguyên nhân và phân phán giá trị. Song triết học phải nên trước hết làm công việc
căn bản có thể mong đạt được mục đích trên; công việc căn bản ấy gọi là học thuật
tức là dùng thủ đoạn chính xác, phương pháp khoa học, tâm tư kinh tế, dựa vào sử
liệu đã có để vạch ra việc làm, tư tưởng nguồn gốc biến đổi cùng là bộ mặt thật
của các nhà triết gia. Thế nào là bộ mặt thật?
Số là người xưa biên sách đọc rất đỗi cẩu thả, thường đem học thuyết của người
không liên quan với nhau đặt vào học thuyết của người khác. Ví như thiên thứ nhất
của Hàn Phi tử là của Trương Nghi nói về vua Tần. Lại như sách Mặc tử, kinh
thương hạ, kinh thuyết thương hạ, đại thủ, tiểu thủ, quyết không phải chính tay
Mặc Định viết.
Hoặc ấy là sách giả làm sách thật, ví dụ như Quản tư, Quan Doãn tử, Án Tử
Xuân Thu v.v... Hoặc là lấy sách của người sau đem vào của tiền nhân cho là vốn
có từ đầu. Các tệ này ở các sách chư tử đều không tránh được. Thử lấy cái
học Trang tử làm tỷ dụ. Sách Trang tử có nhiều thiên ngụy. Người đời nhận thiên
Thuyết Kiếm, Ngư ông là chân, còn các thiên khác không bàn vậy .
Hoặc không hiểu được học thuyết của cổ nhân bèn để cho mất đi, như Mặc tử, kinh
thượng chẳng hạn.
Hoặc lấy sách cổ nhân giải thích sai lầm bèn làm mất đi nguyên lý. Như người
nhà Hán dùng phân dã, hào thìn, quái khí để thuyết Dịch kinh. Tống nhân dùng
Thái Cực đồ, Tiên thiên Quái vị đồ để thuyết Dịch kinh; lại như Hán nhân phụ hội
Xuân Thu để thuyết về tai dị, Tống nhân đảo lộn sách Đại Học tự ý thêm bớt. Hoặc
mỗi người dùng ý riêng để giải thích cổ, làm rối loạn nhiều thuyết lý về sau, hồ
đồ hỗn loạn. Như trong sách Đại Học, hai chữ Cách Vật có tới hơn bảy mươi nhà
giải thích khác nhau. Lại như Lão tử, Trang tử, các thuyết bời bời không có đến
hai nhà giống nhau như vậy.
Vì có những chướng ngại như thế nên bộ mặt thật của học thuyết các nhà mờ mịt đến
quá nửa. Còn đến việc làm bình sinh của triết gia cùng là thời đại của triết
gia thì cổ nhân rất là không để ý đến. Lão tử có thể gặp Dương Chu; Trang Chu
có thể thấy Lỗ Ai Công; Quản tử có thể nói với Mao Tường, Tây Thi. Mặc tử có thể
thấy Ngô Khởi chết và nước Trung Sơ diệt vong. Thương Ưởng có thể biết được chiến
tranh Trường Bình v.v... Vô số những điều lỗi lầm như vậy. Lại như Sử ký nói
Lão tử sống 160 năm, hay là hơn 200 tuổi hay là Khổng tử chết đi 129 năm sau
Lão tử chưa chết. Nhưng điều thần thoại ấy thực không đáng bàn.
(Theo sách Lịch Sử triết học phương Đông Tập I -
Nguyễn Đăng Thục - Nxb Thành phố Hồ Chí Minh 1997 - tr.68).
Nói tóm lại về xuất xứ của thuyết Âm Dương Ngũ hành, ngay cả
những nhà nghiên cứu Trung Hoa - là nơi mà từ cổ sử đến nay vẫn cho rằng là quê
hương của thuyết này - vẫn không thống nhất về tác giả của nó. Hay nói một cách
khác: Nguồn gốc thuyết Âm Dương Ngũ hành trong cổ thư chữ Hán hết sức mơ hồ.
Những mâu thuẫn trong phương pháp lý giải bản nguyên vũ trụ của
các nhà Lý học Trung Hoa trong các trước tác liên quan.
Có thể nói cho đến tận ngày hôm nay - khi bạn đang đọc cuốn
sách này - các nhà Lý học đành phải tạm bằng lòng với cách lý giải có tính tiếp
cận và sự cảm nhận về một ý niệm tính bản nguyên của vũ trụ là Thái Cực và hệ
quả trực tiếp của nó là Âm Dương. Ngoài tính không thống nhất cách lý giải của
các nhà Lý học Trung Hoa như đã trình bày trong phần “Bánh Chưng, bánh Dầy và
thuyết Âm Dương Ngũ hành”, bạn đọc có thể tham khảo nhận định của nhà Lý học nổi
tiếng Trung Hoa thời Tống là Chu Hy về ý nghĩa của Thái Cực và Âm Dương (Thời Tống
là thời đại đầu tiên của Trung Hoa tương đương với đầu thời hưng quốc của Việt
Nam, cho nên có thể coi ông ta là đại biểu đầu tiên của nền Lý học Trung Hoa với
nước Đại Việt). Mặc dù xuất hiện sau nền Lý học của nhà Hán cả ngàn năm - tức
là đã có một quá trình nghiên cứu tổng hợp với một thời gian đáng nể - ông Chu
Hy vẫn sai lầm khi nhận xét trong sách “Thái Cực đồ thuyết” như sau:
Vô Cực nhi Thái Cực. Thái Cực động nhi sinh Dương, động cực
nhi tĩnh; tĩnh nhi sinh âm; tĩnh cực phục động; nhất động nhất tĩnh, hỗ vi kỳ
căn ...
Nghĩa là “Vô cực mà là Thái Cực, Thái Cực động sinh Dương, động đến cực điểm
thì tĩnh, tĩnh sinh Âm; tĩnh đến cực đỉnh thì lại động. Một động một tĩnh làm
căn bản cho nhau...” (Chu Dịch Vũ trụ quan, sách đã dẫn).
Đây là sự sai lầm căn bản của ông Chu Hy. Bởi vì Âm Dương là
một cặp phạm trù có tính bao trùm. Ý niệm khởi nguyên của nó chính là ở sự phân
biệt. Chỉ cần bạn đọc vạch một đoạn thẳng, thì đầu đoạn thẳng và cuối đoạn thẳng;
phía trên phía dưới đoạn thẳng; bên phải bên trái đoạn thẳng; bên trong bên
ngoài đoạn thẳng là đã có sự phân biệt Âm Dương. Ông Chu Hy đã đưa ý niệm Vô Cực
và Thái Cực là sai lầm đầu tiên. Sự sai lầm càng rõ nét khi phân biệt Thái Cực
với cặp phạm trù Âm Dương, vì Âm Dương lúc này chỉ là một vế của chính nó.
Ý niệm cho rằng Dương động, Âm tịnh là sai lầm thứ hai của ông Chu Hy vẫn ảnh
hưởng đến tận bây giờ. Điều này đã thể hiện trong Kinh Dịch Phục Hy (Nxb Khoa Học
Xã Hội, Hà Nội 1997, Giáo sư Bùi Văn Nguyên. tr.140) như sau:
Quẻ Khôn biểu thị cái thể của đất, như lớn lao, dầy dặn, vững
vàng, bao dung, còn quẻ Kiền biểu thị cái thể của trời. Đất thuộc Âm thì
tĩnh, như con ngựa cái đi trên mặt đất, còn trời thuộc Dương thì động, như
con rồng biến hóa, khi thì hiện ở đồng ruộng, khi thì nhảy ở vực sâu, khi thì lại
bay lên trời.
Chính từ những sai lầm có tính rất căn bản trong việc giải
thích những nguyên lý của Âm Dương Ngũ hành, đã dẫn đến một hậu quả là: cho đến
tận bây giờ, thuyết Âm Dương Ngũ hành không phát triển được trong hơn 2000 năm
qua – kể từ thời Bắc thuộc – và đưa tất cả những phương pháp ứng dụng về mọi mặt của nó vào một trạng thái huyền bí.
Sau đây là hai đồ hình Thái Cực chứng tỏ quan điểm sai lầm về thể bản nguyên của
vũ trụ của Lai Trí Đức và Chu Hy. Bạn đọc có thể dễ dàng nhận thấy: vòng tròn
nhỏ ở giữa là biểu tượng của Thái Cực, phân biệt với phần đen trắng ở ngoài
vòng tròn nhỏ thể hiện Âm Dương.
Như vậy giữa Thái Cực và Âm Dương là hai trạng thái phân biệt,
đây là điều vô lý như đã trình bày ở trên.Như vậy, cùng với sự không thống nhất quan điểm và mâu thuẫn
khi giải thích nguồn gốc vũ trụ với sự vô lý về thời điểm xuất xứ, đã chứng tỏ
rằng thuyết Thái Cực sinh Lưỡng Nghi (Âm Dương), Âm Dương sinh Ngũ hành không
thuộc sự phát minh của các nhà Lý học Hoa Hạ, mà chỉ là thể hiện những cái nhìn
khác nhau trong sự phát hiện rời rạc về một học thuyết, cũng như những phạm vi
đã ứng dụng của nó đã có trong một nền văn minh đã mất.
Điều này là cơ sở của giả thuyết cho rằng: thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về nền
văn minh Văn Lang thể hiện ở bánh chưng, bánh dầy. Nước Văn Lang Bắc giáp Động
Đình hồ, Nam giáp Hồ Tôn, Tây giáp Ba Thục, Đông giáp Đông Hải đã tồn tại gần
3000 năm. Trong quá trình diễn biến của lịch sử và khi bị đô hộ hoàn toàn vào đời
Hán, thuyết Âm Dương Ngũ hành của nền văn minh Văn Lang đã dần dần truyền sang
Trung Hoa (Giả thuyết này sẽ được minh chứng rõ hơn ở các phần sau). Do đó, sự
lý giải hợp lý nhất về nguồn gốc xuất xứ và nội dung của thuyết Âm Dương Ngũ
hành phải là của những người chủ phát minh ra nó. Đó là nền văn minh Văn Lang.
CHƯƠNG I - PHẦN 2
Bởi vì, khi một đất nước bị chinh phục với âm mưu đồng hóa, thì việc đầu tiên của
kẻ xâm lược là xóa sổ tất cả giá trị văn hóa chính thống của nền văn minh bị
xâm lược. Đối tượng chính của sự xóa sổ đó là tri thức văn hóa có trong sách vở
và con người. Do đó, các học giả còn sống sót của Văn Lang không thể công khai
phổ biến tri kiến của mình. Họ phải bảo vệ hệ thống tư tưởng chính thống của
văn minh Văn Lang dưới một hình thức khác. Đó là: tục ngữ, ca dao, cổ tích thần
thoại… dưới dạng mật ngữ, truyền miệng đời này qua đời hác.
Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.
Như phần trên đã trích dẫn lời của học giả Thiệu Vĩ Hoa trong
uốn Chu Dịch và dự đoán học đã đặt vấn đề:
Giới Dịch học cho rằng sự ra đời của học thuyết Ngũ hành rất
có khả năng đồng thời với học thuyết Âm Dương.
Sự thật đúng như vậy! Nhưng sở dĩ qua hơn 2000 năm tính từ thời
Hán cho đến những năm đầu của thế kỷ 21 này, các nhà Lý học Trung Hoa vẫn chưa
tìm được bản chất sự quan hệ thuyết Âm Dương Ngũ hành mà chỉ mới đặt vấn đề một
cách dè dặt cho sự liên quan của nó; chính vì thuyết Âm Dương Ngũ hành chỉ được
phát hiện một cách rời rạc qua những sách vở còn sót lại của một nền văn minh bị
hủy diệt, nên đã tạo ra những khoảng trống không lý giải được. Đối với nền văn
minh Văn Lang – cội nguồn và là nền tảng cho một nền văn hiến gần 5000 của Việt
Nam - thì sự thống nhất và liên hệ đồng thời của thuyết Âm Dương Ngũ hành đã được
thể hiện trong chiếc bánh chưng, bánh dầy. Bởi vì, khi Ngũ hành giải thích sự vận
động của tự nhiên, xã hội và con người, không phải tự nhiên sinh ra mà phải có
bản nguyên của nó. Do đó, Thái Cực theo vũ trụ quan của tổ tiên người Việt được
truyền lại với câu tục ngữ: “Mẹ tròn, con vuông” thì lý của Thái Cực
phải hiểu là:
Bản nguyên của vũ trụ có tính thuần khiết, tràn đầy, viên mãn. Do thuần khiết
nên không thể coi cấu tạo thể bản nguyên gồm những cái cực nhỏ và cũng không thể
là một cái cực lớn; trong đó không có cái “Có” để nói đến cái “Không”. Tượng của
Thái Cực do tính viên mãn nên là hình tròn. Tính của Thái Cực chí tịnh. Bởi chí
tịnh nên động. Có tịnh, có động đối đãi sinh Âm Dương. Cái “Có”, Động (Âm) ra đời
đối đãi với cái “Không” bản nguyên. Tính của Âm tụ, đục, giới hạn nên tượng của
Âm hình vuông. Bởi vậy, ông cha ta đã truyền lại câu tục ngữ: “Mẹ tròn, con
vuông” nhằm hướng dẫn việc lý giải về bản nguyên của vũ trụ. “Mẹ tròn” cái có
trước và là Thái Cực – Trở thành Dương, khi sinh Âm – “Con vuông”, cái có sau.
Với ý nghĩa của câu tục ngữ này và cách giải thích như trên, thì Dương cũng là
Thái Cực (Mẹ tròn) vì có đối đãi nên có sự phân biệt Âm Dương. Hoàn toàn khác hẳn
ý niệm Thái Cực sinh Lưỡng Nghi theo cách hiểu của các nhà Lý học cổ kim, khi họ
cho rằng: Âm Dương tuy cũng có nguồn gốc của Thái Cực, nhưng không phải là Thái
Cực.
Cũng bởi quan niệm phân biệt giữa Thái Cực và Âm Dương, cho nên hầu hết các nhà
Lý học thuộc văn minh Trung Hoa và sau này ở các nơi khác, cho rằng: tính của
Âm là tĩnh và tính của Dương là động. Tức là hiểu sai về căn bản sự vận động của
Âm Dương Ngũ hành. Nhưng theo cách lý giải của văn minh Văn Lang thì Âm động,
do đó Ngũ hành thuộc Âm phải động. Nếu Âm tịnh thì không thể nói đến sự vận động
của Ngũ hành. Điều này lý giải tượng của Ngũ hành nằm trong bánh chưng vuông
thuộc Âm.
Như vậy, quan điểm dựa trên cơ sở phân tích truyền thuyết về
bánh chưng, bánh dầy mà di chứng còn truyền lại đến ngày nay cho rằng: Thuyết
Âm Dương Ngũ hành của tổ tiên người Việt đã phát minh và hoàn chỉnh có từ trước
thời Hùng Vương thứ VI, thì hoàn toàn có thể biết được căn nguyên của sự hình
thành thuyết Âm Dương Ngũ hành và giải thích được tất cả những hiện tượng liên
quan tới nó.
Linh diệu thay! Mỗi khi năm hết tết đến, nhìn lên bàn thờ tổ
tiên lại thấy chiếc bánh dầy tròn đầy một màu trắng thuần khiết, được đặt lên
trên chiếc bánh chưng vuông với màu lá dong xanh mượt, buộc bằng bốn sợi lạc (lạt)
hồng. Đó là tất cả ý nghĩa bản căn của nền lý học cổ Đông phương mà tổ tiên người
Lạc Việt truyền cho con cháu qua hàng thiên niên kỷ, cho đến tận bây giờ.
Để minh họa rõ hơn ý cho rằng Âm Dương - Ngũ hành là một học thuyết xuất hiện đồng
thời mà các nhà Lý học Trung Hoa hiện đại đã đặt vấn đề hoài nghi và chưa thể
giải quyết; ngoài phần minh chứng qua câu tục ngữ “Mẹ tròn, con vuông” và
biểu tượng của nó là bánh Chưng, bánh Dầy, xin được trình bày một trò chơi trẻ
em Việt Nam vẫn còn tương đối phổ biến, đó là trò chơi “Ô ăn Quan”.
Đối với trẻ em Việt Nam trước thời văn minh phương Tây du nhập để có những trò
chơi như: búp bê, bắn bi, hoặc các trò chơi như “Xút xanh”... thì “Ô ăn Quan”
là một trò chơi hấp dẫn, truyền từ đời này qua đời khác cho đến tận bây giờ.
Trò này được chơi như sau:
Trên một hình vẽ gồm 10 ô vuông sắp thành hai hàng trong một
hình chữ nhật. hai đầu hình chữ nhật có hai nửa vòng tròn. Có hai người chơi ngồi
hai bên, đối xứng theo trục dọc của hình. Mỗi bên có 25 quân chia cho mỗi ô 5
quân. Mỗi nửa vòng tròn trong đó có một quan. Quân có thể là hạt nhãn hoặc hòn
sỏi, quan có thể là hạt vải hoặc hòn sỏi to hơn.Đồ hình trò chơi Ô ăn QuanCách chơi: lần lượt từng người chơi. Mỗi bên khi đi chỉ được
phép bốc quân ở một trong năm ô phía bên mình và rải đều mỗi ô một quân theo một
chiều nhất định (kể cả ô quan). Khi hết quân trên tay thì bốc tiếp ở ô kế đã rải
quân cuối cùng và rải tiếp, cho đến khi ngưng trong những điều kiện sau
đây:
@ Ô rải quân cuối cùng sát ngay ô quan (nếu ô quan vẫn còn quân hoặc quan trong
đó).
@ Ô rải quân cuối cùng mà hai ô kế liên tiếp thuận chiều không có quân để bốc.
@ Kế ô rải cuối cùng không có quân và ô kế đó có quân thì được lấy hết quân
trong ô cách ô trống ra ngoài, kể cả đó là ô quan.
Hai trường hợp trên gọi là “Chựng” và phải nhường cho người kia đi. Trường hợp
cuối gọi là “Ăn” và sau đó cũng đến lượt người kia đi.
Một điều đáng lưu ý ở trò chơi này là: mặc dù cả hai bên đều còn quân để đi,
nhưng ô quan không còn quân (đã rải vào trong quá trình chơi) hoặc quan thì trò
chơi vẫn bị ngưng lại. Người chơi hô: “Hết quan, toàn dân kéo về!”. Người
nào ăn và còn nhiều quân nhất thì thắng.
Theo cái nhìn của người viết thì hình ảnh và cách chơi “Ô ăn Quan” đã thể hiện
sự liên quan chặt chẽ của Âm Dương Ngũ hành:
@ Hai quan nằm trong ô tròn biểu tượng hình và tướng của Âm Dương.
@ Mười ô vuông biểu tượng Ngũ hành (năm Âm Ngũ hành và năm Dương Ngũ
hành).
@ Sự vận động của năm quân trong ô biểu tượng cho sự vận động của Ngũ hành.
Trong suốt quá trình chơi là thể hiện sự tiêu trưởng sinh khắc của Âm Dương Ngũ
hành.
@ Trong lúc chơi, khi không còn quân ở hai ô quan (tức là hông có Âm Dương) thì
trò chơi bị ngưng. Nghĩa là: không có Âm Dương thì cũng không có sự vận động của
Ngũ hành.
Phải chăng, trò chơi này nếu không do sự ngẫu nhiên trùng hợp với nguyên lý của
Âm Dương Ngũ hành, thì chính là do ông cha ta đã đặt ra để lưu truyền trong đời
qua thế hệ mầm non một ý niệm về Âm Dương Ngũ hành và sự diễn biến, liên hệ chặt
chẽ của nó: Âm Dương có trước, Ngũ hành có sau và là một hệ tư tưởng thống nhất
hoàn chỉnh, với hy vọng sau này cùng với bánh Chưng, bánh Dầy sẽ chứng tỏ được
nền văn minh kỳ vĩ của tổ tiên.
Thuyết Âm Dương Ngũ hành là một hệ thống Lý học hoàn chỉnh về vũ trụ quan của
người Việt được phát triển và ứng dụng vào nhiều mặt của tự nhiên, xã hội và
con người: trên xét thiên văn, dưới xem địa lý, làm lịch pháp, luận đoán cát
hung, y lý Đông phương và ứng dụng vào cả việc cân bằng sự phát triển, ổn định
xã hội (xin xem phần: “Cửu trù Hồng phạm - bản hiến pháp cổ nhất của người
Lạc Việt”, ở phần sau).
Đến thời Hùng Vương thứ VI, thuyết Âm Dương Ngũ hành đã được biểu tượng hóa một
cách độc đáo trong chiếc bánh chưng, bánh dầy thể hiện Âm Dương hài hòa, Ngũ
hành tương sinh. Sự ấn chứng của vua Hùng chứng tỏ thuyết Âm Dương Ngũ hành là
hệ thống tư tưởng vũ trụ quan chính thống của nền văn minh Văn Lang.
Các học giả của thế giới hiện đại trên nhiều lãnh vực khoa học đã dày công
nghiên cứu thuyết Âm Dương Ngũ hành và đã phát hiện nhiều điểm tương đồng với
khoa học hiện đại. Mặc dù họ chưa có một kết luận về tính khoa học của thuyết
này, nhưng cũng chưa khám phá hết sự kỳ ảo của nó. Nhưng với phạm trù rộng lớn
và qui mô ứng dụng trên khắp mọi lĩnh vực của học thuyết này, đã chứng tỏ:
Thời Hùng Vương không thể chỉ tồn tại khoảng 300 năm và là một thời kỳ được coi
là chưa văn minh lắm so với các quốc gia đương thời. Và cũng không thể kể từ
khi bắt đầu hình thành xã hội Văn Lang cho đến khi chiếc bánh chưng, bánh dầy
được tôn vinh vào thời Hùng Vương thứ VI mới khoảng 100 năm (tức khoảng 4 thế hệ,
theo quan điểm mới) - mà một xã hội lạc hậu hoang sơ, có thể phát minh ra một học
thuyết vũ trụ quan hoàn chỉnh cùng với sự ứng dụng rộng rãi của nó.
Sự tồn tại và phát triển của một học thuyết vũ trụ quan cổ đại với qui mô to lớn
là thuyết Âm Dương Ngũ hành trong một xã hội của người Lạc Việt, tổ tiên của
người Việt Nam hiện nay. Học thuyết này có tham vọng lý giải từ sự hình thành
vũ trụ cho đến mọi sự vận động của con người. Mặc dù những thăng trầm của lịch
sử đã khiến nó bị thất truyền, nhưng sự vi diệu sâu sắc qua những gì còn lại của
nó đã làm kinh ngạc tri thức con người hiện đại. Điều này chỉ có thể giải thích
một cách hợp lý là: Đã có một nhà nước với một tổ chức chặt chẽ của cộng đồng
người Lạc Việt như truyền thuyết đã nói tới. Đó chính là nhà nước Văn Lang, dưới
thời trị vì của các vua Hùng.“Chơi Ô ăn Quan”Bức danh họa của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh sáng tác năm 1931CHƯƠNG I - PHỤ CHƯƠNG
Sự hoài nghi của người viết, dựa trên cơ sở một truyền thuyết được coi là của
chính nền văn minh Trung Hoa (tuy nhiên phải xem lại xuất xứ của nó có phải ở
miền Nam sông Dương Tử hay không?). Truyền thuyết này có những yếu tố phản bác
tác giả của Bát quái trong kinh Dịch là Phục Hy và Chu Công. Xin được thuật lại
như sau (Đoạn sau đây được trích trong bộ Tam Quốc Chí, tác giả La Quán Trung,
dịch giả Phan Kế Bính, Nxb Đại Học và Giáo Dục chuyên nghiệp Hà Nội 1988, tập
6, trang 167, hồi thứ 86):
“Tần Bật biện bác hỏi vặn Trương Ôn.
Từ Thịnh hỏa công phá quân Ngụy chủ”
... Khi ấy Tần Bật ứng đối trôi chảy, nói năng hoạt bát, cả
đám ngồi đều kinh. Trương Ôn không hỏi vặn được câu gì nữa. Bật mới hỏi lại rằng:
- Tiên sinh là danh sĩ Đông Ngô, đã lấy việc trên trời mà hỏi, tất là hiểu sâu
lẽ trời. Khi xưa lúc hỗn độn mới mở, Âm Dương chia biệt, khí nhẹ mà trong thì
bay lên thành trời; khí nặng mà đục thì đọng xuống dưới thành đất. Đến đời họ
Cung Công đánh trận thua, húc đầu vào núi Bất Chu thì cột trời đổ gẫy mà rường
đất sứt mẻ, trời nghiêng về phía Tây Bắc, đất đổ về phía Đông Nam. Trời
đã là khí nhẹ mà trong, làm sao lại còn nghiêng về phía Tây Bắc? Vả lại, ở
ngoài lần khí nhẹ mà trong còn có vật gì nữa, xin tiên sinh dạy cho tôi được biết?
Trương Ôn không biết đối đáp ra sao mới đứng dậy tạ rằng:
- Tôi không ngờ trong Thục lắm người tuấn kiệt thế này, nghe lời ngài giảng luận,
khiến tôi mở được đường ngu dốt...
Đoạn trích dẫn trên chỉ là phần mở đầu của truyền thuyết huyền
thoại về sự tích lúc trời đất mở mang của Trung Hoa.
Đoạn sau của truyền thuyết này tiếp tục kể rằng:
Khi cột trời đổ gẫy, nước từ trên trời trút xuống gây lũ lụt ở
trần gian, khiến muôn loài điêu linh. Bà Nữ Oa phải luyện đá ngũ sắc, vá trời
ngăn mưa lũ. Sau đó khiến một con rùa lớn đứng đội trời lên, thay cho cột trời
đã gẫy. (Truyền thuyết “Bà Nữ Oa vá trời”)
Xét sự sắp xếp của 8 Quái trong Tiên thiên ở hình vẽ trên
(tương truyền do vua Phục Hy phát hiện) thì quẻ Càn (trời) ở trên; Khôn (đất) ở
dưới, ứng với đoạn đầu của truyền thuyết: Khí nhẹ và trong bay lên thành
trời; khí nặng và đục tụ xuống thành đất.
Hậu thiên bát quái theo cổ thư chữ Hán
Theo truyền thuyết thì trong Hậu thiên Bát quái, ngài Chu Văn
Vương đã đưa quẻ Càn (trời) lệch về phía Tây Bắc. Truyền thuyết cũng cho rằng
ngài đã chú giải kinh Dịch. Lời chú giải của ngài gọi là Soán từ, như đã trình
bày ở trên.
Nhưng ứng với truyền thuyết thì sự nghiêng lệch của trời đất lại do cột trời đổ
gẫy. Cột trời có tên là Bất Chu, hiểu theo một nghĩa khác thì Bất Chu nghĩa là
không phải nhà Chu làm trời lệch sang phía Tây Bắc. Qua hình vẽ dưới đây, bạn đọc
sẽ thấy trong hình Hậu thiên, quẻ Càn (trời) lệch về phía Tây Bắc. Phía trên
thay thế là quẻ Khảm (thuộc Thủy) ứng với truyền thuyết: Nước từ trên trời
đổ xuống gây lụt lội khắp nơi. Chi tiết khác nhau duy nhất là theo truyền
thuyết thì đất lệch về hướng Đông Nam; nhưng ở hình Hậu thiên Bát quái - quẻ
Khôn (tượng Đất) - lệch về phía Tây Nam. Sự sai lệch giữa truyền thuyết và thực
tế sắp xếp của Hậu thiên Bát quái có thể lý giải do sự tam sao thất bản vì đã
lưu truyền hàng ngàn năm (kể từ khi Văn Lang bị đô hộ đến thời Tam Quốc chí thì
đã 400 năm, đến thời La Quán Trung viết Tam Quốc thì đã hơn 1000 năm).
Tuy nhiên, theo cái nhìn của người viết thì - mặc dù sự sắp xếp quẻ Hậu thiên
Bát quái có bản văn truyền lại theo cổ thư chữ Hán (tiết 5, Thuyết quái truyện)
- nhưng đã sai lệch. Còn câu chuyện thần thoại này - mặc dù được truyền miệng,
lại chứng tỏ tính chính xác của nó - là một mật ngữ hướng dẫn cho việc đi tìm
những bí ẩn của văn hóa Đông Phương. Bởi vì: xét Bát quái Tiên thiên thì các quẻ
đều có sự đối xứng Âm Dương qua tâm điểm, nhưng ở Bát quái Hậu thiên không có sự
đối xứng đó. Nếu ta theo truyền thuyết đưa quẻ Khôn (Đất) về vị trí Đông Nam và
quẻ Tốn đang ở phía Đông Nam về vị trí Tây Nam của quẻ Khôn, thì sẽ lặp lại qui
luật đối xứng qua tâm của hình Bát quái Hậu thiên. Qui luật đối xứng (cân bằng
Âm Dương) là nguyên lý căn bản của Lý học Đông phương. Xin độc giả so sánh hai
hình vẽ dưới đây để tham khảo.
Hậu thiên bát quái
Đã sửa vị trí Tốn, Khôn theo truyền thuyết
“Đất lệch về phía Đông Nam”
Xuất phát từ sự trùng hợp phản bác đến kỳ lạ của truyền thuyết
với nguyên nhân xuất hiện của Hậu thiên Bát quái và kinh Dịch thiếu một hệ thống
lý thuyết căn bản cho sự vận động của nó (có thể nguyên lý của Bát Quái trong Dịch
học nằm ngay trong truyền thuyết nói trên). Đó là lý do đầu tiên khiến người viết
đặt vấn đề hoài nghi nguồn gốc đích thực của kinh Dịch.
Sự hoài nghi nguồn gốc Hậu thiên Bát quái do vua Chu Văn Vương trước tác, còn
xuất phát từ chính sự nghiệp của ngài Khổng tử. Bởi vì, nếu do vua Văn Vương -
vị vua sáng lập nhà Chu - trước tác thì tất nhiên kinh Dịch phải là quan điểm
vũ trụ quan chính thống của nhà Chu và phải được phổ biến. Nhưng tại sao với một
đại học giả như ngài Khổng tử mà suốt đời bôn ba khắp các nước chư hầu, lại đã
từng làm quan ở một số nước mà mãi đến cuối đời mới biết đến Dịch học? Để rồi
ngài phải lấy làm tiếc vì đã già không có thời gian nhiều để hiểu hết kinh Dịch.
Điều này được chứng tỏ qua đoạn trích dẫn trong sách Kinh Dịch với vũ trụ
quan Đông phương (Gs. Nguyễn Hữu Lượng - Nxb T/p Hồ Chí Minh 1992 - trong
phần “Thay lời giới thiệu” - phần này do Gs. Bửu Cầm viết) như sau:
... Chính Khổng tử trước khi từ trần, còn than tiếc nói với học
trò: “Giá như ta được thêm ít năm nữa để học Dịch cho trọn vẹn thì không có điều
sai lầm lớn” (Luận Ngữ học tri).
Ngài chưa hiểu hết sự biến hóa kỳ ảo của Bát quái, thì tại
sao ngài lại có thể diễn giải ý nghĩa cho các quẻ Dịch như những sách về lịch sử
Dịch học Trung Hoa đã nói tới. Khổng tử - một đại học giả - được tặng danh hiệu “Vạn
thế sư biểu”, tất nhiên không thể có việc san định thiếu thận trọng, nhất
là lúc ngài đã đứng tuổi. Một điều đáng lưu ý nữa là: Vào thời Xuân thu Chiến
quốc (tức là tương đương ới thời Khổng Tử và sau đó hàng trăm năm) có rất nhiều
các nhà tư tưởng nổi tiếng Trung Hoa như Mạnh Tử, Hàn Phi Tử, Tuân Tử... nhưng
rong các trước tác của họ không hề có một câu nhắc đến kinh Dịch. Nếu như kinh Dịch
được Khổng Tử san nhuận và phổ biến với kinh ách của ông; thì với một người nổi
tiếng như ông, không thể nào tư tưởng của kinh Dịch do ông san định lại không
ghi dấu ấn cho các học giả đời sau.
Những vấn đề nêu trên đã chứng tỏ kinh Dịch không phải là một học thuyết phổ biến
và càng không phải là một hệ thống vũ trụ quan của nền văn minh Trung Hoa, ít
nhất đến thời Khổng tử. Do đó, hoàn toàn có cơ sở để đặt vấn đề rằng: cả Khổng
tử lẫn Chu Công, các ngài chưa hề san nhuận hoặc chú giải kinh Dịch. Sự gán
ghép khiên cưỡng cho các ngài chú giải kinh Dịch đã tạo ra sự phi lý:
Sinh con rồi mới sinh cha
Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông
Cũng như hiện tượng gán ghép vua Phục Hy dựa vào Hà đồ để vạch
quẻ Bát quái Tiên thiên, vua Văn Vương dựa vào Lạc thư làm ra Bát quái Hậu
thiên. Nhưng Lạc thư lại là phương tiện để xuất hiện Hà đồ và nội dung cả hai đồ
hình này đều thể hiện sự vận động của Ngũ hành. Tất cả những sự phi lý nói trên
đã phủ nhận kinh Dịch có nguồn gốc từ văn minh Hoa Hạ. Vấn đề này chính những
nhà Lý học Trung Hoa thời Tống cũng lên tiếng hoài nghi. Đoạn trích dẫn dưới
đây chứng tỏ điều này (Kinh Dịch với Vũ trụ quan Đông phương - sách đã dẫn,
trang 85):
Tuy nhiên, không phải ai cũng dễ tính như ai! Ngay trong làng
Nho, thiếu gì người lên tiếng đả kích Hán nho, nhất là đả kích Khổng An Quốc.
Du Diễm đời Tống căn cứ vào câu nói của Khổng tử trong Dịch Hệ thượng: “Đồ xuất
hiện ở sông Hà, Thư xuất hiện ở sông Lạc, đấng thánh nhân bắt chước theo” mà
cho rằng Đồ Thư đều xuất hiện ở thời Phục Hy, chứ không phải hai thời khác nhau
như họ Khổng đã chia ra. Ông nói: Phục Hy bắt chước theo Hà đồ, Lạc thư mà hoạch
quái, Thế mà Khổng An Quốc lại bảo Phục Hy hoạch quái phải bắt chước theo Hà đồ,
còn Đại Vũ bày Cửu trù phải bắt chước theo Lạc thư. Vì sao họ Khổng lại chia
làm hai như vậy? Sách Cửu Kinh biện nghi của họ Trần xét theo Ngọc
xuyên văn tập có nói: “Nếu bảo Phục Hy hoạch quái, gốc ở Hà đồ thì Khổng tử chỉ
cần nói Đồ xuất hiện ở sông Hà, đấng thánh nhân bắt chước theo là đủ rồi, hà tất
phải nói gồm cả Lạc thư vào nữa làm gì? Đã nói: bắt chước theo Đồ, Thư để làm Dịch
thì như thế Đồ Thư đều phải có từ đời Phục Hy, chứ sao lại phải đợi mãi tới khi
vua Vũ trị thủy sau này mới có Lạc Thư”? Họ Du tiếp thêm: Số của Dịch bất quá từ
Trời 1 đến Đất 10, chỉ có 44 số mà thôi, chứ chưa từng được mệnh danh là Hà đồ,
cũng như chưa từng được mệnh danh là Lạc thư. Thế mà Khổng An Quốc dám bảo: Thời
Phục Hy có con long mã mang Đồ xuất hiện ở sông Lạc, nhà Vua thấy vậy bèn nhân
đó xếp đặt điểm số để lập thành Cửu trù, gọi là Lạc thư. Họ Khổng căn cứ vào
đâu vậy?”
Chưa hết, Du còn phê bác, chỉ trích nhiều điểm khác: “Thời vua Phục Hy chưa có
văn tự. Nhà vua nhân những nét chấm của Hà đồ, Lạc thư mà hoạch quái, chứ chẳng
phải Đồ Thư có những số trời sinh sẵn để cho ngài lấy dùng! Nếu Dịch Hệ từ nói:
ngửa trông tượng ở trên trời, cúi xem phép ở dưới đất, quan sát hình nét của
chim muông cùng với sự thích nghi của đất, gần thì lấy ở mình, xa thì lấy ở vật,
do đó mới vạch Bát quái; vậy thì Phục Hy hoạch quái há chỉ riêng Hà đồ và Lạc
thư thôi sao?”
Nhưng Bát quái của Dịch học bắt nguồn từ đâu?
Theo như truyền thuyết đã trình bày ở trên, thì: Bát quái Tiên thiên và Hậu
thiên đã có ngay từ thời tối cổ. Sự có mặt của Thái Cực - Âm Dương trong các bản
Chu Dịch chữ Hán trước đây, cũng như sự có mặt của Âm Dương Ngũ hành trong các
sách liên quan đến học thuyết này (Thí dụ như sự ứng dụng của nó trong Chu Dịch
và Dự đoán học của tác giả Thiệu Vĩ Hoa), thực ra đã có từ lâu trong nền văn
minh Văn Lang. Nhưng đấy chỉ là sự vận dụng phương pháp luận của thuyết Âm
Dương Ngũ hành để lý giải Dịch của tác gia Văn Lang. Chính sự có mặt của thuyết
Âm Dương Ngũ hành với Bát quái, đã chứng tỏ Bát quái thuộc về một nền văn minh
tối cổ tồn tại trong xã hội Văn Lang. Việc sử dụng phương pháp luận của
thuyết Âm Dương Ngũ hành để giải đoán quẻ trong “Chu Dịch và dự đoán học” không
thấy có trong bản Chu Dịch gốc như đã trình bày ở trên. Điều này chứng tỏ rằng:
Thuyết Âm Dương Ngũ hành là nguồn gốc của kinh Dịch và sự vận động của Bát quái
chỉ là sự thể hiện của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Hiện tượng này đã chứng tỏ
tính bao trùm của học thuyết Âm Dương Ngũ hành. Đó là nguyên nhân để cuốn “Chu
Dịch và dự đoán học” do ông Thiệu Vĩ Hoa công bố có thể sử dụng phương
pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành giải đoán quẻ Dịch. Nhưng như các phần
trên đã đặt vấn đề: Thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết hoàn chỉnh và nhất
quán; Bát quái chỉ là ký hiệu thể hiện của học thuyết này. (*)
Chú thích:
(*) Trong lần xuất bản trước, người viết không có ý
tưởng này (phần in nghiêng) và vẫn cho rằng thuyết Âm Dương Ngũ hành không liên
quan đến kinh Dịch. Nhưng xuất phát từ sự hoài nghi đã trình bày ở trên, ngay
sau lần xuất bản đầu tiên, người viết đã tiếp tục tìm hiểu về kinh Dịch và hiệu
chỉnh như trên. Những ý tưởng trong phần phụ chương này, sau lần xuất bản thứ
nhất, được trình bày trong sách “Tìm về cội nguồn Kinh Dịch” (Tái bản lần 1,
Nxb VHTT - 2002).
Chính vì không phải là chủ nhân đích thực của thuyết Âm Dương
Ngũ hành, cho nên ngay cả việc ứng dụng Âm Dương trong thuyết Âm Dương Ngũ hành
vào Bát quái từ nguyên lý khởi nguyên trong cổ thư chữ Hán, đã chứng tỏ tính
phi lý của nó. Qua biểu tượng kinh Dịch quen thuộc dưới đây bạn đọc cũng nhận
thấy vòng tròn (Thái Cực) với 2 nửa Âm Dương ở giữa - vốn được coi là nguồn gốc
của Bát Quái. Bát Quái bao quanh thể hiện sự biến hóa của Âm Dương. Nhưng với 2
quẻ: Càn thuần Dương và Khônthuần Âm, so với biểu tượng của Âm Dương
trong vòng tròn thì cái nào có trước? Không lẽ tính thuần Dương của quẻ Càn
không phải là Dương trong vòng tròn (Dương bản nguyên) nhưng lại là Dương? Tính
thuần Âm của quẻ Khôn không phải là Âm trong vòng tròn (Âm bản nguyên) nhưng lại
là Âm?
Đồ hình minh họa qua bát quái Tiên Thiên
Sự phi lý do gán ghép khiên cưỡng này trải hàng thiên niên kỷ,
phải chăng đã được ông cha ta nói đến trong một câu đố nổi tiếng: “Mồm bò,
chẳng phải mòm bò, nhưng lại là mồm bò”. Câu đố được lý giải là con ốc!
Con ốc thì không phải mồm (con) bò, nhưng dùng mồm để bò thì lại là con ốc. Thực
là một lối chơi chữ đến tuyệt kỹ, cuối cùng chẳng hiểu là con gì?
Hơn nữa, kinh Dịch vốn được coi là một cuốn sách “bói”. Cũng chính vì được coi
là một cuốn sách bói, nên nó đã thoát khỏi ngọn lửa hủy diệt văn hóa của Tần Thủy
Hoàng. Trên thực tế, kinh Dịch dùng đã bói cũng đã trải hàng thiên niên kỷ; cho
đến tận bây giờ, hầu hết những nhà nghiên cứu vẫn cho rằng kinh Dịch dùng để
bói. Nhưng, chúng ta cũng biết rằng một trong những tiêu chuẩn để thẩm định cho
một luận thuyết khoa học là nó phải có khả năng dự báo. Khả năng dự báo này chỉ
thực hiện được sau khi đã hình thành một hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh. Trong
khi đó, kinh Dịch đã chứng tỏ khả năng dự báo - mà mọi người gọi nôm là bói -
có hiệu quả trải hàng thiên niên kỷ; nhưng nó vẫn thiếu hẳn một hệ thống lý
thuyết của nó. Thật là một sự vô lý khi khả năng dự báo lại ra đời trước một học
thuyết để có khả năng thực hiện những dự báo qua những ký hiệu của kinh Dịch.
Điều này đã chứng tỏ: những ký hiệu trong kinh Dịch chỉ là hệ quả của một hệ thống
lý thuyết đã thất truyền. Do đó, nếu nền văn minh Hoa Hạ - nơi mà từ trước đến
nay vẫn được coi là cái nôi của nền văn minh phương Đông và kinh Dịch vốn được
coi là có sự hình thành và phát triển liên tục trải qua nhiều thế hệ trong cái
nôi đó - thì thật là sự vô lý với những tri kiến của khoa học hiện đại, khi khả
năng dự báo lại có trước sự hình thành lý thuyết.
Với những vấn đề được trình bày ở trên, thì Bát quái thuộc về nền văn minh Văn
Lang và là những ký hiệu mà các nhà lý học Văn Lang dùng để lý giải qui luật vận
động của vũ trụ theo thuyết Âm Dương Ngũ hành. Dấu ấn của nền văn minh Văn Lang
theo truyền thuyết “Bà Nữ Oa vá trời” chính là hình ảnh con Rùa - một biểu tượng
của phương tiện chuyển tải tri thức của nền văn minh Văn Lang (xin xem thêm phần:
“Phương tiện ghi nhận chuyển tải tri thức dưới thời Hùng Vương” ở chương IV “Sự
tích Trầu Cau”) – còn ở trong kinh Dịch thì đó chính là Âm Dương Ngũ hành. Khi
xã hội Văn Lang bị thu hẹp dần lãnh thổ theo những diễn biến của lịch sử, Bát
quái đã truyền sang nền văn minh Trung Hoa. Có thể ngài Khổng tử đã biết đến
Bát quái vào thế kỷ thứ VI – V trước Công nguyên. Điều này đã chứng tỏ có thể
Bát quái của Văn Lang được truyền sớm nhất sang Trung Hoa. Như vậy hoàn toàn có
cơ sở để cho rằng: lãnh thổ Văn Lang vào ngay thời Xuân Thu đã có những biến động
hoặc hai nền văn hóa Trung Hoa và Lạc Việt đã có sự giao lưu ít nhất cũng qua
ngài Khổng tử.
Do mục đích của cuốn sách này không đi sâu vào những học thuật cổ Đông Phương,
người viết chỉ xin được trình bày để các bậc trí giả xem xét.
CHƯƠNG 2Nhưng thực tế đã không phải vậy. Trên cơ sở của thuyết Âm Dương Ngũ hành, tổ
tiên người Việt đã ứng dụng trong việc tìm hiểu sự vận hành của những ngôi sao
trong Thiên hà, tức là sự vận động của ũ trụ và ảnh hưởng của những hiệu ứng vũ
trụ đối với tự nhiên, cuộc ống và con người. Bắt đầu của sự thể hiện này chính
là Lạc thư - Hà ồ.
Theo truyền thuyết Trung Hoa: Hà đồ do vua Phục Hy (niên đại
hoảng 3500 năm tr.CN; có sách chép hơn 4000 tr.CN) phát hiện khi tuần thú ở
sông Hoàng Hà. Ngài thấy Long Mã từ dưới sông hiện lên, trên lưng có Hà đồ ghi
việc trời đất mở mang. Lạc thư là do vua Lại Vũ (2205 năm tr.CN) khi đi trị thủy,
ngài thấy con rùa thần nổi lên, trên mình vẽ Lạc thư.
Hệ từ thượng chép: “Thị cố thiên sinh thần vật, thánh nhân tắc
hi, thiên địa biến hóa, thánh nhân hiệu chi; thiên thùy tượng, hiện cát ung,
thánh nhân tượng chi. Hà xuất đồ, Lạc xuất thư, thánh nhân tắc hy”.
(Cho nên trời sinh ra thần vật, thánh nhân áp dụng theo; trời đất tiến hóa,
thánh nhân bắt chước; trời bày ra hình tượng. Hiện ra sự tốt ấu, thánh nhân phỏng
theo ý tượng. Bức đồ hiện ra ở sông Hoàng Hà, ình chữ hiện ra ở sông Lạc, thánh
nhân áp dụng theo). (Chu Dịch vũ trụ quan - sách đã dẫn)
Như phần trên đã trình bày, vấn đề tác giả của Hệ từ thượng thừa có sự thống nhất, người bảo của Cơ Tử viết vào thời Chu; người ảo của Khổng
Tử viết; người bảo do học giả đời sau thêm vào... (Cuốn ách này minh chứng thực
trạng xã hội Văn Lang qua truyền thuyết của cha ông để lại, cho nên nó phải bắt
đầu bằng sự tôn trọng đối với truyền thuyết, dù là của dân tộc khác).
Về truyền thuyết Hà đồ - Lạc thư có thể giải thích như sau: Vua hục Hy, Đại Vũ
đã biết đến biểu tượng của Hà đồ - Lạc thư do tiếp úc với văn minh Văn Lang,
khi đi tuần thú và trị thủy. Nhưng nếu hai gài phát minh ra Hà đồ và Lạc thư
thì thuyết Âm Dương Ngũ hành hắc chắn đã được phát triển hoàn chỉnh, chứ không
thể là một sự mơ ồ như đã trình bày ở trên. Do đó, Hà đồ - Lạc thư được hình
thành trong việc quan sát thiên hà với sự áp dụng của thuyết Âm Dương Ngũ hành
thì phải là của người Việt Nam. Bởi những lý do sau đây:
Về cụm danh từ Hà đồ - Lạc thư
Ý nghĩa của cụm từ “Hà đồ - Lạc thư” có thể giải thích như sau: truyền
thuyết đã ghi nhận vào thời Hùng Vương - tướng văn gọi là Lạc hầu; tướng võ gọi
là Lạc tướng; dân gọi là Lạc dân, ruộng gọi là Lạc điền... tất nhiên sách thuộc
về văn minh chính thống của Văn ang phải gọi là “Lạc Thư”. Nghĩa chữ
Hà đồ có thể hiểu là Ngân à hoặc Thiên Hà. Như vậy có thể hiểu Hà đồ là những đồ
hình miêu ả sự vận động của vũ trụ liên quan đến Ngân Hà. Toàn bộ cụm từ Hà đồ -
Lạc thư, có thể hiểu là sách của người Lạc Việt ghi lại những tri kiến vũ trụ
liên quan đến giải Thiên Hà (hoặc Ngân Hà).
Về nội dung Hà đồ - Lạc thư
Hình Lạc thư
Hình Lạc thư Cửu tinh đồ
(*)
Chú thích:
(*) Tư liệu trong “Chu Dịch - Vũ trụ quan”, sách đã
dẫn.
Qua hình trên, bạn đọc cũng nhận thấy: Sao Ngũ Đế Tọa là
trung cung; Bắc cực: phương Bắc; Thiên Kỷ: phương Nam; Hà Bắc: phương Đông; Thất
Công: phương Tây. Bốn chòm sao chính hướng Đông - Tây - Nam - Bắc và tòa Ngũ Đế
Tọa thuộc Dương (chấm trắng trên Lạc thư). Bốn chòm sao ở các hướng phụ thuộc
Âm (chấm đen trên Lạc thư).
Như vậy, Lạc thư tương truyền do vua Đại Vũ phát hiện trên lưng rùa ở sông Lạc,
thực chất là hình vẽ cô đọng của Lạc thư Cửu tinh đồ, miêu tả vị trí của các
chòm sao trên bầu trời để định hướng vị trí tương quan các vì sao trên vũ trụ.
Lạc thư Cửu tinh đồ thì lại không phải do vua Đại Vũ tìm ra (Lạc Thư Cửu tinh đồ
không rõ tác giả, chỉ biết là sách xưa truyền lại). Bởi nếu do vua Đại Vũ tìm
ra thì ông sẽ không phải vẽ lại trên lưng con rùa làm gì. Cho rằng đúng là vua
Đại Vũ phát hiện những chấm đen trắng trên lưng con rùa thần ở sông Lạc. Những
chấm đen trắng đó do sự ngẫu nhiên trùng hợp với vị trí các sao trên bầu trời
và cũng ngẫu nhiên tên sông Lạc trùng với tên Lạc thư của người Lạc Việt, thì
điều đó cũng chẳng nói lên được cái gì. Lạc thư do vua Đại Vũ tìm ra sẽ không
có nghĩa, nếu như không có Lạc thư Cửu tinh đồ diễn tả nội dung của nó và Hà đồ,
tức là cái có sau Lạc thư thể hiện tính ứng dụng của nó. Nhưng thật vô lý! Hà đồ
lại do vua Phục Hy tìm ra trước vua Đại Vũ hơn 1000 năm. Để chứng minh điều
này, xin so sánh hai hình vẽ dưới đây của Lạc thư với Hà đồ.
Hình Hà đồ
Tương truyền do vua Phục Hy tìm ra trên lưng long mã
Như phần trên đã trình bày và cũng chứng minh tương tự như đối
với Lạc thư: tự bản thân những chấm đen trắng trên lưng con rùa thần nổi lên ở
sông Lạc do vua Vũ phát hiện; cũng như những chấm đen trắng trên lưng con Long
Mã mà vua Phục Hy phát hiện gọi là Hà đồ ở sông Hoàng Hà, sẽ không có nghĩa gì
nếu như không có nội dung của nó.
Trước khi diễn tả nội dung của Hà đồ, xin được trình bày với bạn đọc về phương
pháp tính giờ của Âm lịch.
Âm lịch chia 1 ngày thành 12 giờ gọi tên theo 12 con Giáp là Tý, Sửu, Dần, Mão,
Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Mỗi giờ Âm lịch bằng 2 giờ Dương lịch,
theo qui ước bắt đầu từ giờ Tý (23g - 1g), Sửu (1g - 3g), Dần (3g - 5g), Mão
(5g - 7g), Thìn (7g - 9g), Tỵ (9g - 11g), Ngọ (11g - 13g), Mùi (13g - 15g),
Thân (15g - 17g), Dậu (17g - 19g), Tuất (19g - 21g), Hợi (21g - 23g).
Với sự phân chia thời gian theo Âm lịch nói trên và sự định hướng phương vị của
Lạc thư, thì các ngôi sao quen thuộc trong Thái Dương hệ là: Sao Kim (*), sao Thủy (*),
sao Hỏa, sao Mộc, sao Thổ lần lượt xuất hiện trên bầu trời được ghi lại theo độ
số của Hà đồ như sau:
Chú thích: (*) Theo Hán thư Nghệ văn chí thì sao Kim ngày nay,
người xưa gọi là sao Thủy; sao Thủy ngày nay, người xưa gọi là sao Kim (“Chu Dịch
- Vũ trụ quan”, sách đã dẫn).
Vị trí xuất hiện của sao Thủy ở phương Bắc trên bầu trời
Trong ngày: giờ thứ nhất (giờ Tý); giờ thứ sáu (giờ Tỵ).
Trong tháng: ngày mùng 1, 6, 11, 16, 21, 26. mặt Trời, mặt Trăng gặp sao Thủy ở
phương Bắc.
Trong năm: Tháng 11, 6. Lúc hoàng hôn thấy ở phương Bắc.
Vị trí của sao Thủy theo độ số của sao Thủy trên Hà đồ (1 - 6), ứng với phương
Bắc của Lạc thư.
Vị trí xuất hiện của sao Hỏa ở phương Nam trên bầu trời
Trong ngày: giờ thứ hai (giờ Sửu); giờ thứ bảy (giờ Ngọ).
Trong tháng: ngày 2, 7, 12, 17, 22, 27. mặt Trời, mặt Trăng gặp sao Hỏa ở
phương Nam.
Trong năm: Tháng 2, 7. Lúc hoàng hôn thấy ở phương Nam.
Vị trí của sao Hỏa theo độ số của sao Hỏa trên Hà đồ (2 - 7), ứng với phương
Nam của Lạc thư.
Vị trí xuất hiện của sao Mộc ở phương Đông trên bầu trời
Trong ngày: giờ thứ ba (giờ Dần); giờ thứ tám (giờ Mùi).
Trong tháng: ngày mùng 3, 8, 13, 18, 23, 28. mặt Trời, mặt Trăng gặp sao Mộc ở
phương Đông.
Trong năm: tháng 3, 8. Lúc hoàng hôn thấy ở phương Đông.
Vị trí của sao Mộc theo độ số của sao Mộc trên Hà đồ (3 - 8), ứng với phương
Đông của Lạc thư.
Vị trí xuất hiện của sao Kim ở phương Tây trên bầu trời
Trong ngày: giờ thứ tư (giờ Mão); giờ thứ chín (giờ Thân)
Trong tháng: ngày mùng 4, 9, 14, 19, 24, 29. mặt Trời, mặt Trăng gặp sao Kim ở
phương Tây.
Trong năm: tháng 4, 9. Lúc hoàng hôn thấy ở phương Tây.
Vị trí của sao Kim theo độ số của sao Kim trên Hà đồ (4 - 9), ứng với phương
Tây của Lạc thư.
Vị trí xuất hiện của sao Thổ ở giữa bầu trời
Trong ngày: giờ thứ năm (giờ Thìn); giờ thứ mười (giờ Dậu).
Trong tháng: ngày mùng 5, 10, 15, 20, 25, 30. mặt Trời, mặt Trăng gặp sao Thổ ở
giữa.
Trong năm: tháng 5, 10. Lúc hoàng hôn thấy ở giữa trời.
Vị trí của sao Thổ theo độ số của sao Thổ trên Hà đồ (5 - 10), ứng với Lạc thư ở
giữa. (Theo Chu Dịch vũ trụ quan - sách đã dẫn).
Trên cơ sở của Âm Dương Ngũ hành sự phân chia các hành theo độ
số của Hà đồ như sau:
* Dương Ngũ hành lần lượt có độ số là:
Thủy - 1; Mộc - 3; Hỏa - 7; Kim - 9; Thổ - 5 (chấm trắng trên Hà đồ).
* Âm Ngũ Hành lần lượt có độ số là:
Thủy - 6; Hỏa - 2; Mộc - 8; Kim - 4; Thổ - 10 (chấm đen trên Hà đồ).
Qua phần giới thiệu nội dung như trên, thì bạn đọc cũng nhận thấy rằng:
Lạc thư phải có trước để định dạng phương vị cho Hà đồ. Chứng tỏ việc vua Phục
Hy tìm ra Hà đồ trước vua Vũ tìm ra Lạc thư 1000 năm là vô lý. Nội dung của Lạc
thư - Hà đồ hoàn toàn mang ý nghĩa quan sát thiên văn, phát triển trên cơ sở của
thuyết Âm Dương Ngũ hành, từ đó tìm ra những hiệu ứng vũ trụ tác động vào sự vận
động của tự nhiên, xã hội và con người.
Từ hàng thiên niên kỷ, những nhà Lý học thuộc các triều đại phong kiến Trung
Hoa cho rằng: vua Phục Hy dựa vào Hà đồ để làm ra Tiên thiên Bát Quái:
Phục Hy tắc Hà đồ hoạch quái (vua Phục Hy bắt chước Hà đồ để
vạch quẻ). (*)
Còn Lạc thư thì được coi là nguồn gốc của Hậu thiên Bát quái.
Bảo Ba - một nhà Lý học Trung Hoa chuyên lý giải Dịch học nói:
Thử Hậu thiên bản Lạc Thư giả (Sắp đặt như thế, đấy chính là
Hậu thiên gốc Lạc Thư). (*)
Chú thích:
(*) “Kinh Dịch với Vũ trụ quan Đông phương”, Nguyễn
Hữu Lượng, Nxb Tp Hồ Chí Minh 1992, trang 158).
Như phần trên đã chứng minh: Lạc thư phải có trước Hà đồ. Nên
vua Phục Hy dựa vào Hà đồ làm ra Tiên thiên; còn vua Văn Vương dựa vào Lạc thư
làm ra Hậu thiên thì cực vô lý.
Trong sách Chu Dịch vũ trụ quan (sách đã dẫn) giới thiệu một hình vẽ là ma trận
Lạc thư (tương truyền cũng do vua Đại Vũ tìm ra - xem hình vẽ dưới đây). Ma trận
Lạc thư có 9 ô, độ số là 45 tạo ra một ma phương cấp 3, số ngang dọc, chéo gộp
lại là 15 gọi là Lạc thư cửu cung. Từ ma phương cấp 3, sự biến dịch của độ số Lạc
thư rất vi diệu, tạo nên nhiều ma phương mênh mông kỳ ảo theo một quy luật nhất
định là: tổng các ô dọc, ngang, chéo đều bằng nhau, thuộc về một dạng của toán
học cao cấp. Tất nhiên, ma trận Lạc thư phải thuộc về nền văn minh Văn Lang,
khi Lạc thư của nền văn minh này.
Để minh họa cho sự vận động của Ngũ hành trong Lạc thư cửu cung và sự tương
quan giữa Lạc thư và Hà đồ thuộc về văn minh Văn Lang. Xin được trình bày một
trò chơi của trẻ em Việt Nam, cho đến những năm 60 của thế kỷ này vẫn còn phổ
biến. Trò chơi có tên gọi là “Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ” và so sánh với cửu
cung của Lạc thư được thể hiện bằng hình vẽ và trình bày dưới đây, sẽ minh chứng
cho sự tương quan giữa thuyết Âm Dương Ngũ hành và Lạc thư Hà đồ đã trình bày ở
trên. Nếu như trong quẻ Dịch người ta có thể diễn giải một cách đơn giản vạch đứt
là Âm, vạch liền là Dương, thì sự tương quan giữa trò chơi này với học thuyết
Âm Dương Ngũ hành còn nhiều điểm trùng khớp chứng tỏ sự liên hệ của nó.
Có hai người chơi. Mỗi bên 4 quân được sắp xếp trong một
hình chữ thập được cấu tạo do 5 hình vuông như hình trên. Lần lượt từng người
chơi, mỗi lần chơi chỉ đi được một quân. Khi nhấc quân đi thì hô: “Kim, Mộc, Thủy,...”. Mỗi tên một hành khi hô thì đưa quân đi lần lượt vào từng giao điểm của hình
vuông, không được đi xéo: giao điểm thứ nhất (không tính vị trí của quân) hô:
“Kim”; giao điểm thứ hai hô: “Mộc”... tối đa chỉ được 5 nước, đến Thổ hoặc vướng
quân đối phương phải ngừng lại. Không được lùi lại, nhưng những bước đi có thể
theo nhiều hướng. Nếu quân đối phương đứng ở vị trí thứ 5 thì được ăn (loại ra
ngoài). Người nào hết quân thì thua.
Hàm nghĩa của trò chơi này thể hiện sự liên quan Âm Dương Ngũ hành và Lạc thư
như sau:
@ Mỗi bên 4 quân tương tự với sự vận động của 4 chòm sao Âm và bốn chòm sao
Dương trong Lạc thư cửu tinh đồ.
@ Tên trò chơi và lời hô: “Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ” chính là chiều ngược
kim đồng hồ của Ngũ hành bắt đầu từ hành Kim trên Lạc thư cửu cung (xem hình vẽ
trên).
@ Năm hình vuông nằm trong chữ thập của trò chơi là sự cô đọng Lạc thư cửu cung
(gộp hai cung Âm Dương làm một). Sự vận động của Ngũ hành trên Lạc thư theo chiều
ngược kim đồng hồ (đây cũng chính là chiều vận động của các hành tinh trong
Thái dương hệ, thể hiện sự tương khắc của Ngũ hành như sau: Kim khắc Mộc, Mộc
khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim).
Những trò chơi như “Ô ăn Quan” và “Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ” không
thể do các nhà Lý học Trung Hoa từ thời Hậu Hán trở về sau phát minh ra được. Bởi
vì, nếu do một người nào đó thuộc khoảng thời gian này phát minh thì mọi vấn đề
đã được sáng tỏ, ít nhất cũng ở sự liên hệ giữa Âm Dương và Ngũ hành. Điều này
chỉ có thể giải thích một cách hợp lý là: những trò chơi này do các nhà Lý học
Văn Lang tạo ra để lưu truyền trong đời. Qua đó bạn đọc thấy được trí tuệ siêu
đẳng của các tác gia thời Hùng.
Bạn đọc có thể cho rằng: Nhận định về bánh chưng, bánh dầy, trò “Ô ăn
Quan”, “Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ” mang tính chủ quan và những vấn đề trên
chỉ là một sự ngẫu nhiên trùng hợp. Cách đặt vấn đề đó có thể đúng, người viết
cũng đã tự đặt vấn đề cho mình. Nhưng những điều ngẫu nhiên trùng hợp chỉ có thể
xảy ra ở những hiện tượng đơn giản. Điều này không thể xảy ra cho những sản phẩm
trí tuệ lưu truyền trong văn hóa dân gian, mà có sự trùng lặp gần như hoàn toàn
về nhiều mặt của những vấn đề liên quan đến một học thuyết, nhưng lại không có
sự liên quan đến nó.
Qua phần chứng minh trên về sự liên hệ của Lạc thư - Hà đồ và sự bổ trợ cho
nhau của nó, chứng tỏ nó phải là một sự liên hệ nối tiếp cùng thời, không thể
có trước sau hàng ngàn năm được.
Kể từ thời Hán, các nhà nghiên cứu Lý học ghép Hà đồ với Tiên thiên Bát quái; Lạc
thư với Hậu thiên Bát quái. Sự gán ghép khiên cưỡng đó đã lưu truyền hơn 2000
năm, mặc dù không có cơ sở nào để có sự liên hệ giữa Hà đồ và Tiên thiên, hoặc
Lạc thư với Hậu thiên, như cổ thư chữ Hán đã nói tới. Ông Thiệu Vĩ Hoa, trong
tác phẩm Chu Dịch với dự đoán học (Nxb Văn Hóa Hà Nội - 1995;
trang 24) cũng viết:
Kinh Dịch ra đời sớm hơn “Truyện Dịch” bảy, tám trăm năm, nên
bát quái không phải dựa theo “Hà đồ”, “Lạc thư” mà vẽ. Đó là điều không ai phủ
nhận được.
Quan điểm của ông Thiệu Vĩ Hoa xuất phát từ chính sự sai lệch
trong sự liên quan mà cổ thư chữ Hán cho rằng: Hà Đồ là căn nguyên của Tiên thiên
Bát quái (cái có trước, do vua Phục Hy sáng tác); Lạc thư là căn nguyên của Hậu
thiên Bát quái (cái có sau, do vua Chu Văn Vương sáng tác). Trong lần tái bản
này, sau khi tìm hiểu kỹ về kinh Dịch, người viết cho rằng Lạc thư – Hà đồ có
liên quan rất hữu cơ với Bát quái. Nhưng không phải như cổ thư chữ Hán đã nói,
mà là Hậu thiên Bát quái liên quan tới Hà đồ (*).
Chú thích: (*) Vấn đề này đã được trình bày trong cuốn “Tìm về
cội nguồn kinh Dịch”, Nxb VHTT 2002.Tái bản lần thứ 1, có sửa chữa và bổ sung
Nhưng chính sự gán ghép vô lý đó đã chứng tỏ những vấn đề
sau:
Khẳng định vua Đại Vũ không phải là tác giả của Ngũ hành như Kinh Thư nói đến.
Bởi vì độ số của Hà đồ được coi là do vua Phục Hy phát hiện xác định phương vị
Ngũ hành. Như vậy ít nhất Ngũ hành phải được vua Phục Hy nghĩ ra trước khi định
phương vị cho nó. Nhưng vua Phục Hy lại không phải là người diễn giải thuyết
Ngũ hành, mặc dù theo truyền thuyết tìm ra Hà đồ. Điều này đã chứng tỏ truyền
thuyết được ghi nhận trong cổ thư chữ Hán, đã gán ghép một cách phi lý cho việc
phát hiện ra Lạc thư - Hà đồ và các vấn đề liên quan. Đồng thời cũng chứng tỏ rằng:
Thuyết Âm Dương Ngũ hành và Lạc thư - Hà đồ là sản phẩm trí tuệ của người Lạc
Việt. Từ đó nền văn minh Văn Lang đã tìm ra những hiệu ứng vũ trụ tác động lên
tự nhiên, cuộc sống, xã hội, con người và đã để lại cho nhân loại hiện đại cả một
kho tàng lý luận Đông y đồ sộ, phương pháp dự đoán tương lai qua Thái Ất Thần
kinh, Kỳ môn Độn giáp... và một kho tàng tri thức về thời tiết, lịch số sử dụng
trong nông nghiệp. Tất cả đều bắt đầu từ nguyên lý vận động của thuyết Âm Dương
Ngũ hành.
CHƯƠNG II – PHẦN 1Kinh Dương Vương đi tuần ở Động Đình Hồ, gặp bà Vụ Tiên sinh Lạc Long quân, Tổ
phụ Lạc Long Quân thuộc giống Rồng lấy Tổ mẫu Âu Cơ thuộc giống Tiên, sanh được
một bọc chứa 100 trứng, nở thành 100 người con trai. Tổ phụ đưa 50 người con xuống
biển. Tổ mẫu đưa 50 người con lên núi, lập nước Văn Lang và người con cả lên
ngôi vua là Hùng Vương thứ nhất. Nước Văn Lang chia làm 15 bộ…
Đây là hình ảnh biểu tượng được thần thoại hóa, trong đó gửi
gấm những ý tưởng của cha ông truyền lại cho đời sau về nguồn gốc Lạc thư - Hà
đồ và thuyết Âm Dương Ngũ hành, khẳng định sự kỳ vĩ của nền văn minh Văn Lang,
niềm tự hào của người Lạc Việt. Hình ảnh biểu tượng này được lý giải và trình
bày như sau:
@ Cái bọc trứng là sự thể hiện tính bao trùm của vũ trụ với sức mạnh kỳ vĩ
trong đó chứa đựng tri thức của một nền văn minh mà sự phát xuất nguyên thủy của
nó chính là Thái cực. Tượng của Thái cực là hình tròn, đồng thời là Dương khi
phân biệt Âm Dương.
@ Một trăm quả trứng (tức là 100 vòng tròn): Đó là tổng độ số của Lạc thư - Hà
đồ, gồm: Độ số của Lạc thư là 45; độ số của Hà đồ là 55; tổng độ số của Lạc thư
- Hà đồ đúng 100 vòng tròn. Trong đó có 50 vòng tròn đen thuộc Âm, tương ứng với
50 người con trai theo Tổ mẫu Âu Cơ và 50 vòng tròn trắng thuộc Dương, tương ứng
với 50 người con theo Tổ phụ Lạc Long Quân.
@ Lạc thư thuộc Dương (cái có trước) với độ số Dương 25 so với độ số Âm là 20;
nhưng thể hiện lý tương khắc thuộc Âm. Hà đồ thuộc Âm (cái có sau) với độ số Âm
là 30 so với độ số Dương là 25. Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm là nguyên
lý bản căn của lý học Đông phương; tương ứng với 50 người con theo Mẹ (Âm) lên
núi (Dương). Và 50 người con theo Cha (Dương) xuống biển (Âm).
@ Âm thuộc hình thể nên những người con theo Mẹ lên lãnh đạo đất nước Văn Lang.
@ Trong truyền thuyết “Con Rồng, cháu Tiên” thì
* Rồng là biểu tượng của sức mạnh vũ trụ.
* Tiên là biểu tượng của sự thông thái, sáng suốt thuộc về tri thức của con người.
* Sự kết hợp Rồng Tiên là hình ảnh biểu tượng của sự kết hợp giữa tri thức con
người và sức mạnh vũ trụ; bắt nguồn từ sự nhận thức của con người với sự vận động
của vũ trụ, mà tiền đề căn bản của nó là thuyết Âm Dương Ngũ hành và Lạc thư Hà
đồ.
Sở dĩ 100 trứng không nở ra 50 con trai (Dương) và 50 con gái (Âm), vì Lạc thư
Hà đồ thuộc giá trị tinh thần nên được hình tượng bằng con trai (Dương). Con số
15 bộ hành chính của nước Văn Lang, chính là tổng độ số của ma phương Lạc thư
khi cộng ngang, dọc, chéo. Đây là sự vận dụng những qui luật vũ trụ trong việc
điều hành đất nước. Trong Lạc thư Hà đồ đã bao gồm lý của Âm Dương Ngũ hành như
đã trình bày ở trên. Xin xem hình sau đây:Độ số Lạc thư = 45Tổng độ số của Lạc thư và Hà đồ đúng bằng 100Biểu tượng Lạc ThưBiểu tượng Hà đồTổng số vòng tròn trong Lạc thư và Hà đồ bằng 100Trong đó:50 vòng tròn đen (Âm) và 50 vòng tròn trắng (Dương)@ Phả hệ của vua Hùng còn liên hệ với chu kỳ các sao Thiên cực
Bắc được trình bày như sau:
Theo các nhà thiên văn hiện đại thì các chòm sao Thiên cực Bắc thay đổi với chu
kỳ 26000 năm. Trong đó:
* Khoảng hơn 7000 năm Tr.CN là sao “t”, thuộc chòm sao Vũ Tiên.
* Gần 3000 năm Tr.CN là sao “a”, thuộc chòm sao Thiên Long
* Hiện tại là sao “a”, thuộc chòm sao Tiểu Hùng Tinh.
(Theo sách Vũ trụ quanh em, tập I – Nxb Giáo Dục – 1998, trang 23)
So sánh với phả hệ của vua Hùng , chúng ta lại thấy một sự trùng khớp sau đây:
Thế hệ thứ nhất:
– Hoàng hậu Vụ Tiên và chòm sao Vũ Tiên
Thế hệ thứ hai:
– Tổ phụ Lạc Long Quân và chòm sao Thiên Long.
Thế hệ thứ ba:
– Quốc tổ Hùng Vương và chòm sao Tiểu Hùng Tinh.
Như vậy, qua phần chứng minh trên, bạn đọc cũng nhận thấy sự trùng khớp hoàn
toàn của truyền thuyết “Con Rồng, cháu Tiên” trong sự lý giải những
nguyên lý khởi nguyên của vũ trụ theo thuyết Âm Dương Ngũ hành và những sự vận
động của các chòm sao trong vũ trụ gần gũi với Địa cầu. Bạn đọc cũng lưu ý rằng
việc phát hiện ra các chòm sao thiên cực Bắc của khoa học hiện đại chỉ khoảng một
hoặc hai thế kỷ gần đây. Giả thuyết về Lạc thư - Hà đồ phát hiện ngay từ thời đầu lập quốc được bổ trợ bằng
một di vật khảo cổ là một chiếc rìu đá tìm thấy ở Bắc Sơn, trên đó khắc chòm
sao Vũ Tiên (Hercules), có niên đại từ 5000 năm tr.CN, được minh họa ở bên.
(theo Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Gs. Trần Ngọc Thêm - Nxb T/p Hồ Chí
Minh, In lần thứ 2,1997). Khoa thiên văn học hiện đại đã xác nhận: Chòm sao Vũ
Tiên cách đây 7000 năm chính là chòm sao Thiên cực Bắc trên bầu trời nhìn từ
trái Đất. Điều này chứng tỏ rằng: từ thời tối cổ, những con người đầu tiên ở vùng
đất này đã quan sát thiên văn, để hơn 2000 năm sau đến khoảng đầu thiên niên kỷ
thứ 3 tr.CN đã tạo dựng nên một nền văn minh kỳ vĩ với bề dày tính bằng thiên
niên kỷ còn truyền lại đến tận bây giờ.
Sự vận động của vũ trụ (cái có trước - Dương - Rồng) kết hợp với tri thức của
con người (cái có sau - Âm - Tiên) đã mở đầu cho nền văn minh Văn Lang kỳ vĩ.
Thuyết Âm Dương Ngũ hành và những tri kiến qua việc tìm hiểu thiên văn với những
hiệu ứng vũ trụ tác động lên thiên nhiên, cuộc sống và con người chính là nền tảng
căn bản của nền văn hiến Văn Lang. Sự kết hợp của Rồng Tiên chính là niềm tự
hào của người dân Lạc Việt. Dân tộc Việt Nam hoàn toàn xứng đáng với niềm tự
hào đó. Theo sự lý giải trên thì thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết nhất
quán và hoàn chỉnh, Lạc thư - Hà đồ phải xuất hiện đồng thời và là giá trị của
nền văn minh Văn Lang đã có ngay từ buổi đầu lập quốc. Nền văn minh ấy bao trùm
trên một vùng rộng lớn: Bắc giáp Động Đình hồ; Tây giáp Ba Thục; Nam giáp Hồ
Tôn; Đông giáp Đông Hải. Đất nước ấy dưới quyền cai trị của các thời vua Hùng nối
tiếp nhau trị vì, bắt đầu từ thời Hùng Vương thứ I (giả thuyết trên sẽ xin được
tiếp tục bổ sung qua những phần được trình bày ở những chương sau).
Lịch pháp và khoa Thiên văn cổ Văn Lang
Qua nội dung của Lạc thư - Hà đồ, một vấn đề chứng tỏ tiếp
theo là: người Lạc Việt đã phát minh ra lịch, cụ thể là Âm Dương lịch sớm nhất
thế giới. Bởi vì phải có sự phát minh ra lịch thì mới có căn cứ để xác định độ
số của Hà đồ. Điều này đã chứng tỏ qua sách Thông Chí của Trịnh Tiều, theo đó
thì:
Đời Đào Đường (vua Nghiêu - năm 2253 tr.CN) phương Nam có bộ
Việt Thường cử sứ bộ qua hai lần phiên dịch sang chầu, dâng con rùa thần có lẽ
đã sống trên 1000 năm, mình dài hơn 3 thước, trên lưng có khắc văn khoa đẩu ghi
việc trời đất mở mang. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Qui Lịch. (Bàn về Vạn
niên lịch, tác giả Tân Việt Thiều Phong, Nxb Văn hóa Dân tộc 1995).
Thời vua Nghiêu được ước tính có niên đại 2253 tr.CN; tức là
sau thời Hùng Vương lập quốc 600 năm. Điều hiển nhiên là không phải đến lúc tặng
lịch người Việt mới biết làm lịch mà phải làm ra từ trước đó. Căn cứ vào nội
dung của Hà đồ và việc tặng lịch của người Việt Thường cho vua Nghiêu; cùng với
việc phát hiện ra chòm sao Vũ Tiên đã chứng tỏ: Người Việt đã phát minh ra Âm Dương
lịch sớm nhất thế giới, tức là trước thời điểm phát minh ra Lạc thư – Hà đồ. Vì
nội dung của Âm Dương lịch không phải chỉ căn cứ đơn thuần vào sự vận động của
mặt Trời và mặt Trăng mà còn có sự tương ứng với vị trí của những chòm sao trên
Thiên hà gần Thái Dương Hệ.
Các truyền thuyết từ cổ thư Trung Hoa lưu truyền từ đời Hán về sau cho rằng: lịch
pháp cổ Trung Hoa do vua Nghiêu sai hai đại thần của mình là họ Hy và họ Hòa
làm ra. Nhưng điều này đã bị các học giả Văn Lang phản bác. Trong dân gian Việt
Nam còn truyền tụng một câu ca dao độc đáo:
Ai về nhắn họ Hy Hòa
Nhuận năm sao chẳng nhuận và trống canh?
Hai câu ca dao này không thể xuất hiện từ thời Việt Nam hưng
quốc trở về sau. Bởi vì nếu xuất hiện vào khoảng thời gian này thì đã không có
việc sử dụng lịch của các vương triều Trung Hoa; càng không thể xuất hiện vào
thời Bắc thuộc từ sau Công nguyên. Hai câu ca dao này chỉ có khả năng xuất hiện
trong giai đoạn đầu của thời Bắc thuộc dưới triều Hán; đó là lúc Nho giáo được
độc tôn và những kinh điển của Nho giáo coi lịch pháp là phát minh của triều đại
vua Nghiêu. Đây cũng là lúc chế độ Lạc hầu, Lạc tướng vẫn còn được duy trì ở những
vùng còn lại của Văn Lang; hay nói một cách khác là những cơ sở hạ tầng của xã
hội Văn Lang ở một mức độ nào đó vẫn tồn tại (*)
Chú thích: (*) Từ những ý tưởng trong phần này, người viết đã
tiếp tục trình bày rõ hơn trong sách “Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục thập hoa
giáp”. Nxb VHTT 2002.Tái bản lần thứ 1, có sửa chữa và bổ sung.
Chính sự dùng lối thắt nút
Sự ứng dụng qui luật vũ trụ trong việc điều hành đất nước dưới thời Hùng Vương
Các thời vua Hùng nối tiếp nhau trị vì Văn Lang đã coi Âm
Dương Ngũ hành và những tri thức về thiên văn được phát hiện từ căn bản của Lạc
thư - Hà đồ như là một hệ tư tưởng chính thống, làm chủ đạo cho việc điều hành ổn
định và phát triển xã hội. Và đó là nguyên nhân của vấn đề được nói tới trong cổ
sử Việt Nam “Chính sự dùng lối thắt nút”. Đây là một trong những vấn
đề được nhiều người quan tâm khi tìm hiểu về thực trạng xã hội Văn Lang, nhưng
chưa có sự lý giải thỏa đáng. Với quan niệm cho rằng thuyết Âm Dương Ngũ hành
và Lạc thư Hà đồ thuộc về nền văn minh Văn Lang và là hệ tư tưởng chính thống,
làm chủ đạo cho việc điều hành xã hội thì “Chính sự dùng lối thắt nút” có
thể giải thích như sau:
Trong các sách sử khi nói tới sự lạc hậu của thời đầu lập quốc, thường thí dụ
qua một câu trong truyền thuyết “Con Rồng, cháu Tiên” là “Chính
sự dùng lối thắt nút”.
Phải chăng vào buổi đầu lập quốc cách đây gần 5000 năm, khi việc sử dụng chữ viết
chưa phải là một hiện tượng phổ biến trong sinh hoạt xã hội; “Chính sự
dùng lối thắt nút” mà cổ sử nhắc tới, tức là sự thể hiện quan điểm vũ trụ
quan qua lối thắt nút để chứng minh cho việc điều hành xã hội thuận theo qui luật
tự nhiên, chứ không phải là văn tự thể hiện bằng thắt nút. Qua những chấm đen,
trắng được nối nhau của Lạc thư Hà đồ - là những tiền đề khởi nguyên cho khoa
thiên văn của nền văn minh Văn Lang - mà những phát hiện của nó đã góp phần quyết
định cho chính sự Văn Lang (thể hiện ở sự phận định địa lý hành chính: chia nước
thành 15 bộ); phải chăng tổ tiên ta đã dùng nút dây để biểu tượng cho độ số của
Âm Dương Ngũ hành và khoa thiên văn của nền văn minh Văn Lang, để truyền đạt những
tri thức căn bản của hệ tư tưởng chính thống thuộc nền văn minh này.Biểu tượng Lạc thư thể hiện bằng nút thắtHình dưới đây minh họa cho giả thuyết nêu trên, thể hiện những
nút thắt tương ứng với Lạc thư (một gút là Dương, hai gút là Âm).
Như vậy, qua vấn đề “Chính sự dùng lối thắt nút” trình bày ở trên, chứng
tỏ là các vua Hùng đã thuận theo quy luật vận động của vũ trụ để ứng dụng vào
việc điều hành đất nước. Căn cứ trên cơ sở này lý giải việc các vua Hùng chia
nước làm 15 bộ như sau:
Như phần trên đã trình bày, tổng độ số của Lạc thư cửu cung ngang, dọc, chéo là
15. Do đó việc chia nước làm 15 bộ là một việc thuận theo tự nhiên được ghi nhận
ở Lạc thư cửu cung; khác hẳn với ý nghĩa: tập hợp 15 bộ lạc để trở thành liên
minh bộ lạc gọi là Văn Lang, như một số nhà nghiên cứu hiện đại đã quan niệm để
minh chứng cho sự lạc hậu của thời Hùng Vương.
Từ đó suy ra những vấn đề chính sự mà cổ sử Trung Hoa nhắc tới liên quan đến Lạc
thư - Hà đồ, thí dụ như: “Vua Vũ định ra phép cống chín châu...”. Hoàn
toàn có cơ sở để cho rằng: đó là việc làm các vua Hùng, vì nó liên quan đến Lạc
thư cửu cung.
Tử vi đẩu số - Một ví dụ khẳng định tính nhất quán và hoàn chỉnh
của thuyết Âm Dương ngũ hành với những vấn đề liên quan
Người ta không thể tìm thấy sự liên quan đến nhau giữa thuyết
Âm Dương và thuyết Ngũ hành trong cổ thư chữ Hán trước thời Tần. Nhưng những
phương pháp ứng dụng của học thuyết này lại phổ biến trong mọi lĩnh vực học thuật
cổ Đông phương như: Y lý, lịch số, dự đoán học... và đặc biệt trong Tử vi. Điều
này đã chứng tỏ tính nhất quán của thuyết Âm Dương Ngũ hành trên thực tế.
Tử vi đẩu số là một cuốn sách có tham vọng dự đoán tương lai cho số phận con
người. Số Tử vi dựa trên sự phân bố của hơn 100 vì sao trên 12 cung Tử vi, sự dự
đoán của nó trên cơ sở sinh khắc của Âm Dương Ngũ hành được thể hiện trong tính
chất của các cung và các vì sao tương quan đến nhau. Người công bố cuốn sách
này theo truyền thuyết Trung Hoa là Trần Đoàn lão tổ vào đầu thời Tống. Nhưng chính
sự liên quan và khoảng trống trong việc ứng dụng phương pháp luận thuyết Âm
Dương Ngũ hành trong Tử vi đã chứng tỏ những vấn đề sẽ được trình bày sau đây.
Ý nghĩa sự liên quan và khoảng trống giữa những ý niệm bản
căn của thuyết Âm Dương Ngũ hành với những vấn đề thuộc phạm trù của nó trong sự
ứng dụng qua Tử vi đẩu số
Môn Tử vi đẩu số được công bố vào đầu đời Tống, sau khi Văn
Lang và sự tiếp nối của nó là Âu Lạc bị tiêu diệt hơn 1000 năm. Nhưng giữa môn
Tử vi đẩu số cũng như hầu hết các môn ứng dụng thuyết Âm Dương Ngũ hành của văn
minh Đông Phương cổ như: thiên văn, địa lý (phong thủy), y lý, lịch số ... và Lạc
thư – Hà đồ có sự liên quan và khoảng trống xin được trình bày qua môn Tử vi đẩu
số như sau:
Sự liên quan
Sự liên quan dễ nhận thấy là thuyết Âm Dương Ngũ hành là phương pháp luận duy
nhất lý giải, luận đoán lá số Tử vi. Những sự liên quan khác trong tính đặc thù
của lá số Tử vi xin được dẫn chứng như sau:
@ So sánh đồ hình Hà đồ cửu cung với đồ hình Tử vi bạn đọc sẽ nhận thấy mỗi
hành gồm hai cung Âm và Dương. Sự vận động của Ngũ hành trong Hà đồ cửu cung
theo chiều thuận kim đồng hồ thể hiện sự tương sinh của Ngũ hành: Kim sinh Thủy;
Thủy sinh Mộc; Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh Thổ (Trung cung). So sánh đồ hình Tử vi đẩu
số thì: mỗi hành cũng gồm hai cung Âm và Dương. vận động theo chiều kim đồng hồ
thể hiện Ngũ hành tương sinh.
@ Đồ hình Hà đồ có nội dung thể hiện sự vận động, tương tác của Ngũ hành trong
vũ trụ qua các sao gần gũi với trái đất trong Thái Dương hệ. Đồ hình Tử vi đẩu
số là sự phát triển của Hà đồ cửu cung (có nội dung thể hiện sự tác động do ảnh
hưởng của Ngũ hành qua các sao trên), bỏ trung cung thuộc Thổ, thêm 4 cung Thổ
là Thìn, Tuất, Sửu, Mùi sau mỗi Hành, thành 12 cung để cân bằng Âm Dương và thể
hiện qui luật sinh, vượng, mộ trong sự vận động của Ngũ hành. Xin xem hình vẽ
dưới đây:@ 12 cung của Tử vi được sắp theo thứ tự của 12 con giáp bắt
đầu từ Tý khởi từ cung thứ hai hàng dưới từ bên phải sang, kết thúc là Hợi theo
chiều kim đồng hồ. Tên của các cung trong Tử vi là tên gọi của các năm Âm lịch,
mà tính chất của nó chính là chu kỳ tương ứng 12 năm Địa cầu quay quanh mặt Trời
với năm của sao Mộc (tức sao Thái tuế, là một trong những hành tinh lớn trong
hệ mặt Trời gần trái Đất nhất). Đồng thời đây cũng chính là chu kỳ thời gian
thu nhỏ, đồng dạng theo chu kỳ thời gian vận động vũ trụ trong Thái Ất và Kỳ
Môn (Trong Thái Ất: Một nguyên = 180 năm, chia làm thượng, trung, hạ; 6 Nguyên
là một vận = 1080 năm; 12 Vận là một Hội = 12.960 năm; 12 Hội là một Đại
Nguyên, được đặt tên theo 12 con giáp. Chu kỳ của một Đại Nguyên bắt đầu từ Hội
Tý, kết thúc ở Hội Hợi. Theo Thái Ất thì hiện nay đang ở trong Hội Ngọ thuộc Hỏa
- sắc hồng của thịt heo trong bánh chưng, bánh dầy, phải chăng thể hiện điểm xuất
phát và sự chi phối của hành Hỏa trong hội này).
@ Hầu hết các vì sao được phân bố trên 12 cung Tử vi dựa trên dữ kiện là ngày,
giờ, tháng, năm sinh của người lập lá số đều có trong Thái Ất và Độn Giáp. Thí
dụ: sao Tử vi chính là Ngũ Đế Tọa, hoặc sao Phá Quân (Bộ Sát, Phá, Liêm, Tham)
chính là vị sao đầu tiên thuộc chòm sao Đại Hùng hay Hoa Cái, Thiên Trù (trong
Lạc thư cửu tinh đồ) đã dẫn trong sách này v.v...
Khoảng trống
Trong Tử vi chỉ có phương pháp ứng dụng mà không có lý giải, thí dụ như:
@ Quy luật phân bố các sao dựa trên ngày, giờ, tháng, năm sinh của lá số.
@ Ngũ hành trong Tử vi đẩu số đã được phát triển chi tiết hơn gồm 6 tính chất
cho mỗi hành. Thí dụ như hành Hỏa thì gồm: Tích Lịch Hỏa (lửa sấm sét); Sơn Đầu
Hỏa (lửa trên núi - nham thạch); Thiên Thượng Hỏa (lửa trên trời); Phúc Đăng Hỏa
(lửa trong đèn); Lư Trung Hỏa (lửa trong lò). Sự phân chia mỗi hành thành 6
tính chất lại liên quan đến việc ứng dụng thuyết Âm Dương Ngũ hành trong Âm lịch;
tức là liên quan đến việc nạp âm Ngũ hành trong Lục thập hoa giáp. Nhưng hiện
tượng nạp âm Ngũ hành trong Âm lịch, cho đến bây giờ vẫn còn là một vấn đề bí ẩn
của văn minh Đông phương (vấn đề này, người viết đã hân hạnh trình bày với bạn
đọc trong sách “Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục thập hoa giáp”).
@ Tính chất và sự tương tác của các sao để tạo nên hiệu quả dự đoán của lá số.
Tham vọng dự đoán rất chi tiết: Đến từng ngày của lá số.
Tính nhất quán và hoàn chỉnh của thuyết Âm Dương Ngũ hành và
vấn đề tác giả Tử vi đẩu số
Thuyết Âm Dương Ngũ hành đã chứng tỏ sự ứng dụng của nó rộng
khắp trong nhiều lĩnh vực: y học, thiên văn, lịch số... Thậm chí trong cả những
lĩnh vực thuộc sự vận động của xã hội và con người, như đã trình bày ở trên.
Tuy nhiên, những tài liệu liên quan đến những lĩnh vực này, chỉ nói đến phương
pháp thực hiện và thiếu phần lý giải liên hệ. Không riêng gì môn Tử vi, mà có
thể khẳng định rằng: Tất cả các môn cổ học Đông phương ứng dụng phương pháp luận
của thuyết Âm Dương Ngũ hành đều ở trong một tình trạng thiếu hẳn một hệ luận
liên hệ với một hệ thống lý luận căn bản (vốn rất mơ hồ). Những khoảng trống
này, không phải vì không có sự liên quan trong quá trình phát triển lý thuyết
và sự quan sát thực tế để ứng dụng, nằm trong phạm trù của thuyết Âm Dương Ngũ
hành với những phương pháp thực hiện. Chính những khoảng trống lý thuyết liên hệ
và sự huyễn ảo của hệ thống lý luận căn bản đã chứng tỏ một cách sâu sắc rằng:
Thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết nhất quán và hoàn chỉnh, khi phương
pháp luận của học thuyết này phổ biến rộng khắp trên hầu hết mọi lĩnh vực liên
quan đến con người. Nhưng hệ thống lý luận căn bản của học thuyết này đã bị thất
truyền và cội nguồn của nó không thể thuộc về văn minh Hoa Hạ. Bởi vì, nếu nó
thuộc về văn minh Hoa Hạ, thì không thể có khoảng trống trong quá trình phát
triển lý thuyết và sự ứng dụng của học thuyết này (mức độ tàn phá của lịch sử đối
với nền văn minh Trung Hoa và văn minh Văn Lang hoàn toàn khác nhau).
Vì vậy, mặc dù cho đến tận ngày hôm nay - khi bạn đọc đang coi cuốn sách này -
các nhà Lý học Trung Hoa nói riêng và cả những nhà nghiên cứu trên thế giới, vẫn
còn chưa tìm được bản chất sự liên hệ giữa thuyết Âm Dương và Ngũ hành - thì thật
là vô lý, lại có một bộ môn ứng dụng học thuyết này trong việc dự đoán tương
lai, được tính đến đơn vị thời gian nhỏ nhất là giờ, như Tử vi đẩu số.
Cho dù xuất phát từ những cái nhìn khác nhau, hoặc về tính khoa học (trên cơ sở
hiệu quả dự đoán tồn tại hàng ngàn năm nay), hay phi khoa học (trên cơ sở khoa
Tử vi thiếu hẳn một hệ thống lý luận căn bản, mà chỉ có phương pháp ứng dụng)
thì thực tế vẫn là: những phương pháp ứng dụng trong Tử vi đẩu số có những qui
tắc hẳn hoi và rất phức tạp (cho dù một số quy tắc vẫn gây sự bàn cãi). Hoàn
toàn không thể cho rằng: Đó chỉ là một phương pháp thống kê, một hệ quả của
kinh nghiệm, một trò chơi toán học … Bởi vì, không một phương pháp thống kê
nào, hoặc sự tổng hợp những kinh nghiệm, hay một lý thuyết toán học nào được thực
hiện ngay trong xã hội loài người hiện đại với tất cả phương tiện tốt nhất có
thể có, để tạo ra những phương pháp thực hiện một lá số với tham vọng dự đoán
tương lai cho một con người đến đơn vị thời gian nhỏ nhất là giờ như Tử vi đẩu
số. Sự tồn tại và lưu truyền hàng ngàn năm (ít nhất từ đời Tống, kể từ khi Trần
Đoàn lão tổ công bố môn này) với dấu ấn của một học thuyết vũ trụ quan cổ là
thuyết Âm Dương Ngũ hành đã chứng tỏ rằng: Tử vi đẩu số đương nhiên phải là hệ
luận và là sự phát triển của học thuyết này. Vì vậy, chính sự tồn tại của Tử vi
đẩu số đã chứng tỏ tính thống nhất và hoàn chỉnh của thuyết Âm Dương Ngũ hành
và khả năng phát triển lý thuyết của nó. Nếu quan niệm cho rằng: “Thuyết Âm
Dương Ngũ hành chỉ là một học thuyết vũ trụ quan thô sơ, sự phát triển của học
thuyết này (nếu có) chỉ là hiện tượng duy lý với sự chặt chẽ có tính hình thức”,
thì người ta cũng không thể phát triển được hệ quả của một học thuyết từ một sự
mơ hồ của nó như môn Tử vi đẩu số mà hiệu quả của nó đã chứng tỏ và được lưu
truyền hàng ngàn năm nay.
Vì vậy, trên thực tế cho đến ngày hôm nay, khi thuyết Âm Dương Ngũ hành vẫn còn
chứa đầy sự huyễn ảo, thì mặc dù trong Tử vi đầu số có những yếu tố chưa nói đến
ở những sách Lý học liên quan đến Âm Dương Ngũ hành được phát hiện trước đó;
nhưng hoàn toàn có cơ sở để hoài nghi Trần Đoàn lão tổ không phải là tác giả của
Tử vi. Ông chỉ là người công bố sự phát hiện của mình đối với những giá trị của
nền văn minh Văn Lang vẫn còn tồn tại, lưu truyền trong dân gian. Ông ta không
thể phát triển tạo nên một hệ quả của một học thuyết trong Tử vi đẩu số, từ một
sự huyễn ảo của học thuyết này. (xin xem thêm phần “Một hệ thống chữ viết
chính thức của nền văn minh Văn Lang” ở phần sau). Để minh họa điều này
xin được trình bày một đoạn trích dẫn từ sách Địa lý toàn thư (tác giả
Lưu Bá Ôn, Nxb VHTT 1996, dịch giả Lê Khánh Trường, Lê Việt Anh):
Lưu Công học xong học thuật phong thủy năm 40 tuổi, dùng thuật
đó hành nghề 22 năm, được mọi người tôn kính, vì ông đem lại cho họ nhiều ích lợi.
Tất cả những việc này đều được ghi lại. Trước thư lập thuyết là đại sự của đời
ông, lẽ nào người đời bỏ quên?
Chúng ta hãy xem nguồn gốc của thuật phong thủy mà ông học được từ đâu?
Lưu Công học từ con gái của Ngô Cảnh Loan.
Ngô Cảnh Loan học được từ Hy Di Trần Đoàn.
Trần Đoàn học từ Tăng Văn Địch.
Tăng Văn Địch học từ Dương Quân Tùng.
Dương Quân Tùng và Tăng Cầu Kỷ vốn là chỗ thâm giao. Vào khoảng năm cuối đời
của Đường Hy Tông, loạn Hoàng Sào nổi lên, đánh tới kinh đô Trường An. Hai
người Dương, Tăng nhân lúc chiến tranh loạn lạc lên đánh cắp “Quốc Nội
Thiên Cơ thư” trong Quỳnh Lâm khố. Học xong mới biết cuốn sách này nguyên
là của Khâu Đình Hàn dâng cho triều đình.
Khâu Đình Hàn vốn là người huyện Vân Hỷ tỉnh Hà Đông từng được thần tiên truyền
cho kinh sách nên thông hiểu đạo lý Âm Dương
CHƯƠNG II - PHẦN 2
Từ đó, hoàn toàn có cơ sở để hoài nghi những vấn đề sai lệch có thể có trong Tử
vi đẩu số, liên quan đến dự đoán tương lai cho số phận của con người. Bạn đọc
có thể tham khảo thêm cuốn “Nguyên lý thời sinh học phương Đông” (GS. Lê
Văn Sửu - Nxb VHTT 1996). Trong cuốn sách này, giáo sư Lê Văn Sửu đã phát hiện
ra nhiều vấn đề bất hợp lý của khoa Tử vi đẩu số. Người viết chỉ xin được bổ
sung một vấn đề sau:
Theo sách “Nguyên lý thời sinh học phương Đông” (Sách
đã dẫn, trang 48) căn cứ theo Tử vi đẩu số phổ biến ở Việt Nam hiện nay, thì
tương quan Hành và độ số Cục theo bảng sau:Bảng lập cục của tử vi theo cổ thư chữ HánTư liệu của giáo sư Lê Văn Sửu trong sách Nguyên lý thời sinh
học phương ĐôngĐộ số và hành của Cục trong Tử vi đẩu số được trình bày ở bảng
trên đã được sử dụng qua nhiều thế kỷ còn được lưu truyền đến bây giờ, nhưng
không có sự lý giải. Từ quan điểm cho rằng: Lạc thư - Hà đồ là nguồn gốc của
khoa Thiên văn học thuộc nền văn minh Văn Lang bắt nguồn từ thuyết Âm Dương Ngũ
hành, thì tất yếu độ số hành của Cục phải có sự liên hệ với Lạc thư - Hà đồ. Để
bạn đọc tiện việc theo dõi, người viết xin được trình bày tóm lược độ số của cục
theo Tử vi đẩu số ở bảng trên và so sánh với độ số Ngũ hành theo Hà đồ như sau:Đồ hình Hà đồ so sánh với độ số cục của tử viKim - Tứ cục
Mộc - Tam cục
Thủy - Nhị cục (Hà đồ - 6)
Hỏa - Lục cục (Hà đồ - 2)
Thổ - Ngũ cụcBảng lập cục của tử vi theo số Hà đồChiều Ngũ hành tương khắc khi đổi lại hành theo Lạc thư Hoa giápNhư vậy số Cục của hành trong Tử vi đẩu số sai lệch với độ số
Ngũ hành trên Hà đồ ở hai hành là Thủy và Hỏa. Nếu hiệu chỉnh lại hành theo Cục
của bảng tra Ngũ hành đã dẫn theo độ số của Hà đồ; ta sẽ có một quy luật Ngũ
hành tương khắc từ phải sang trái theo hàng ngang của bảng, phù hợp với sự sắp
xếp tuổi theo Thiên can của bảng đã dẫn ở trên. Bảng sửa đổi dưới đây do người
viết hiệu chỉnh lại hành theo độ số của Hà đồ (chữ đậm). Tên hành cũ của Tử vi
đẩu số (chữ thường trong ngoặc kèm theo) để độc giả tiện theo dõi:
Như vậy, việc sửa lại hành cho phù hợp với độ số của Hà đồ
cũng hoàn toàn phù hợp với tiên đề của quy tắc lập cục là:
Theo thuận tự, thập Thiên Can có quy luật Ngũ hành tương sinh sắp xếp từ trái
sang phải như sau:
Nhưng khi lập cục, tuổi tính theo thập Thiên can lại sắp xếp theo quy tắc từng
cặp tương hợp theo chiều tương khắc từ phải sang trái - khi phân Thiên can Âm
và Dương (Tiên đề quy tắc lập cục) như sau:
Như vậy, việc sửa lại hành theo độ số Hà đồ (là nguyên lý căn bản của khoa
thiên văn cổ Văn Lang) cũng hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc xếp tuổi để lập cục
của Tử vi. Còn cách sắp xếp cục của Tử vi đẩu số hiện hành mà ngài Trần Đoàn
lão tổ công bố thì không theo quy tắc nào.
Qua sự sửa đổi dựa trên độ số của Hà đồ phù hợp với qui tắc sắp xếp theo chiều
tương khắc của thập Thiên can đã minh họa rõ nét những vấn đề sau đây:
Lạc thư - Hà đồ là tiền đề căn bản cho khoa thiên văn học cổ Văn Lang - xuất
phát từ thuyết Âm Dương Ngũ hành - chứng tỏ thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học
thuyết hoàn chỉnh nhất quán từ nguyên lý căn bản đến sự ứng dụng của nó (*). Điều
này chứng tỏ rằng: Trần Đoàn lão tổ không phải là người phát minh môn Tử vi này
mà chỉ công bố lại một cuốn sách đã lưu truyền hàng ngàn năm sau khi Văn Lang bị
tiêu diệt, nên đã bị tam sao thất bản dẫn đến sai lầm trên. Ông không thể có sự
phát minh ra một cái hợp lý bằng sự bắt đầu từ một cái sai lệch. Và đó cũng chỉ
là một thí dụ.
Chú thích: (*) Việc đổi hai hành Thủy và Hỏa của cục trong Tử
vi sẽ dẫn đến việc thay đổi hai hành Thủy và Hỏa tương ứng trong Lục thập Hoa
giáp (60 năm, kể từ Giáp Tí đến Quý Hợi). Vấn đề này đã được chứng minh trong
cuốn: “Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục thập Hoa giáp”, Nxb VHTT 2002.Tái bản lần
thứ 1, có sửa chữa và bổ sung
Qua phần trích dẫn và chứng minh ở trên thì bạn đọc cũng nhận
thấy rằng: trong khi cho đến tận bây giờ, các nhà Lý học vẫn chưa giải thích được
những nguyên lý và sự liên hệ của thuyết Âm Dương Ngũ hành (cho dù theo giả
thuyết của các nhà nghiên cứu hiện đại: Thuyết Âm Dương Ngũ hành từng bước hòa nhập vào thời Hán). Thật là sự vô lý khi những phát minh cho những phương pháp ứng
dụng của lý thuyết đó lại phổ biến rộng khắp mọi lĩnh vực. Sự vô lý tầm cỡ vĩ
mô này, chỉ có thể giải thích rằng: tất cả những phương pháp ứng dụng đang phổ
biến của học thuyết Âm Dương Ngũ hành đều đã được hình thành từ nền văn minh
Văn Lang. Khi nước Văn Lang bị tiêu diệt, những phương pháp ứng dụng này truyền
sang Trung Hoa và được các nhà Lý học Trung Hoa lý giải theo cách hiểu của họ
qua kinh nghiệm thực tế ứng dụng.
Cho đến tận cuối đời nhà Đường, đầu đời nhà Tống, những trước tác thuộc về nền
văn minh Văn Lang vẫn tiếp tục được phát hiện và truyền bá ở đời qua hình ảnh
thần tiên truyền cho kinh sách (điều đáng quan tâm là các sách do thần tiên
truyền lại đều có sự nhất trí cao ở việc sử dụng phương pháp luận của thuyết Âm
Dương Ngũ hành). Hiện tượng này sẽ minh chứng cho việc chữ Khoa Đẩu xuất hiện
trong truyện Thủy Hử được trích dẫn trong phần “Một hệ thống chữ
viết chính thức của nền văn minh Văn Lang” ở phần tiếp theo.
Phần trình bày ở trên chỉ là một thí dụ qua Tử vi, khoa dự đoán tương lai dựa
trên cơ sở thuyết Âm Dương Ngũ hành. Trên thực tế khoảng trống lý thuyết này là
vô cùng lớn. Có thể nói: hầu hết phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành
thể hiện trong phương pháp ứng dụng đều không có sự liên hệ xuất phát từ lý
thuyết căn bản (vốn đã rất mơ hồ) để chứng tỏ xuất xứ. Nếu cho rằng sự ứng dụng
vốn xuất phát từ kinh nghiệm của cuộc sống sau đó mới được giải thích bằng thuyết
Âm Dương Ngũ hành, như vậy thì học thuyết này sẽ không có cơ sở tồn tại trước một
sự ứng dụng rộng rãi nhiều mặt thuộc phạm trù của nó với một bề dày gần 5000
năm.
Về vấn đề này xin được lý giải rõ hơn và cụ thể như sau: Người ta có thể quan
sát thiên văn để xác định sự vận động của các vì sao đã được nền thiên văn cổ
Văn Lang nói tới. Nhưng những hiệu ứng vũ trụ tác động lên tự nhiên, cuộc sống
và con người trên trái đất thì vẫn không có sự lý giải, mặc dù vẫn có sự ứng dụng
trên thực tế. Bạn đọc có thể tham khảo một đoạn trong Thái Ất dị giản lục (sách
đã dẫn - tr.89) như sau:
Khi có sao Thái Bạch xuất hiện ở phía Tây thì nước phía Đông
bại hoại trước, nước phía Tây bại hoại sau; nếu sao chổi xuất hiện ở phía Đông
thì ngược lại và chủ cho sự binh đao, tật dịch, lưu vong.
Những nhận đoán dựa trên sự vận động của các vì sao được thí
dụ ở trên không phải do kinh nghiệm, khi đã có cả một quá trình nghiên cứu
thiên văn có hệ thống bắt đầu từ Lạc thư - Hà đồ và một học thuyết liên quan đến
nó. Nhưng rõ ràng không hề có sự lý giải minh chứng trên cơ sở của học thuyết
này. Đoạn trích dẫn trên không phải là một đoạn được chọn lựa để chứng minh một
cách chủ quan. Nếu bạn đọc có dịp được xem bất cứ một cuốn sách nào liên quan đến
thuyết Âm Dương - Ngũ hành thì đều có thể dễ dàng tìm thấy những khoảng trống
lý thuyết như trên.
Hơn 2000 năm đã trôi qua - kể từ thời Hán Vũ Đế tiêu diệt Nam Việt - mặc dù đã
có nhiều cố gắng, nhưng những nhà Lý học dưới các triều đại phong kiến Trung
Hoa vẫn không thể lấp được khoảng trống giữa các phương pháp ứng dụng thuộc phạm
trù của thuyết Âm Dương Ngũ hành với hệ thống lý thuyết của nó. Cũng như cho đến
tận bây giờ, họ vẫn chưa lý giải được sự vận động từ cội nguồn của học thuyết
này vì sự sai lệch ngay từ nguyên lý khởi nguyên của nó: tách Âm Dương ra khỏi
Ngũ hành. Âm Dương được gán vào Bát quái, còn Ngũ Hành thì chơi vơi. Nguyên
nhân của hiện tượng này tồn tại trên 2000 năm cho đến tận bây giờ, rất đơn giản:
Nền văn minh Hoa Hạ đã tiếp thu một cách rời rạc, không hoàn chỉnh những thư tịch
cổ còn sót lại của một nền văn minh đã mất; lại thêm sự hiệu chỉnh và cách hiểu
sai lệch, nên đã khiến cho một học thuyết vũ trụ quan cổ đại đi vào sự huyễn ảo,
huyền bí. Điều này đã chứng tỏ rằng: Cội nguồn của thuyết Âm Dương Ngũ hành
không thuộc về nền văn minh cổ Hoa Hạ mà thuộc về văn minh Văn Lang; nên chính
những con người tiếp nối nền văn hiến gần 5000 năm đó mới có câu trả lời ngay
trong cuộc sống của mình.
Cảm động thay! Những bà mẹ Việt Nam, qua bao thăng trầm của lịch sử, vẫn lặng lẽ
gói chiếc bánh chưng, bánh dầy từ đời này qua đời khác, và mỗi khi có một bà mẹ
nào vào thời kỳ sinh nở lại nhắc nhở bằng câu chúc lành cho nhau: “Mẹ tròn, con
vuông!” - nguyên lý của cả một hệ thống vũ trụ quan từ thời các vua Hùng.
Một hệ thống cữ viết chính thức của nền văn minh Văn Lang
Với kết luận về sự tồn tại một nền văn minh tư tưởng đạt đến
đỉnh cao của xã hội Văn Lang so với các xã hội cổ đại cùng thời trên thế giới,
như: Ai Cập, Babilon, Hy - La, Ấn Độ, Hoa Hạ… thì những vấn đề liên hệ cần thiết
phải có là: Một hệ thống chữ viết của thời đại Hùng Vương, là điều kiện tất yếu
để phát triển nền văn minh một cách có hệ thống với số lượng từ ngữ phong phú,
đủ khả năng diễn đạt những khái niệm trừu tượng của thuyết Âm Dương Ngũ hành và
những vấn đề của nó.
Cả một thời đại đã thuộc về huyền sử trong một thời gian tính bằng thiên niên kỷ,
thì việc chứng minh cho sự tồn tại của chữ viết của thời đại đó cực kỳ khó
khăn. Nhưng những tia sáng mỏng manh hắt lại qua màn thời gian có độ dày hơn
2000 năm, vẫn còn đủ để đặt vấn đề cho chữ viết của thời Hùng Vương với sự lý
giải hợp lý trong sự tương quan của nó. Đó là những hiện tượng sau:
1- Dấu ấn xưa nhất ghi nhận về chữ viết của người Lạc
Việt là sách Thông Chí của Trịnh Tiều (Trung Quốc) chép rằng:
“Đời Đào Đường (vua Nghiêu - năm 2253 tr.CN) phương Nam có bộ
Việt Thường cử sứ bộ qua hai lần phiên dịch sang chầu, dâng con rùa thần có lẽ
đã sống 1000 năm, mình dài hơn 3 thước, trên lưng có khắc văn Khoa Đẩu ghi việc
trời đất mở mang. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Qui Lịch (tức lịch rùa)”.
Khi viết lại đoạn này trong bài “Vài nét về văn hóa thời Hùng
Vương” của giáo sư Bùi Văn Nguyên đăng trong tạp chí Văn Học số ra tháng 9 -
tháng 10/1973, tác giả đã đặt vấn đề:
“Ở đây chưa rõ văn Khoa Đẩu (chữ hình con nòng nọc) trên lưng
con rùa là văn sẵn trên mai nó mà các nhà làm lịch nước Việt Thường nghiên cứu
theo sự tiến triển của nó hàng ngàn năm để rút ra quy luật về sự tuần hoàn của
thời tiết, hay đó là một thứ ký hiệu ta gọi là chữ Khoa Đẩu mà các nhà làm lịch
nước ta vạch lên mai rùa”. (Sách Bàn về vạn niên lịch. Tác giả Tân Việt, Thiều
Phong. Nxb Văn Hóa Dân Tộc 1995).
Chữ khoa đẩu trên bãi đá cổ Sapa
Bản dập của Viện bảo tàng Lào Cai
Như vậy, đây là tư liệu cổ nhất nói về văn Khoa Đẩu mà niên đại
xuất hiện của loại văn này được ghi nhận từ năm 2253 tr.CN. Mặc dù tư liệu này
chưa chắc chắn văn Khoa Đẩu tức là chữ Khoa Đẩu hay là vết tự nhiên trên mai
rùa. Tuy nhiên có thể khẳng định rằng: văn Khoa Đẩu được nói đến trong sách
Thông Chí là chữ Khoa Đẩu. Bởi vì, nếu là vết tự nhiên trên mai rùa thì nó
không phải là tín hiệu quy ước, để có cấu trúc hoàn chỉnh trùng khớp với tín hiệu
ngôn ngữ của người Việt Thường, nhằm diễn tả một cách có hệ thống quan niệm vũ
trụ quan (việc trời đất mở mang) và phương pháp làm lịch được.
2- Gần đây các nhà khảo cổ Việt Nam đã đề nghị cơ quan văn hóa Liên Hợp Quốc
ghi nhận di tích văn hóa ở Sapa - Lào Cai (“bãi đá cổ Sapa”, trong đó có nhiều
tảng đá ghi chữ Khoa Đẩu) là di sản văn hóa thế giới.
3- Trong tác phẩm văn học nổi tiếng Thủy Hử của tác giả Thi Nại Am viết
vào cuối đời Nguyên đầu đời Minh (Trung Quốc) ở hồi cuối có đoạn xin được tóm tắt
và ghi lại như sau:
Khi các vị anh hùng Lương Sơn Bạc phân ngôi thứ xong có khối
lửa lớn lặn xuống dưới đất phía chính Nam, bèn đào lên để tìm.
“Khi đào tới ba thước đất, chợt thấy một miếng bia đá chạm Thiên Thư ở
mặt giữa và cả hai bên. Tống Giang sai đem về làm lễ tạ đàn, rồi sáng hôm sau
đưa tiền công quả để tặng cho các đạo tràng và đem bia đá ra xem.
Khi nom đến bia đá thấy chữ ngoằn ngoèo khác hẳn lối thường không còn ai biết
nghĩa lý ra sao cả. Sau đó một người đạo tràng họ Hà tên Diệu Thông nói với Tống
Giang rằng:
- Tổ phụ nhà tôi khi xưa có một bộ sách chuyên để cắt nghĩa các lối chữ
Thiên Thư, vậy lối chữ đây là lối chữ Khoa Đẩu, tôi có thể hiểu được, xin ngài
để tôi dịch giúp”.
Thủy Hử là một tác phẩm văn học, do đó việc tảng đá xuất hiện
như một cảm ứng của trời đất có thể là sự hư cấu của tác giả; nhưng chất liệu
hiện thực trong việc sử dụng chữ Khoa Đẩu là một loại chữ trên thực tế đã tồn tại
(chứng tỏ qua di vật Sapa - Lào Cai) đã cho thấy: gần nhất là thời đại của Thi
Nại Am (thời đại của tác giả cuối đời Nguyên) xa hơn là cuối thời Bắc Tống (thời
của các vị anh hùng Thủy Hử), chữ Khoa Đẩu vẫn còn tồn tại tính từ khi Âu Lạc bị
Nam Việt Triệu Đà tiêu diệt hoặc khi Nam Việt bị Hán Vũ Đế thôn tính đã hơn
1000 năm. Điều này chứng tỏ: cho đến cuối đời Bắc Tống không phải tất cả những
giá trị của nền văn minh Văn Lang đã được phát hiện - đó là cơ sở để cho rằng Tử
vi tuy xuất hiện đầu đời Tống, nhưng chỉ là sự phát hiện tiếp tục về một nền
văn minh đã mất (điều này đã được minh họa trong phần trích dẫn trong Địa
lý toàn thư ở trên).
Tại sao chữ Khoa Đẩu vốn đã không được sử dụng mà lại lưu truyền với một thời
gian tính bằng thiên niên kỷ với những nhà nghiên cứu? Sẽ khó có câu trả lời hợp
lý hơn nếu như loại văn tự Khoa Đẩu đó không ghi lại những giá trị văn hóa lớn,
thỏa mãn nhu cầu tri thức của con người mà đời sau phải ngỡ ngàng coi như sách
của trời (Thiên Thư).
Vậy chữ Khoa Đẩu được nhắc tới trong Thủy Hử, ngoài sự minh
chứng cho hệ thống chữ viết chính thức dưới thời Hùng Vương, còn minh chứng cho
một nền văn minh bị hủy hoại, chỉ còn sót lại dưới dạng những cuốn sách cổ lưu
truyền trong dân gian. Sự phát hiện từng mảng của nền văn minh đó, qua những cuốn
sách còn lưu truyền, đã tạo nên những khoảng trống của một hệ thống vũ trụ quan
hoàn chỉnh và phạm vi ứng dụng rộng rãi của nó, như đã trình bày ở trên. Để
minh họa cho giả thuyết này, xin bạn đọc so sánh những hình vẽ dưới đây trên trống
đồng, phải chăng là những hình ảnh thể hiện sự tồn tại của văn tự thời Hùng
Vương?
So sánh với hình tư liệu dưới đây trích lại từ trong cuốn Tìm
về bản sắc văn hóa Việt Nam (sách đã dẫn) được chú giải: “Người cầm rìu xéo
đang múa”. Chúng ta cũng nhận thấy hình này mới thực sự là những hình thể hiện
người chiến binh thời Hùng Vương. Còn hình trong Việt sử giai thoại thật
khó lý giải với một hình chữ nhật đã cách điệu cầm ở tay trái người này là một
thứ võ khí, hoặc là hình ảnh của một vũ công. Phải chăng đây là hình ảnh của một
người đọc văn bản? (điều này sẽ được minh chứng rõ hơn ở phần “Y phục thời
Hùng Vương")
Hình Cóc trên Trống đồng và Thạp đồng
Ngoài những vấn đề đã trình bày ở trên, xin được minh họa rõ
hơn về việc chữ Khoa Đẩu được sử dụng dưới thời Hùng Vương qua hình tượng và ca
dao dân gian Việt Nam hiện còn lưu truyền, đó là:
Trên những chiếc trống đồng thời Hùng Vương mà ngày nay đã tìm được, có nhiều
hình tượng đúc nổi trên trống đồng.
Qua hình minh chứng ở trên, bạn đọc cũng nhận thấy rằng: Một trong những hình
tượng đó là con cóc. Điều này có liên quan gì đến câu ca dao:
Con Cóc là cậu ông Trời
Ai mà đánh Cóc thì Trời đánh cho.
Một câu ca dao đầy bí ẩn tương tự như câu tục ngữ (mà lúc đầu
là thành ngữ) “Mẹ tròn, con vuông”.
Câu ca dao trên, có người giải thích rằng: bởi vì con Cóc ăn sâu bọ phá hoại
mùa màng, nên ông cha ta đặt ra câu ca dao đó là muốn nhắc nhở phải bảo vệ cóc.
Hoặc cũng có thể giải thích khác là: nhân truyện cổ tích “Cóc kiện Trời”. Cóc
thắng kiện, Trời nể, phải gọi bằng Cậu. Nhưng câu ca dao này không phải là sự kết
thúc cho một truyện cổ tích, do nội dung của nó không ăn nhập gì với câu chuyện.
Mà chính câu chuyện cổ tích là phương tiện chuyển tải hai câu ca dao này. Bởi
vì, nếu đứng một mình, câu ca dao này sẽ tối nghĩa và khó hiểu. Với kết cấu của
nội dung câu chuyện thì chưa lý giải được tại sao ông Trời lại gọi Cóc bằng Cậu?
Tại sao không phải là bác, là bọ, là chú? Và chỉ cần là con hoặc cháu ông trời
cũng đủ đáng sợ rồi, tại sao phải là Cậu? Phải chăng vì đại từ Cậu khẳng định
rõ nét Cóc thuộc về bên ngoại thuộc Âm, tức là hình tượng của một giá trị tinh
thần nào đó, mà phần bên nội (ông Trời) thuộc Dương (thuộc về giá trị tinh thần).
Đến đây có hai khả năng lý giải cho vấn đề này:
1) Cóc là linh vật (Âm) có giá trị tín ngưỡng (Dương).
2) Con Cóc mà con của nó là con nòng nọc (Khoa Đẩu), hình tượng của loại
văn tự chính thống của người Việt, là một loại chữ viết để diễn tả những giá trị
tinh thần: Sự hình thành vũ trụ (trời đất mở mang. “Thông Chí”, sách đã dẫn),
sự vận động của tự nhiên, xã hội và con người... nên được coi là Cậu ông Trời.
Cách lý giải 2 có khả năng hợp lý hơn, do sự bỗ trợ bằng bức tranh dân gian “Thầy
đồ Cóc”. Xin xem hình vẽ dưới đây:
Thầy đồ Cóc
Tranh dân gian Việt Nam thuộc dòng tranh Đông Hồ
Có lẽ không phải ngẫu nhiên trên bức tranh có dòng chữ “Lão
Oa độc giảng”. Tức là ông Cóc già độc quyền giảng dạy. Bởi vì, chỉ có
Cóc mới có chữ để dạy cho đời (con của Cóc là nòng nọc, tức Khoa Đẩu). Mặc dù bức tranh dân gian nổi tiếng “Thầy đồ Cóc” có thể được vẽ
sau thời gian nước Văn Lang bị mất từ lâu (*).
Chú thích: (*) Người viết có ý niệm cho rằng những bức tranh
dân gian đã xuất hiện vào những giai đoạn cuối của nước Văn Lang và điều đó có
nghĩa là người Lạc Việt đã làm ra giấy vào thời kỳ này. Sự liên hệ này ngoài những
vấn đề liên quan đến chữ viết (giữa hình ảnh con nòng nọc - chữ Khoa Đẩu - và
con Cóc lại có mặt trong sự giảng dạy) còn liên hệ đến rất nhiều vấn đề tương
quan khác được trình bày trong sách này. Hiện tượng này giải thích hình tượng
con Cóc đúc nổi trên trống đồng, chính là sự thể hiện nền văn minh đã có chữ viết
của dân tộc Việt.
Như vậy, người Việt đã sử dụng chữ Khoa Đẩu là chữ viết chính
thức để ghi nhận những giá trị nền văn minh của mình. Một trong những giá trị ấy
chính là thuyết Âm Dương Ngũ hành và sự ứng dụng rộng lớn của nó trong việc lý
giải tự nhiên, xã hội và con người, kể cả dự đoán tương lai. Thuyết Âm Dương
Ngũ hành có thể thích hợp, hoặc không còn thích hợp trong cuộc sống hiện đại của
con người; tùy theo những nhận định của các học giả về tính khoa học hay phi
khoa học của học thuyết này. Nhưng với một hệ thống lý luận hoàn chỉnh được chứng
tỏ ở những hệ quả là những phương pháp luận của nó được thể hiện trên thực tế ứng
dụng với quy mô lớn trong thời gian tính bằng thiên niên kỷ, cũng chứng tỏ được
rằng: Nền văn minh chính thống của Văn Lang dưới thời các vua Hùng, không thể
là một nền văn minh hoang sơ với hình ảnh sinh hoạt của con người như vừa thoát
thai khỏi xã hội bộ lạc nguyên thủy.
Với kết luận chữ Khoa Đẩu là văn tự chính thống của xã hội Văn Lang, điều đó vẫn
có nghĩa là: trong xã hội Văn Lang, ngoài chữ Khoa Đẩu hoàn toàn có thể tồn tại
những hệ thống chữ viết khác trên một nước rộng lớn: Bắc giáp Động Đình Hồ, Tây
giáp Ba Thục, Nam giáp Hồ Tôn, Đông giáp Đông Hải.
Sự xuất hiện của chữ Khoa Đẩu từ thời Đào Nghiêu (2253 Tr.CN) với nội dung văn
Khoa Đẩu ghi trên lưng rùa ghi việc “trời đất mở mang” và “việc
làm lịch” đã chứng tỏ người Lạc Việt có một học thuyết vũ trụ quan và một
tri kiến thiên văn liên quan, khẳng định một nền văn minh phát triển từ rất lâu
trước đó. Học thuyết vũ trụ quan của người Lạc Việt đã được minh chứng trong
sách này chính là thuyết Âm Dương Ngũ hành. Đối với một dân tộc, mà hình thái ý
thức xã hội chính thống đã có một hệ thống lý học hoàn chỉnh về vũ trụ quan thể
hiện ở thuyết Âm Dương Ngũ hành với sự ứng dụng hầu hết trong mọi mặt chủ yếu của
cuộc sống; tất yếu dân tộc đó phải có một nền văn hóa, khoa học kỹ thuật với những
mối quan hệ xã hội tương ứng, để đảm bảo tính hài hòa cân đối, như là một sự tất
yếu để tồn tại và phát triển trong điều kiện của thời đại đó.
Những chương tiếp theo sau đây sẽ tiếp tục chứng minh cho những ý tưởng trên.
CHƯƠNG 3
Vì vậy, để giải thích hiện tượng giặc Ân sang cướp nước ta trong truyền thuyết “Phù
Đổng Thiên Vương” - với quan niệm mới chỉ có hai giải pháp là: hoặc là phủ
nhận tính thực tế của truyền thuyết; hoặc là coi giặc Ân là bộ tộc Ân nào đó ở
miền Bắc Văn Lang. Do đó việc đầu tiên phải lý giải là:
Giặc Ân là bộ tộc Ân hay là nhà Ân Thương thuộc cổ sử Trung
Hoa
Về sự việc này, căn cứ vào truyền thuyết có thể dẫn chứng những điểm như sau:
@ Sự tương quan niên đại giữa thời Hùng Vương thứ VI và nhà Ân Thương
So với sử cũ thời Hùng Vương kéo dài 2622 năm. Nếu lấy sự trung bình toán học
ta sẽ có thời điểm ở cuối thời Hùng Vương thứ VI là:
(2622 x 12 : 18) + 258 (hoặc 208 theo quan niệm mới) ta sẽ được 2006 (nếu cộng
258) hoặc 1956 (nếu cộng 208) năm tr.CN.
Trong đó: 18 là con số chỉ 18 thời Hùng Vương.
12 là các thời vua Hùng tiếp nối tính từ thời Hùng Vương thứ VII
258 (hoặc 208) tr.CN là niên đại kết thúc của thời Hùng Vương.
Ta sẽ có con số khoảng 2000 năm tr.CN cho niên đại kết thúc của thời Hùng Vương
thứ VI - chênh lệch 300 năm so với con số tuyệt đối nếu có của niên đại bắt đầu
nhà Ân Thương. Như vậy, giữa thời Hùng Vương thứ VI và đời Ân Thương thuộc cổ sử
Trung Hoa có sự tương đương về niên đại (do chỉ lấy sự trung bình toán học thuần
túy, có thể 6 thời Hùng Vương - kể từ Hùng Vương thứ I - có niên đại trung bình
lâu hơn và nhà Ân có niên đại bắt đầu sớm hơn. Thực tế về niên đại trong cổ sử
Trung Hoa được coi là tương đối chính xác chỉ từ thời Chu Lệ Vương (khoảng 850
tr.CN), còn trước đó chỉ là những con số giả định theo truyền thuyết. Sự tương
đương về niên đại này không thể coi là ngẫu nhiên, hoặc do các nhà chép sử thời
Đinh - Lê - Lý - Trần... về sau gán ghép một cách chủ quan. Bởi vì ông cha ta
ngày xưa viết sử biên niên chỉ dựa vào niên hiệu của các vị vua. Do đó nếu tính
toán một cách chủ quan để thời Hùng Vương thứ VI tương đương với niên đại nhà
Ân Thương là một việc rất khó thực hiện, khi chính nhà Ân Thương cũng chưa khẳng
định được niên đại chính xác của nó, ít nhất trước khi có khoa lịch sử hiện đại.
Vì vậy chỉ có thể khẳng định rằng: truyền thuyết đã ghi nhận sự việc xảy ra
đúng vào niên đại của thời Ân Thương.
Truyền thuyết “Phù Đổng Thiên Vương” cũng ghi nhận: sau cuộc chiến Ân Thương -
Văn Lang thì Ân Thương hơn 600 năm không dám ra quân (có sách nói 400 năm). Cổ
sử Trung Hoa cho rằng nhà Ân Thương chỉ tồn tại 600 năm (1766 - 1122 tr.CN - Lịch
sử Trung Quốc 5000 năm, Tập I, Lâm Hán Đạt, Tào Dư Chương, Nxb VHTT 1997, dịch
giả Trần Ngọc Thuận). Nhưng nếu tính từ vua Bàn Canh nhà Thương dời đô sang Ân
Khư , vì vậy gọi là nhà Ân thì khoảng xấp xỉ 400 năm.
Do đó, cuộc chiến này có thể khẳng định diễn ra vào đầu thời Ân và cuối thời
Hùng Vương thứ VI. Nếu thời Hùng Vương chỉ tồn tại 300 năm, thì không có cơ sở
nào giải thích được sự trùng hợp về thời gian mà truyền thuyết nhắc tới với những
vấn đề lịch sử liên quan.
Sự liên quan qua không gian lịch sử
Theo Đại Việt sử ký (Nxb T/p Hồ Chí Minh 1993 - dịch giả Nguyễn Gia
Tường):
Việt Vương Câu Tiễn (505 - 465 tr.CN) thường sai sứ sang dụ,
Hùng Vương chống cự lại.
Nước Việt cuối thời Xuân Thu là một nước ở vùng Triết Giang
Trung Hoa ngày nay (tức là vùng đất của Văn Lang cũ theo truyền thuyết “Con Rồng
Cháu Tiên”), vào thời Câu Tiễn là một quốc gia hùng mạnh, bá chủ của các nước
chư hầu thuộc vùng Nam Trung Quốc cuối thời Xuân Thu của nhà Chu. Nước Việt có
một nền khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt là kỹ thuật luyện kim,
những thanh kiếm báu nổi tiếng trong truyền thuyết Trung Hoa là Can Tương và Mạc
Da đều được sản xuất từ nước này. Với một thực lực hùng hậu như vậy, mà chưa hề
có một truyền thuyết, di vật hoặc thư tịch nào chứng tỏ có một cuộc chiến giữa
Việt Câu Tiễn và Văn Lang. Do đó, thật là khó lý giải khi gần 100 năm sau lại
có một bộ tộc Ân nào đó, tấn công khiến nước Văn Lang phải khốn đốn.
Sự kiện này cũng chứng tỏ rằng biên giới của Văn Lang cũng rất gần, hoặc ngay
sát biên giới của Việt Vương Câu Tiễn. Không thể có lý do gì nước Văn Lang ở tận
Việt Trì và chỉ là một bộ lạc lạc hậu, lại được sự quan tâm mong muốn trở thành
đồng minh của Câu Tiễn trong việc bá chủ Trung Nguyên.
@ Tư liệu Trung Hoa liên quan
* Trong Chu Dịch về ý nghĩa của quẻ Ký Tế, phần Tượng truyện, hào 3 có nói:
Cửu tam: Cao Tôn phạt Quỷ phương, tam niên khắc chi, tiểu nhân vật dụng.
Vua đánh các vùng nước Quỷ, ba năm mới được, chớ dùng tiểu nhân.
Bị chú hào này: trong bản Chu Dịch hiện lưu hành, vua ở đây ghi là Cao Tông tức
vua Cao Tông nhà Ân Thương... Thuật ngữ: Quỷ Phương chỉ các phương giống người
quỷ tức người còn man rợ như phía trên đã nói: Nam Man, Bắc Địch, Đông Di, Tây
Nhung. Nước Việt Thường chúng ta thời Kinh Dương Vương cũng bị nhà Chu gọi là
nước Xích Quỷ... nhà Ân Thương có điều quân đi đánh bốn phương đều dẹp loạn,
có xuống đến tỉnh Quý Châu. Ở đây có bộ tộc Thi La Quỷ, thời Hùng Vương thứ VI,
vào đánh nước ta nhân danh nhà Ân Thương (Theo Vũ Quỳnh trong sách Tân đính
Lĩnh Nam Chích Quái).
Vua Cao Tông nhà Ân Thương tên là Vũ Đinh, con Đế Tiểu Ất và cháu vua Bàn Canh.
Vũ Đinh có đánh dẹp quanh hồ Động Đình và đến vùng Quý Châu, có thể cuộc dẹp loạn
trải qua ba năm.
Quẻ Tùy, hào 6 có nói:
Thượng lục: Câu hệ chi, nãi tùng duy chi, vương dụng hanh vu
tây sơn
Lòng mình theo mình cấu kết không rời, không trói buộc cũng theo, như dân ấp
Mân theo vua chạy qua Tây Sơn.
(Phần trích dẫn, theo Kinh Dịch Phục Hy, Gs. Bùi Văn
Nguyên - Nxb Khoa Học Xã Hội - Hà Nội 1997).
Vua ở đây được hiểu là vua nhà Chu. Nhưng theo người viết thì
đất Mân thuộc địa danh khoảng vùng Phúc Kiến ngày nay (Có thể sau này là nước
Mân Việt mà Sử ký của Tư Mã Thiên nhắc đến trong Nam Việt Úy Đà
liệt truyện) Vào thời Chu, đất Mân không thuộc về Hoa Hạ. Không rõ đời vua Chu
nào trong sử Trung Hoa chạy loạn từ đất Mân sang vùng Tây Sơn (địa danh), hoặc
phía tây núi (phương vị) có dân chúng chạy theo. Nhưng với quan niệm cho rằng:
Hào 6 của kinh Dịch phản ánh cuộc chiến Ân Thương - Văn Lang, thì đây có thể là
đoạn miêu tả cuộc rút lui của vua Hùng cuối thời Hùng Vương thứ 6, bỏ kinh đô ở
vùng đất Mân, chạy sang phía tây núi Lĩnh nam, thuộc bộ Vũ Ninh (Quí Châu ngày
nay). Tại đây, vua Hùng đã kịp triệu tập quân đội các bộ chống giặc và ngài Phù
Đổng Thiên Vương đã hiện thân cứu nước.
Vua Vũ Đinh nhà Ân Thương phải chăng chính là vua Ốc Đinh theo tài liệu của cụ
Trần Huy Bá được dẫn trong phần “Tổ chức xã hội thời Hùng Vương”. Nếu hai
vị vua này là một thì những giả thuyết được đặt ra trong chương này, liên quan
đến cuộc chiến Ân Thương - Văn Lang và 18 thời Hùng Vương, sẽ có những điểm
trùng khớp (xin được minh chứng rõ hơn ở phần sau).
* Trong những thư tịch cổ của Trung Hoa còn lại đến ngày nay thì xưa nhất là
sách “Thống Chí” của Trịnh Tiều có nói vào thời Nghiêu Thuấn có nước
Việt Thường đem tặng con rùa thần trên có ghi văn Khoa Đẩu nói việc trời đất mở
mang. Theo“Lĩnh Nam Chích Quái” thì vua Hùng Vương có tặng Chu Thành Vương
một con chim trĩ trắng, nhưng riêng đời Ân thì không có sử sách nào nói đến,
ngoại trừ một cuộc chiến mà truyền thuyết “Phù Đổng Thiên Vương” đã
nhắc tới. Điều này chứng tỏ chính nhà Ân Thương đã gây chiến với Văn Lang cho
nên không có quan hệ ngoại giao.
@ Di vật liên quan
Để minh họa rõ hơn về việc nhà Ân Thương xâm lược Văn Lang, xin được trích dẫn
một đoạn trong cuốn Sử Trung Quốc của tác giả Nguyễn Hiến Lê - Nxb
Văn Hóa 1996.
Hơn nữa, thời đó, An Dương (thủ đô của nhà Ân Thương - người
viết), trung tâm văn minh Trung Hoa có thể cũng đã liên lạc với Hoa Nam (vùng đất
Văn Lang cũ - phía Nam sông Dương Tử - người viết) và các xứ ở Đông Nam Á, vì
người ta thấy những yếm rùa rất lớn dùng để bói mà loài rùa lớn đó chỉ có ở
thung lũng sông Dương Tử, thấy những đồ bằng đồng đỏ (bronse) chạm những hình
người mặt rộng, tròn, mũi tẹt, thuộc giống người Mélannésie (Đông Nam Á); vả lại
muốn đúc thứ đồng đó cần có thiếc mà Hoa Bắc không có.
Hiện tượng đồ đồng được cấu tạo bằng hợp kim đồng thiếc trong
những di vật đào được ở An Dương mà học giả Nguyễn Hiến Lê đã dẫn chứng ở trên
có xuất xứ từ Đông Nam Á, được bổ trợ bằng những công trình nghiên cứu của các
nhà sử học Việt Nam công bố trong cuốn Thời đại Hùng Vương (Nxb Khoa học xã hội
1976 - nhiều tác giả). Xin được trích lại như sau:
Đồng trong các đồ đồng của thời đại Hùng Vương không phải
là đồng nguyên chất lấy trong giới tự nhiên, mà là đồng rút ra từ việc lấy
quặng.
Từ các quặng đồng, quặng chì, quặng thiếc, cư dân nước Văn Lang đã luyện được
các thứ hợp kim khác nhau, cụ thể là hợp kim đồng - thiếc và hợp kim đồng -
chì.
Kết quả phân tích quang phổ thành phần hợp kim đồ đồng thời đại Hùng Vương cho
biết :
- Hàm lượng đồng trong các đồ đồng chiếm từ 80% đến 90%, hàm lượng thiếc từ 10%
đến 20%. Một hợp kim gồm một tỷ lệ đồng và thiếc như thế là hợp kim tốt có thể
dùng để chế tạo các dụng cụ bền, chắc.
- Tỷ lệ hợp kim tương đối ổn định. Điều này biểu thị rằng ông cha chúng ta
trong thời đại Hùng Vương có những tri thức vững chắc về kỹ thuật luyện kim.
Qua đó, chúng ta sẽ nhận thấy rằng: không phải ngẫu nhiên mà
có sự liên hệ giữa những đồ đồng của nền văn minh Văn Lang với những di vật đồng
đào được ở An Dương của nhà Ân Thương; khi mà ở thời đại Ân Thương không thể tạo
được hợp kim đồng thiếc. Sự phát hiện của ngành khảo cổ học hiện đại về đồ vật
bằng đồng đỏ (hợp kim đồng - thiếc) chỉ có ở vùng Đông Nam Á, xuất hiện ở thủ
đô Ân Thương dẫn đến hai giả thuyết:
1) Nhà Ân Thương đã trao đổi buôn bán với Văn Lang.
2) Đó là những chiến lợi phẩm trong cuộc xâm lược Văn Lang vào thời Hùng Vương
thứ VI.
Giả thuyết 2 có cơ sở hơn, vì sự trùng lặp hợp với truyền thuyết Việt Nam. Hơn
nữa, nếu do người Ân Thương buôn bán với Văn Lang mua thiếc về để tự đúc lấy, tại
sao họ lại không chạm những hình thuộc dân tộc họ mà lại chạm những hình người
mà họ cho là Man di.
Với những luận điểm trên thì giặc Ân mà truyền thuyết nói đến, chỉ có thể khẳng
định là nhà Ân Thương bên Trung Hoa. Không thể có một bộ tộc Ân nào đó tồn tại ở
Bắc Văn Lang, tức là Nam Trung Quốc giáp giới với các nước thời Xuân Thu - Chiến
quốc có khả năng tấn công Văn Lang, mà lại không được sử Trung Quốc nhắc đến.
Sự thu hẹp lãnh thổ Văn Lang
Theo truyền thuyết kể lại: Ngài Phù Đổng Thiên Vương đánh giặc đến bộ Vũ Ninh
thì giặc tan và ngài hiển thánh. Như vậy chứng tỏ quân chủ lực của giặc đã tan
rã, nhưng bên ta chủ tướng cũng không còn. Cho nên, mặc dù Ân Thương không dám
ra quân, nhưng bên ta có thể cũng chưa đủ sức giành lại những vùng đất đã mất.
Do đó phần đất phía Bắc Văn Lang theo truyền thuyết “Con Rồng Cháu Tiên” nhắc
tới: Bắc giáp Động Đình Hồ, Tây giáp Ba Thục... bị xâm chiếm bởi nhà Ân Thương.
Khi nhà Chu lật đổ Ân Thương, đương nhiên tiếp quản những vùng đất Ân Thương đã
chiếm của Văn Lang và làm đất phong cho con cháu, công thần của họ. Điều này giải
thích tại sao một số nước chư hầu của nhà Chu đã xuất hiện ở vùng đất Văn Lang cũ
như Ngô, Việt và một phần nước Sở... Tuy nhiên, chưa thể khẳng định được sự thu
hẹp lãnh thổ của Văn Lang do cuộc xâm lăng của nhà Ân tới đâu. Bởi vì, như phần
trên đã trình bày: quân chủ lực Ân Thương bị tan rã ở Vũ Ninh, nhưng cũng không
nói tới việc giặc Ân bị quân ta đuổi ra khỏi bờ cõi. Điều này cũng không có
nghĩa là: từ Vũ Ninh trở về phía Bắc hoàn toàn thuộc về nhà Ân Thương. Do có thể
có một số bộ trong 15 bộ thuộc Văn Lang bị chiếm, đã tự nổi dậy đuổi giặc ở những
vùng phía Bắc, sau đó tiếp tục sát nhập vào Văn Lang. Giả thuyết này sẽ được
làm sáng tỏ hơn trong mục “Tổ chức xã hội Văn Lang” ở phần sau.
I- Tấm bản đồ Chiến quốc được vẽ lại từ những tấm bản đồ
minh họa trong cuốn Lịch sử Trung Quốc 5000 năm, tập I của Lâm Hán Đạt, Tào Dư
Chương (Nxb VHTT 1997 - Dịch giả Trần Ngọc Thuận) và phần biên giới của các nước
chư hầu nhà Chu trong “Bản đồ Trung Quốc vào khoảng 350 năm trước Tây Lịch” (Sử
Trung Quốc, Tập I của Nguyễn Hiến Lê - Nxb Văn Hóa - 1997).
Qua tấm bản đồ trên bạn đọc sẽ nhận thấy: nếu nước Văn Lang
chỉ giới hạn ở một vùng thuộc Bắc Việt Nam ngày nay, mà lại được sự quan tâm của
Việt Vương Câu Tiễn để làm đồng minh chống lại Trung Nguyên thì thật là một sự
vô lý. Từ giới hạn biên giới phía Nam của các nước chư hầu nhà Chu thời Chiến
quốc (theo bản đồ của Sử Trung quốc - sách đã dẫn) đến biên giới phía Bắc hiện
nay của Việt Nam là một khoảng trống lớn. Trong khoảng trống đó có vùng Quý
Châu là điểm mà vua Ân tuần thú xuống phía Nam để đánh các nước Quỷ (Hào 3, quẻ
Ký Tế - Kinh Dịch Phục Hy - sách đã dẫn). Truyền thuyết “Phù Đổng Thiên
Vương” có nói: Ngài giáng hạ ở làng Phù Đổng (huyện Tiên Du, tỉnh Hà Bắc
hiện nay). Các sách sử gần đây cho rằng bộ Vũ Ninh thuộc vùng Hà Bắc. Như vậy,
theo truyền thuyết giặc đã đánh đến ngay quê hương của ngài. Nếu thế thì sự chuẩn
bị chiến đấu của ngài chắc không thể trọn vẹn và ngài cũng không cần trổ thần
uy, phóng ngựa chớp mắt tới quân giặc làm gì. Do đó, so với những lời chú thích
trong quẻ Ký Tế thì hoàn toàn có cơ sở để đặt một giả thuyết cho rằng: bộ Vũ
Ninh chính là vùng Quý Châu cũ. Khi lãnh thổ Văn Lang bị thu hẹp vào thời nhà Tần,
vua Hùng đã chia phần đất cuối cùng còn lại của Văn Lang theo tên các bộ cũ.
Riêng quê hương của ngài thì được đặt tên Vũ Ninh để kỷ niệm chiến công oanh liệt
vào thời Hùng Vương thứ VI do ngài tạo lập.
II- Tấm bản đồ trên hoàn toàn được vẽ lại từ bản đồ thời
kỳ nhà Tần trong cuốn Lịch sử Trung Quốc 5000 năm (sách đã dẫn). Bạn
đọc sẽ nhận thấy một sự tồn tại liên quan đến truyền thuyết “Con Rồng Cháu
Tiên” - đó là các nước: Dạ Lang, Điền Việt, Tây Âu có tên trên bản đồ (nước
Văn Lang không có tên trên bản đồ - mặc dù đến lúc này thì ít nhất cũng đã tồn
tại trên thực tế - dù theo quan điểm nào). Theo sử Trung Hoa thì Nam Việt lúc đầu
thuộc nhà Tần, nhưng đến cuối thời Tần thì tách ra lập một quốc gia riêng. Từ bản
đồ này, đã chứng tỏ trong khoảng 125 năm, tính từ năm 350 năm đến 221 tr.CN
lãnh thổ Văn Lang đã bị thu hẹp đáng kể. Nhưng qua đó cũng chứng tỏ rằng: việc
tướng Đồ Thư tấn công Bách Việt thuộc Văn Lang mà truyền thuyết nói tới, hoàn
toàn không phải là đánh vào vùng đất Văn Lang ở nước Việt hiện đại, mà là những
vùng đất thuộc Văn Lang cũ, tức phần còn lại của bản đồ thời Chiến quốc ở phần
trên. Bởi vì, nếu tướng Đồ Thư đánh vào Văn Lang ở thời điểm sau khi Tần Thủy
Hoàng thống nhất Trung Hoa, thì ít nhất vị tướng này cũng phải chinh phục qua
các nước nằm trong bản đồ nói trên. Đây là điều vô lý.
Với tấm bản đồ thời kỳ nhà Tần, bạn đọc sẽ đặt câu hỏi: trong vòng khoảng 129
năm kể từ bản đồ Chiến quốc đến bản đồ nhà Tần (cho rằng đây là bản đồ cuối Tần),
nguyên nhân nào đã dẫn đến sự hình thành một số quốc gia như Dạ Lang, Điền Việt,
Tây Âu trong những khoảng trống ở bản đồ Chiến quốc?
Theo quan điểm của sử cũ phù hợp với truyền thuyết “Con Rồng, cháu Tiên” thì hiện
tượng này có thể giải thích như sau: Trước đó, ở đây vốn là những vùng đất của
các bộ thuộc Văn Lang cũ, tức là đã có những tổ chức xã hội ổn định và phát triển.
Cho nên hoàn toàn có cơ sở để từ đó hình thành những quốc gia độc lập, do những
sự biến động lớn của lịch sử - có nguyên nhân từ những cuộc chinh phạt của những
nước chư hầu nhà Chu, đặc biệt là nhà Tần. Còn với quan điểm mới giải thích thế
nào thì vì không có tài liệu, người viết không dám lạm bàn.
CHƯƠNG III - 1
Do đo, hoàn toàn có khả năng bắt đầu từ Ân Thương trở về sau,
dấu ấn của thuyết Âm Dương Ngũ hành có thể xuất hiện trong nền văn minh Trung
Hoa. Nhưng đó chỉ là sự tiếp thu không hoàn chỉnh học thuyết này của Văn Lang,
cho nên học thuyết này không được phổ biến và công nhận như một ý niệm chính thống
trước khi Văn Lang bị đô hộ hoàn toàn. Đó cũng là nguyên nhân của sự huyễn ảo của
học thuyết này cho đến tận bây giờ.
Các nhà Lý học từ thời Tần Hán về sau nói đến thuyết Âm Dương có từ thời Phục
Hy, với dẫn chứng trong quẻ Dịch của Phục Hy: “Vạch liền là Dương, vạch đứt
là Âm”, thực ra chỉ là sự gán ghép khiên cưỡng. Bởi vì phạm trù của thuyết
Âm Dương Ngũ hành rất rộng, bất cứ sự vật, sự việc lớn nhỏ nào trong thiên
nhiên, xã hội và con người cũng thể hiện hiện tượng của Âm Dương. Nhưng có hay
không một hệ thống lý luận hoàn chỉnh về Âm Dương lại là một vấn đề khác. Mặc
dù trong phương pháp làm lịch từ thời Ân Thương có sử dụng thập Thiên can và thập
nhị Địa chi (Sử Trung Quốc - sách đã dẫn - trang 55. Như vậy, vào thời kỳ
này thuyết Âm Dương Ngũ hành đã được ứng dụng?), nhưng nó chỉ là sự ứng dụng một
hệ quả của phương pháp có sẵn, chứ không phải chứng tỏ sự phát minh ra một học
thuyết.
Yếu tố đáng lưu ý nữa là sự xuất hiện của các học thuyết thuộc văn minh Trung
Hoa cổ - từ trước thời Xuân Thu Chiến quốc kéo dài đến cuối Hán - nhằm lý giải
một ý niệm vũ trụ quan, đã thể hiện một sự quan sát không hoàn chỉnh. Đó là những
thuyết:
Cái Thiên - Theo sách Lã Thị Xuân Thu (thời Xuân Thu Chiến
quốc) thì thuyết này cho rằng: Trời là nửa hình tròn, Đất là cái bát để ngửa.
Trời cách Đất tám vạn dặm. Trời Đất là hai vòng tròn đồng tâm. Sao Đại Hùng ở
giữa trời, con người ở giữa đất. Mưa rơi xuống đất tỏa khắp bốn phương trở
thành biển và lục địa. Trời tròn, Đất vuông. Trời giống như cọ xát với mặt Trời,
mặt Trăng và xoay về phía bên phải. Bản thân mặt Trời, mặt Trăng vận động quay
về phía bên trái.
Hồn Thiên - Căn cứ vào sách sử ghi chép đầu thời Hán, Lạc Hạ Hoằng Đề đề
xuất chủ trương này. Đến cuối thời Hán thuyết Hồn Thiên được tiếp thu và mở rộng
hơn thuyết Cái Thiên
(Theo Chu Dịch Vũ trụ quan - sách đã dẫn).
Sự thô sơ của thuyết Hồn Thiên & Cái Thiên được gán cho
bánh chưng, bánh dầy. Nó lý giải được bánh chưng vuông và bánh dầy tròn. Nhưng
oái oăm thay! Nó lại không lý giải được sự khác nhau giữa cái bánh dầy và đĩa
xôi lạc.
Sự xuất hiện và tồn tại lâu dài của những học thuyết lý giải vũ trụ quan một
cách thô sơ thuộc văn minh Tần Hán và trước đó dẫn chứng ở trên, đã chứng tỏ rằng:
Nếu Dịch học là học thuyết vũ trụ quan hoàn chỉnh từ hơn 2000 năm tr.CN; có
nghĩa là gồm từ việc lý giải bản nguyên của vũ trụ là Thái cực sinh Âm Dương và
sau đó là Bát quái như từ trước đến nay vẫn quan niệm, thì không thể còn chỗ trống
để phát sinh và phát triển những học thuyết về vũ trụ quan thô sơ như thuyết
Cái Thiên và Hồn Thiên. Điều này cũng chứng tỏ: từ trước thời Xuân Thu Chiến quốc,
nền văn minh chính thống của Trung Hoa chưa có học thuyết giải thích việc hình
thành vũ trụ.
Kinh Dịch chỉ là một phương pháp ứng dụng. Những ý niệm vũ trụ quan trong kinh
Dịch hết sức mơ hồ, không thể coi là một học thuyết hoàn chỉnh. Vì thiếu hẳn một
hệ thống lý thuyết căn bản, nên mọi phương pháp ứng dụng liên quan đến học thuyết
này đều ở trong trạng thái huyền bí (*).
Chú thích: (*) Trong sách này vì chủ đề không nói về kinh Dịch,
vì vậy người viết vẫn theo cách nhìn quen thuộc từ hơn 2000 năm nay coi kinh Dịch
có xuất xứ từ văn minh Hoa Hạ. Người viết cho rằng Bát quái của kinh Dịch là những
ký hiệu, một siêu công thức thể hiện sự vận động của vũ trụ theo thuyết Âm
Dương Ngũ hành. Kinh Dịch có những dấu ấn chứng tỏ xuất xứ từ văn minh Văn
Lang. Điều này đã trình bày trong sách “Tìm về cội nguồn kinh Dịch” (Nxb VHTT
2002.Tái bản lần thứ 1, có sửa chữa và bổ sung).
Như vậy, từ trước thời Xuân Thu, so sánh quan điểm vũ trụ
quan của văn minh Trung Hoa với văn minh Văn Lang thể hiện ở bánh chưng, bánh dầy,
thì văn minh Văn Lang ngay từ buổi đầu lập quốc đã có một hệ thống vũ trụ quan
hoàn chỉnh; giải thích từ sự hình thành vũ trụ cho đến sự vận động của nó trong
mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và con người. Văn minh Trung Hoa từ thời Xuân
Thu mới xuất hiện “Đạo Đức kinh” của Lão tử là hệ thống ý niệm vũ trụ
quan và nhân sinh quan đáng chú ý, nhưng chưa hoàn chỉnh (Đạo Đức kinh của Lão
tử cũng là một vấn đề cần phải xem xét, vì những dấu ấn liên quan đến văn minh
Văn Lang. Xin coi Chương V: “Sự tích Đầm Nhất Dạ”). Chỉ có từ thời Hậu Hán về
sau, khi nước Văn Lang - sau đó là Âu Lạc - bị đô hộ hoàn toàn thì, quan điểm
vũ trụ quan của Văn Lang là thuyết Âm Dương Ngũ hành và sự ứng dụng của nó, mới
được các nhà Lý học thuộc văn minh Hoa Hạ nghiên cứu. Đây cũng là nguyên nhân để
các nhà nghiên cứu hiện đại của Trung Hoa cho rằng: hầu hết các sách liên quan
tới Âm Dương Ngũ hành đều do người thời Hán (tức là lúc Văn Lang bị tiêu diệt)
trở về sau gán ghép và tự ý đặt cho nó một tác giả thời cổ (đó là nguyên nhân
gây nên sự nhầm lẫn, hỗn độn đã trình bày ở trên).
Một điểm đáng chú ý nữa là: thuyết Âm Dương Ngũ hành ở Văn Lang được phổ biến bắt
đầu từ tầng lớp của những người lãnh đạo đất nước (Lang Liêu, “Dẫu hèn cũng thể
con vua”). Điều này cho thấy thuyết Âm Dương Ngũ hành từ lâu đã là một học thuyết
chính thống trong văn minh Văn Lang. Ngược lại, người sử dụng thuyết Âm Dương
Ngũ hành sớm nhất của văn minh Trung Hoa, phần lớn thuộc về tầng lớp bình dân,
mặc dù sau đó họ đều có địa vị xã hội như: Trần Bình - tể tướng thời Hán; Khổng
Minh Gia Cát Lượng - tể tướng Thục thời Tam Quốc. Hiện tượng này đã giải thích:
Thuyết Âm Dương Ngũ hành được lưu giữ trong dân gian vào thời bị đô hộ, nên đã
được văn minh Trung Hoa tiếp thu từ hạ tầng xã hội. Nhưng đó là sự tiếp thu và
phát hiện rời rạc với những nguồn gốc đầy thần bí: Rùa thần ở sông Lạc; Long mã
ở sông Hoàng Hà; Xích Tùng Tử ban sách Thiên thư cho Trương Lương; thần tiên tặng
bí kíp cho Khâu Đình Hàn, khiến cho học thuyết Âm Dương Ngũ hành vốn đã mờ ảo
vì bị tàn phá qua thời gian tính bằng thiên niên kỷ, thêm phần huyền bí.
Xã hội Văn Lang đã khẳng định một nền văn minh trong đó hình thành một học thuyết
vũ trụ quan hoàn chỉnh với sự ứng dụng rộng khắp trên nhiều lĩnh vực của tự
nhiên, cuộc sống, xã hội và con người, thì cũng phải chứng tỏ một sự phát triển
tương xứng ở những mặt khác của xã hội để cân đối với nó. Phần tiếp theo đây sẽ
minh chứng cho điều này.
Khoa học kỹ thuật thời Hùng Vương
Phải chăng thời Hùng Vương đã sử dụng đồ sắt?
Truyền thuyết “Phù Đổng Thiên Vương” có một tình tiết
đáng chú ý là: các chiến cụ của Đức Thánh Gióng đều bằng sắt. Tình tiết này đã
là nguyên nhân của vấn đề: thời Hùng Vương đã có đồ sắt hay không? Để phân tích
tình tiết này, trước hết xin đặt một vấn đề là: tình tiết này do người đời sau
thêm vào, hay người đương thời tạo ra để mơ ước về sắt có mặt trong sinh hoạt;
hay là phản ánh sự thật về kim loại sắt đã được phát hiện từ thời Hùng Vương?
@ Trong truyền thuyết “Phù Đổng Thiên Vương” những chiến cụ bằng sắt
không phải là yếu tố tạo nên chiến thắng của Đức Thánh Gióng mà chủ yếu là thể
hiện lòng dũng cảm của ngài và cuộc chiến dữ dội nhất của dân Lạc Việt thời cổ.
Nếu Đức Phù Đổng Thiên Vương chỉ yêu cầu chiến cụ bằng đồng thì nội dung vẫn giữ
nguyên giá trị. Vậy tình tiết chiến cụ bằng sắt không thể do người đời sau thêm
vào.
@ Phải chăng tình tiết này thể hiện ước mơ của người Lạc Việt muốn có sắt trong
cuộc sống và trong quốc phòng? Điều này chứng tỏ rằng ít nhất thời đó người Lạc
Việt đã tìm ra sắt và biết đến tính năng của nó làm cơ sở để ước mơ. Nếu cho rằng
ước mơ đó xảy ra vào thời Hùng Vương thứ VI - theo quan niệm mới, tương đương với
400 năm tr.CN - là lúc kỹ thuật luyện thép đã phát triển cao ở Trung Quốc cổ đại,
thì ước mơ này dựa trên cơ sở đã biết tới đồ sắt do thông thương với Trung Hoa.
Như vậy sẽ không lý giải được một bộ tộc Văn Lang lạc hậu lại có thể sống yên
bình trước những quốc gia hùng mạnh như Ngô Việt. Còn nếu do một hoàn cảnh đặc
biệt nào đó, do cấu hình địa lý vào thời cổ mà Văn Lang cách biệt với văn minh
của thế giới bên ngoài, thì lại không có cơ sở nào để mơ ước đến sắt. Giả thuyết
cho rằng văn minh Văn Lang cách biệt với thế giới bên ngoài, sẽ không thể lý giải
được một sự phát triển và tiến hóa khép kín từ thời đại đồ đá lên thời đại đồ đồng
chỉ giới hạn ở Bắc Việt Nam. Đồng thời cũng không thể lý giải được sự liên hệ của
Việt Vương Câu Tiễn với Vua Hùng (đã trích dẫn).
Do đó, như phần trên đã minh chứng: thời Hùng Vương thứ VI tương đương với nhà
Ân Thương bên Trung Hoa. Lúc đó văn minh Trung Hoa chưa có sắt. Vì vậy, tình tiết
những chiến cụ bằng sắt của Đức Thánh Gióng, chỉ có thể giải thích bằng sự phản
ánh thực tế về việc dân tộc Việt đã tìm ra sắt sớm nhất trong văn minh của nhân
loại. Và điều này cũng được chứng tỏ qua thuyết Âm Dương Ngũ hành.
Theo thuyết Âm Dương Ngũ hành trong đó hành Kim theo quan niệm của thuyết này
có tính cứng, mạnh, nhọn, sắc và tượng của Kim màu trắng. Về tượng Kim màu trắng
có thể giả thuyết cho rằng: theo thuyết này thì Kim thuộc Tây phương, tượng của
sao Kim (Thái Bạch) có sắc Trắng, nên cổ nhân lấy tượng của Kim màu trắng.
Nhưng cho dù xuất phát từ nguyên nhân nào thì đã chứng tỏ rằng: ông cha ta thời
đó không thể chỉ biết đến đồng (màu vàng) hoặc một số kim loại khác có thể phổ
biến vào thời bấy giờ như: bạc, chì, thiếc. Bởi vì kim loại này tuy có sắc trắng,
nhưng không thể hiện được tính cứng mạnh của Kim. Do đó, ít nhất trong suy nghĩ
của những học giả đời Hùng, phải iết đến một kim loại có đầy đủ những thuộc
tính của Kim rong Ngũ hành là cứng, mạnh, nhọn sắc để chứng tỏ tính thực tế của
học thuyết này, đó chính là sắt. Thuyết Âm Dương Ngũ hành đã hoàn chỉnh ít nhất
vào thời Hùng Vương thứ 6, (qua truyền thuyết “Bánh Chưng, bánh Dầy”). Có thể sắt
ở thời kỳ này chỉ tồn tại dưới dạng thô sơ nhất của kỹ thuật luyện kim, đó là
gang. Những tình tiết trong “Phù Đổng Thiên Vương” đã chứng tỏ điều này: lần thứ
nhất, khi vua mang các chiến cụ bằng sắt đến cho ngài thì mới dùng thử đã gẫy vụn
(Đây là tính chất của gang: cứng, chịu mài mòn, chịu rung, nhưng giòn và dễ gãy
do tỷ lệ cacbon cao so với thép). Lần thứ hai khi ra trận, gậy sắt bị gẫy. Chiếc
gậy sắt gẫy đã trở thành huyền thoại, thể hiện lòng dũng cảm và sức mạnh của Đức
Thánh Gióng với ý chí quyết tâm diệt thù cứu nước của ngài. Điều này cũng đã chứng
tỏ kỹ thuật luyện sắt vào thời Hùng Vương thứ VI chưa phải là một kỹ thuật cao
cấp. Nhưng ít nhất thì cũng đã chứng tỏ người Lạc Việt là một dân tộc tìm ra sắt
sớm nhất thế giới. Việc này cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi dân tộc Việt
là một dân tộc đã biết sử dụng hợp kim vào thời kỳ này. Đó là những di vật bằng
đồng đỏ (hợp kim đồng - thiếc) tìm thấy ở Ân Khư, chiến lợi phẩm trong cuộc chiến
Văn Lang - Ân Thương. Điều này lý giải về sau, vào thời Xuân Thu Chiến quốc khi
kỹ thuật luyện kim đã phổ biến, thì những nước đạt đến trình độ luyện kim cao cấp
nhất lại là những nước thuộc vùng đất của Văn Lang cũ như Ngô Việt. Hơn nữa, lịch
sử Ai Cập cổ đại đã ghi nhận: người Ai Cập ứng dụng kỹ thuật luyện sắt vào khoảng
thế kỷ thứ 9 trước CN từ người Haiiti. Như vậy, với một nền văn minh như Văn
Lang có một hệ thống lý thuyết vũ trụ quan lý giải từ sự hình thành vũ trụ đến
mọi vấn đề liên quan đến con người, thì việc tìm ra sắt trước Ai Cập khoảng 600
năm cũng không có gì là vô lý.
Giả thiết về đồ sắt xuất hiện vào thời Hùng Vương thứ VI được bổ sung thêm qua
một sự kiện của ngành khảo cổ ở một nước láng giềng có biên giới gần gũi với
Văn Lang cổ. Xin được trích dẫn như sau:
Ở Thái Lan, cuộc khai quật của Gozman ở làng Bản Chiềng, trên
cao nguyên Cò Rạt vào những năm 1974 – 1975 và đã phân làm 6 đoạn.
Giai đoạn I và II có niên đại theo C14 là 3600 Tr.CN đến 2900 năm Tr.CN. Sát
sinh thổ có ngôi mộ nằm co, có đồ tuỳ táng là một mũi giáo bằng đồng. Có 2 mộ nằm
thẳng. Một mộ có 1 vòng tay đồng; mộ khác có vòng chân đồng. Đây là những hiện
vật có đồng xưa nhất ở Thái Lan và vùng Đông Nam Á (theo Gorman).
Giai đoạn III và IV, có niên đại 2000 - 1200 năm Tr.CN. Giai đoạn này
chứa rất nhiều mộ táng. Trong các mộ chứa rất nhiều đồ đồng. Có 3 lưỡi giáo mũi
sắt, họng đồng; 1 chiếc vòng tay bằng sắt. 1 chiếc khác bằng đồng bịt sắt ở
ngoài. Hai di vật này nằm trong ống xương tay.
Giai đoạn V có niên đại 1000 - 500 năm Tr.CN. Sắt xuất hiện nhiều hơn và chế tạo
các nông cụ, còn đồng đi vào lãnh vực trang trí.
Giai đoạn VI có niên đại 300 – 250 năm Tr.CN. Công cụ bằng sắt khá phổ biến.
Như vậy các cuộc khai quật ở Bản Chiềng cho thấy từ 3600 – 2900 năm Tr.CN; đồng
thau xuất hiện, từ 2000 – 1200 năm Tr.CN xuất hiện các hiện vật lưỡng kim, đồng
và sắt tiếp hợp. Từ 1000 – 250 năm Tr.CN sắt được dùng phổ biến để chế tạo nông
cụ, đồng đã đi vào lãnh vực trang trí.
(Theo sách Thực chất của đối thoại sử học - nhiều
tác giả - Nxb
Thế Giới Hà Nội năm 2000, trang 37)
Như vậy, bạn đọc cũng nhận thấy rằng: Ở một địa điểm khảo cổ
sát ngay biên giới, hoặc thuộc về Văn Lang cổ, vào thời điểm 2000 - 1200 tr.CN,
sắt đã được ứng dụng vào sinh hoạt xã hội. Bởi vậy, hoàn toàn có cơ sở thực tế
về một khả năng sử dụng đồ sắt vào thời kỳ Hùng Vương thứ VI (khoảng 1600 -
1400 tr.CN), như truyền thuyết “Phù Đổng Thiên Vương” đã nói tới. Nếu khiên cưỡng
mà cho rằng: Đồ sắt phát hiện ở Bản Chiềng - Cò rạt (Vùng Đông Bắc Thái Lan,
người viết), không liên quan gì đến lịch sử thời Hùng Vương thì thật phi lý. Bởi
vì, giữa miền Đông Bắc Thái Lan rất gần với miền Bắc Việt Nam (Lãnh thổ Văn
Lang theo quan niệm mới), hoặc sát lãnh thổ Văn Lang theo sử cũ và truyền thuyết.
Thời đại đồ sắt là thời đại có nền văn minh phát triển cao về các mối quan hệ
xã hội; do đó không thể không có sự giao lưu kinh tế văn hóa ở các vùng lãnh thổ
gần gũi về không - thời gian lịch sử.
Khoa thiên văn thời Hùng Vương và những hiệu ứng vũ trụ tác động
lên tự nhiên, cuộc sống và con người
Thời Hùng Vương còn để lại một dấu ấn, chứng tỏ nền khoa học
kỹ thuật phát triển cao được thể hiện trên những chiếc trống đồng. Xin tham khảo
đoạn trích dưới đây trong sách Kinh Dịch Phục Hy (Gs. Bùi Văn Nguyên - Nxb Khoa
học Xã hội 1997) chứng tỏ điều này. Phần in đậm do người viết thực hiện.
“ ... còn chuyện văn hóa, nghệ thuật và khoa học thiên văn, địa
văn, nhân văn thì phải nói đến trống đồng Đông Sơn (Thanh Hóa) với hệ thống đồ
họa trên mặt trống đồng đó, thí dụ trên mặt trống đồng Hoàng Hạ. Ở đây, trình độ
kỹ thuật chế tạo hợp kim, trình độ đúc khuôn và cấu trúc đồ họa, cho đến nay đối
với chúng ta vẫn là điều đáng khâm phục, mà hãy nói về trình độ nhận thức về
quy luật tự nhiên thời bấy giờ khá chuẩn xác, mặc dù chưa có máy móc để thăm
dò, ngoài một số dụng cụ thô sơ. Theo nhà nghiên cứu lịch pháp cổ Bùi Huy
Hồng thì các mặt trống đồng như Ngọc Lũ, Hoàng Hạ không đơn thuần khắc hoa văn
để trang trí, mà chính là để đo bóng mặt trời, dùng để tính bốn mùa tám tiết
trong một năm theo vòng quay của quả Đất chung quanh mặt Trời (tức là tính theo
Dương lịch), đồng thời có đối chiếu ngày và tháng theo vòng quanh mặt Trăng (tức
là tính theo Âm lịch). Lịch Việt Nam là lịch Âm - Dương kết hợp. Theo Bùi Huy Hồng,
nếu làm thực nghiệm đo bóng mặt trời trên mặt trống đồng Hoàng Hạ, chúng ta có
thể xác định được điểm xuân phân, hạ chí, thu phân, đông chí theo chu kỳ một
năm. Cũng theo ông, nếu so sánh lịch ta với lịch Khơme cổ và lịch Trung Quốc
thì lịch Việt Nam xuất hiện sớm hơn. Đặc biệt, ông đã tỉ mỉ đếm số vòng
tròn nhỏ có tiếp tuyến trong các vành ở trên mặt trống đồng Ngọc Lũ và thu được
các số liệu sau đây: 112, 147, 207, 248, 322, 336, trong đó các số 112, 147,
322, 336 là bội số của 7. Con số 336 vòng tròn nhỏ là con số chu kỳ năm Mặt
Trăng (theo Âm lịch) quay quanh Mặt Trời: những con số chuẩn xác về quy luật
thiên nhiên này đâu có phải là ngẫu nhiên mà phải là những con số đúc kết từ
trí tuệ tổ tiên chúng ta. Mặt Trời ở giữa mặt trống đồng có 14 tia và số 14
cũng là bội số của 7, đặc biệt là những âm vật, dương vật đan xen chung quanh
tia mặt Trời tượng trưng lẽ sống của tạo vật dưới ánh mặt Trời.
Qua phần dẫn chứng trên, chắc bạn đọc sẽ đặt câu hỏi: căn cứ
vào đâu để những nhà khoa học Văn Lang định vị được chu kỳ năm mặt Trăng quay
quanh mặt Trời? Chắc chắn ở thời kỳ Hùng Vương, ông cha ta đã có một kiến thức
rất sâu sắc về thiên văn học để xác định được chu kỳ vận động của các thiên thể;
không phải chỉ giới hạn ở những hành tinh thuộc Thái Dương Hệ, mà là sự vận động
có thể của phần lớn các ngôi sao trong thiên hà liên quan đến hệ mặt trời. Để bổ
sung cho sự liên hệ giữa khoa thiên văn học hiện đại với văn minh Văn Lang, bạn
đọc tham khảo một hiệu ứng vũ trụ từ sự vận động của các thiên thể đối với con
người. Hiệu ứng này đã được Gs. Lê Văn Sửu phát hiện và nói đến trong cuốn Nguyên
lý thời sinh học cổ Phương Đông (Nxb VHTT 1996), được bổ sung và hiệu chỉnh
lại trong sách này. Đó là vấn đề mà có lẽ các bà mẹ lớn tuổi đều biết về trường
hợp trẻ sinh vào giờ Quan Sát. Hiện tượng này, Gs. Lê Văn Sửu giải thích như
sau.
b. Giờ Quan Sát. Bài ca về giờ sinh phạm giờ Quan Sát như
sau:
Chính, thất, sơ sinh Tỵ, Hợi thì
Nhị, bát Thìn, Tuất bất thậm nghi
Tam, Cửu, Mão, Dậu đinh thượng nhiên
Tứ, Thập Dần, Thân kỷ định kỳ
Ngũ, đồng thập nhất Sửu, Mùi thượng
Lục đồng thập nhị Tý, Ngọ chi,
Nghĩa là: giờ Quan Sát theo tháng Âm lịch và giờ địa chi
Tháng giêng - giờ Tị Tháng bảy - giờ Hợi
Tháng hai - giờ Thìn Tháng tám - giờ Tuất
Tháng ba - giờ Mão Tháng chín - giờ Dậu
Tháng tư - giờ Dần Tháng mười - giờ Thân
Tháng năm - giờ Sửu Tháng mười một - giờ Mùi
Tháng sáu - giờ Tý Tháng Chạp - giờ Ngọ
Người xưa cho rằng trẻ em sinh phạm giờ Quan Sát khi nhỏ thường ốm yếu khó
nuôi, lớn lên thì đầu trộm đuôi cướp. Những bậc làm cha mẹ khi có con sinh giờ
Quan Sát thường vô cùng đau khổ. Theo những điều tôi thâu lượm được bấy
lâu nay thì những trẻ sinh phạm giờ Quan Sát thường có chức năng gan không ổn định,
số lớn dễ bị mắc bệnh viêm gan khi có dịch truyền nhiễm bệnh này. Để tìm hiểu
giá trị thật của giờ Quan Sát ta tiến hành mô hình hóa giờ Quan Sát trong một đồ
như sau. Trong đồ trên chúng ta thấy điểm giờ Tý của tháng đều ở trên quả đất
có hướng đối chiếu với Mặt trời qua tâm quả đất, từ đó theo các tháng vị trí giờ
Quan Sát đều có hướng gần đối chiếu với hướng Bắc của quỹ đạo năm. Như vậy giờ
Quan Sát có giá trị là thời điểm nơi sinh đứa trẻ chịu tác động ảnh hưởng vũ trụ
từ ngoài Mặt trời.
Hình trên đây được thực hiện lại dựa trên ý tưởng của giáo sư
Lê Văn Sửu. Hướng giả định sự vận động của Mặt trời trên quỹ đạo trên thực tế
có thể sai với vị trí tương ứng với bốn mùa, trong sự tương quan trái đất và Mặt
trời. Nhưng dù hướng vận động của Mặt trời theo hướng nào trong vũ trụ, thì vị
trí giờ Quan Sát trên trái đất tương ứng với nhau vẫn không thay đổi so với Mặt
trời. Tức là đường nối từ tâm trái đất với vị trí giờ Quan Sát vẫn tạo thành những
đường thẳng song song như hình vẽ trên. Như vậy, bạn đọc sẽ nhận thấy một hiệu ứng
vũ trụ nào đó, tác động lên con người ở các vị trí giờ Quan Sát.
Qua sự phát hiện của Gs. Lê Văn Sửu và đồ hình trình bày ở trên, chứng tỏ rằng:
nền văn minh cổ Đông phương đã phát hiện hiện tượng trái đất vận động quanh Mặt
trời. mà còn phát hiện ra Mặt trời phải vận động theo một quỹ đạo của nó. Để
nói lên được điều này, những người tiên phong của nền thiên văn học hiện đại đã
phải ra tòa hoặc lên giàn hỏa thiêu. Đó là trường hợp của Galile và Bruno ở nước
Ý vào thế kỉ 15 - 16.
Hiện tượng giờ Quan Sát nêu trên đã chứng tỏ rằng: tri thức của nền thiên văn cổ
Văn Lang về nhiều mặt đã vượt xa khả năng của tri thức thiên văn học hiện đại,
khi xác định một hiệu ứng vũ trụ với đơn vị thời gian nhỏ nhất là giờ ảnh hưởng
đến con người.
Với nhận định trên, có thể lập luận phản bác theo những khả năng sau:
@ Nhận xét cho rằng giờ Quan Sát chỉ là kinh nghiệm dân gian, được đúc kết từ
thực tế cuộc sống.
Đây chỉ là một nhận xét khiên cưỡng. Bởi vì, một hiện tượng xảy ra cho một con
người là kết quả của sự tổng hợp của rất nhiều yếu tố. Mỗi con người có những
hiện tượng giống nhau lại không thể cùng sống trong một thời điểm không gian và
thời gian như nhau. Trong khi đó hiệu ứng vũ trụ này tác động lên cuộc đời của
con người qua đơn vị thời gian nhỏ nhất là giờ; hơn nữa hệ quả của nó lại không
phải chỉ là bệnh viêm gan mà là hành vi của con người.
Nếu như tổng kết hành vi tương tự của con người để dẫn đến một kết luận về sự
trùng hợp trong một số giờ sinh như giờ Quan Sát thì đây là một việc làm không
thể thực hiện được trên thực tế, ở ngay trong xã hội hiện đại với tất cả những
điều kiện huy động được của nhân loại. Kết luận về bệnh viêm gan liên quan đến
giờ Quan Sát của giáo sư Lê Văn Sửu chỉ là sự kiểm chứng một hiện tượng đã có sẵn.
@ Nếu cho rằng đây chỉ là một trò chơi toán học ngẫu nhiên: bắt đầu từ tháng 12
(tháng Sửu) với giờ Ngọ, sau đó cứ lùi một tháng thì lại tiến một giờ (tháng
11 - giờ Mùi)… Cho đến hết 12 giờ. Từ trò chơi ngẫu nhiên này người ta đặt ra
giờ Quan Sát.
Với một lập luận như vậy, chỉ là một dạng cao cấp hơn việc làm một con toán
chia 2622 năm cho 18 đời vua Hùng, ra con số hợn 145 năm và kết luận: không thể
có tuổi thọ sinh học trung bình 145 năm cho đời một con người. Bởi vì, giữa một
trò chơi toán học đơn giản và hệ quả của giờ Quan Sát trên con người lại hoàn
toàn không có một sự liên hệ nào. Trong khi đó hiệu ứng “giờ Quan Sát” đã tồn tại
trong văn minh Đông phương, cụ thể là Việt Nam đã nhiều thế kỷ.
Vì vậy, hiện tượng giờ Quan Sát nêu trên chỉ có thể giải thích một cách hợp lý
là: đó là kết quả của một tri kiến thiên văn siêu việt được kết hợp với sự ứng
dụng phương pháp luận của một lý thuyết vũ trụ quan hoàn chỉnh để lý giải cho
những hiện tượng liên quan đến con người. Hiện tượng này tương tự như việc nền
văn minh hiện đại sử dụng một lý thuyết khoa học để tìm hiểu hoặc lý giải các vấn
đề liên quan.
Qua sự phát hiện của Gs. Lê Văn Sửu đã chứng tỏ rằng: thời Hùng Vương, ông cha
ta đã phát hiện ra không phải chỉ trái Đất vận động quanh mặt Trời, mà còn phát
hiện ra mặt Trời phải vận động theo một quỹ đạo của nó. Không những thế, mà còn
phát hiện được kết quả của sự vận động này, đã tạo ra những hiệu ứng vũ trụ đối
với con người thể hiện ở giờ Quan Sát.
Trên đây chỉ là một thí dụ để thấy rằng: việc khoa học hiện đại phát hiện ra hiệu
ứng vũ trụ từ những vụ nổ của mặt Trời gây ảnh hưởng đến cuộc sống ở trái Đất,
thật sự là khiêm tốn so với kho tàng khoa thiên văn học của thời Hùng Vương.
Khoa học vũ trụ hiện đại có thể ước mơ hàng trăm năm sau sẽ đưa các phi thuyền
tới những ngôi sao cách trái đất hàng chục năm ánh sáng. Cho dù điều viễn tưởng
đó được thực hiện, thì so với việc tìm ra những hiệu ứng vũ trụ ảnh hưởng đến
trái đất và con người - như nền văn minh Văn Lang đã chứng tỏ - vẫn còn là một
ước mơ xa xôi khó thực hiện của khoa học vũ trụ hiện đại. Điều này cũng dễ hiểu,
bởi vì khoa thiên văn học hiện đại chỉ thực sự phát triển khoảng 200 năm nay.
Còn khoa thiên văn của thời Hùng Vương đã có gần 3000 năm khảo nghiệm.
Còn có rất nhiều hiện tượng tương tự như vấn đề của giờ Quan Sát nêu trên. Những
hiện tượng tương tự như vậy, không thể giải thích một cách thô sơ cho đó là do
kinh nghiệm dân gian được. Bởi vì đây là một hiệu ứng vũ trụ được phát hiện ảnh
hưởng đến con người qua một đơn vị thời gian nhỏ nhất là giờ. Với nền khoa học
hiện đại để thống kê và tìm ra một hiệu ứng vũ trụ trên con người trong một đơn
vị thời gian như vậy, có sự hỗ trợ của những máy vi tính hiện đại nhất, cũng phải
mất hàng trăm năm để theo dõi và phải huy động một khối lượng nhân sự rất lớn,
nếu bắt đầu ngay từ bây giờ. Thí dụ này minh họa rõ hơn cho khoảng trống về lý
thuyết cho những phương pháp ứng dụng của học thuyết Âm Dương Ngũ hành và khoa
thiên văn cổ Văn Lang bắt đầu từ Lạc thư - Hà đồ và cũng chứng minh cho sự kết
hợp sức mạnh vũ trụ với tri thức của con người. Tức là sự kết hợp của Rồng -
Tiên đã trình bày ở trên.
Những vấn đề nêu ở trên đã chứng tỏ: tri thức của nền văn minh Văn Lang làm
kinh ngạc những con người ở xã hội hiện đại, đã được rất nhiều học giả trong và
ngoài nước phân tích trong suốt mấy chục năm qua. Nhưng tại sao một nước Văn
Lang có nền văn minh đạt đến đỉnh cao về khoa học kỹ thuật và những giá trị văn
hóa vào thời bấy giờ, đã bị thất bại trước sức tấn công của nhà Ân Thương Trung
Hoa. Điều này có thể lý giải do tổ chức xã hội Văn Lang là một trong những yếu
tố chính dẫn đến sự thu hẹp lãnh thổ dưới thời Hùng Vương thứ VI.
CHƯƠNG III - 2
Hùng Vương gồm hai thành tố. Thành tố Hùng là phiên âm Hán Việt
của một từ Việt cổ nào đó có ngữ âm, ngữ nghĩa gần với Kun, Khun hay Khunzt của
đồng bào các dân tộc anh em như Mường, Thái và Munda - những từ ngữ trên đều có
nghĩa là trưởng, thủ lĩnh hay người đứng đầu (Hùng) của cả nước.
Nhưng thành tố Vương được cho là do các sử gia đời sau thêm
vào một cách tùy tiện.
Người đứng đầu quốc gia không Đế thì cũng Vương mà thôi.
Với cách lý giải chữ Hùng thì có khả năng hợp lý, nhưng cho
chữ Vương là sự gán ghép của đời sau thì khiên cưỡng. Bởi vì hai chữ này: Hùng
(đứng đầu, thủ lĩnh) và Vương (chúa, chúa tể) sẽ loại trừ nhau, nếu chỉ thể hiện
một nghĩa duy nhất là người đứng đầu xã hội. Do đó, việc các sử gia đời sau đặt
chữ Vương bên cạnh chữ Hùng hoàn toàn hợp lý nếu giải thích rằng: Hùng (thủ
lĩnh); Vương (chúa tể) và Hùng Vương có nghĩa là chúa tể của những thủ lĩnh.
Chữ Hùng có ý nghĩa là thủ lĩnh có thể còn một nguyên nhân sau: Hùng là tộc
danh nắm quyền điều hành xã hội Văn Lang. Truyền thuyết “Con Rồng, cháu Tiên”
nói tới việc Tổ Mẫu Âu Cơ đưa người con cả lên làm vua và các người con khác
chia nhau cai trị khắp nơi. Như vậy, đứng đầu 15 bộ đều thuộc những chi khác
nhau của Hùng tộc (cụm từ “Hồng Bàng Thị” phải chăng còn một ý nghĩa khác nữa
là dòng họ hoặc một dân tộc lớn). Bởi vì sự tiếp nối cầm quyền qua hàng ngàn
năm, nên từ Hùng bắt đầu là một danh từ riêng chỉ chi tộc trở thành một danh từ
chung phổ biến để chỉ người đứng đầu mà các dân tộc ít người gọi là Kun, Khun,
Khunzt.
Nhưng dù có cách lý giải thế nào, thì nghĩa chữ Hùng Vương vẫn là chúa tể của
những người đứng đầu. Với ý nghĩa trên thì có thể lý giải thực trạng về tổ chức
xã hội Văn Lang như sau:
Truyền thuyết ghi nhận: khi hình thành xã hội Văn Lang, vua Hùng chia lãnh thổ
thành 15 bộ và cho các em đi cai trị các nơi. Như vậy, mỗi bộ đều do người thuộc
chi tộc Hùng đứng đầu (thủ lĩnh) và những người Việt thuộc sự cai quản của vua
Hùng là nguồn động lực chính trong sự phát triển của những địa phương. Sau đó,
thủ lĩnh của các bộ bầu một người trong số các thủ lĩnh đại diện cho các chi tộc
nắm quyền điều hành chung. Thủ lĩnh của chi tộc được bầu gọi là Hùng Vương. Với
cách lý giải trên thì tổ chức xã hội thời Hùng tương tự như thời Chu thuộc cổ sử
Trung Hoa. Nhưng khác với thời Chu là: ngôi vua nhà Chu là do cha truyền con nối
và là chúa tể của các chư hầu vĩnh viễn. Còn thời Hùng Vương, địa vị chúa tể
thuộc về thủ lĩnh một chi tộc nào đó được bầu lên, tùy theo nhu cầu phát triển
chung mà chi tộc đó có khả năng đáp ứng.
So sánh tước vị trong xã hội Văn Lang và các xã hội khác thuộc cổ sử Trung Hoa,
chúng ta sẽ thấy có sự tương tự: người đứng đầu quốc gia thời Chu xưng Vương,
tương tự với chức danh đứng đầu Văn Lang. Người đứng đầu nước chư hầu thời Chu
xưng Hầu, thí dụ như Tề Hầu, Tấn Hầu... người đứng đầu của các bộ Văn Lang gọi
là Lạc Hầu (sự so sánh này chỉ minh họa cho ý trên). Với giả thuyết này thì những
bộ dưới thời Hùng Vương đều có quyền tự cai trị và quân đội riêng, tương tự như
các chư hầu thời Chu. Do đó, chỉ khi nào có quốc biến mới tập hợp lực lượng dưới
quyền chỉ huy của Hùng Vương để chiến đấu.
Với cách lý giải trên sẽ giải thích tại sao nhà Ân Thương chiến thắng một nước
có nền văn minh phát triển hơn hẳn so với các quốc gia thời cổ. Truyền thuyết
“Phù Đổng Thiên Vương” đã ghi nhận xin tóm lược như sau:
@ “Vào thời Hùng Vương thứ VI, đất nước thanh bình đã lâu nên
nhà vua sao lãng việc phòng thủ...”
@ Hùng Vương cậy nước mình giàu mạnh mà chểnh mảng việc triều cận Bắc phương
(Lĩnh Nam Chích Quái - sách đã dẫn).
@ Lạc Long Quân đã sai Hịch nữ báo trước cho nhà vua về việc ba năm sau nhà Ân
Thương sẽ tấn công Văn Lang. Vua Hùng không tin sai bắt giam Hịch nữ. (Truyền
thuyết Hùng Vương - Thần Thoại Vĩnh Phú, Vũ Kim Biên sưu tầm - Nxb Sở VHTT-TT
Phú Thọ 1997).
Việc cho rằng vua Hùng chểnh mảng việc triều cận Bắc phương
có lẽ là do người đời sau thay đổi ý từ việc không lo phòng thủ. Nhưng dù với ý
nào thì cũng nhằm diễn đạt một ý nghĩa chung nhất là: Vua Hùng không lo phòng bị,
nên khi nhà Ân Thương tập trung quân lực tấn công ồ ạt thì quân lực ở các bộ
không đủ sức chống cự. Và lãnh thổ Văn Lang đã bị thu hẹp như phần trên đã
trình bày.
Khi quân Ân Thương đánh sâu vào lãnh thổ Văn Lang, nhà vua mới cho sứ giả đi
các nơi triệu tập người hiền tài ra giúp nước và đã được Đức Phù Đổng Thiên
Vương hiện thân giúp đỡ. Hình ảnh sứ giả đi tìm người hiền khắp nơi, phải chăng
đó là hình ảnh triệu tập quân đội các bộ còn lại cùng chống giặc (theo giả thuyết
về tổ chức hành chính và quân sự dưới thời Hùng Vương đã trình bày ở trên). Từ
giả thuyết này cũng đặt một vấn đề: thủ đô Văn Lang chưa hẳn đã ở Việt Trì, mà
thay đổi tùy theo chi tộc ở 15 bộ cầm quyền. Việt Trì có thể chỉ là thủ đô cuối
cùng của Văn Lang.
Với giả thuyết về tổ chức xã hội Văn Lang, giải thích sự việc đời Hùng Vương thứ
VII đã thay thế Hùng Vương thứ VI, khi chi tộc này đã gây nên sự thu hẹp lãnh
thổ lần thứ nhất của Văn Lang. Theo truyền thuyết thì vua Hùng thứ VI triệu tập
các con lại tổ chức việc thi tài để truyền ngôi. Nhưng với giả thuyết về tổ chức
xã hội thời Hùng Vương: “Thủ lĩnh các bộ bầu một người trong số các thủ
lĩnh đại diện cho các chi tộc nắm quyền điều hành chung”, “Tùy theo nhu cầu
phát triển chung mà chi tộc đó có khả năng đáp ứng” thì có thể giải thích
đoạn trên của truyền thuyết “Bánh Chưng Bánh Dầy” là một cuộc triệu tập hội đồng
các thủ lĩnh Bách Việt ở các bộ để bầu thủ lĩnh mới. Để minh họa cho giả thuyết
này, xin được trình bày một tư liệu của cụ Biệt Lam Trần Huy Bá. Tư liệu này được
trích dẫn lại trong bài “Văn hóa tâm linh - đất tổ Hùng Vương” của tác giả Hồng
Tử Uyên, trong tạp chí Nguồn Sáng số 23, trong dịp lễ hội giỗ Tổ Hùng Vương
1998. Trong lần tái bản này, người viết cũng căn cứ vào tư liệu đã công bố của
cụ Biệt Lam, để bổ sung những thiếu sót và so sánh những sai biệt trong tư liệu
trích dẫn từ tạp chí “Nguồn Sáng” của lần xuất bản trước):
Từ nhiều năm nay, chúng tôi đã cố gắng sưu tầm các truyền
thuyết thư tịch cổ, các ngọc phả các xã quanh vùng có đền thờ các vua Hùng như
xã Hy Cương (Vĩnh Phú) hiện lưu trữ tại Vụ Bảo Tồn Bảo Tàng, Bộ Văn Hóa (số liệu
HT.AE9) thì các tài liệu này không ghi chép là 18 đời vua Hùng mà lại ghi là 18
chi. Mỗi chi gồm nhiều đời vua, có cả năm can - chi lúc sanh và lúc lên ngôi.
Các đời vua trong một chi đều lấy hiệu của vua đầu chi ấy.
Mười tám chi ấy như sau:
1. Chi Càn: Kinh Dương Vương, húy Lộc Tục, sinh năm Nhâm Ngọ (2919 tr.TL)
lên ngôi năm 41 tuổi, không rõ truyền mấy đời vua ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm
Nhâm Tuất (2879 tr.TL) đến Đinh Hợi (2794 tr.TL). So ngang với Trung Quốc vào
thời đại Tam Hoàng. (?)
2. Chi Khảm: Lạc Long Quân, húy Sùng Lãm, tức Hùng Hiền Vương, sinh năm
Bính Thìn (2825 tr.TL) lên ngôi 33 tuổi, không rõ truyền mấy đời vua. Chi này ở
ngôi tất cả 269 năm, đều xưng là Hùng Hiền Vương, từ năm Mậu Tí (2793 tr.TL) đến
năm Bính Thìn (2525 tr.TL) ngang với Trung Quốc vào thời Hoàng Đế (Ngũ Đế).
3. Chi Cấn: Hùng Quốc Vương, húy Hùng Lân, sinh năm Canh Ngọ (2570 tr.TL)
lên ngôi khi 18 tuổi. Không rõ truyền mấy đời vua đều xưng là Hùng Quốc Vương.
Từ năm Đinh Tỵ (2524 tr.TL) đến năm Bính Tuất ( 2253 trc. Tl) Ngang với Trung
Quốc vào thời Đế Thuấn, Hữu Ngu.
4. Chi Chấn: Hùng Hoa Vương, húy Bửu Lang, không rõ năm sinh, lên ngôi năm
Đinh Hợi (2254 tr.TL) không rõ truyền mấy đời vua đều xưng là Hùng Hoa Vương, ở
ngôi tất cả 342 năm, từ năm Đinh Hợi (2254 tr.TL) đến Mậu Thìn (1918 tr.TL).
Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Quýnh nhà Hạ.
5. Chi Tốn: Hùng Hy Vương, húy Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi (2030 tr.TL) lên
ngôi khi năm 59 tuổi. Không rõ truyền mấy đời vua, đều xưng là Hùng Hy Vương, ở
ngôi tất cả 200 năm, từ năm Kỷ Tỵ (1912 tr.TL) đến Mậu Tí (1713 tr.TL). Ngang với
Trung Quốc vào thời Lý Quý (Kiệt) nhà Hạ.
6. Chi Ly: Hùng Hồn Vương, húy Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu (1740
tr.TL), lên ngôi khi 29 tuổi, truyền hai đời vua, ở ngôi tất cả 81 năm, đều
xưng là Hùng Hồn Vương, từ năm Kỷ Sửu (1712 tr.TL) đến năm Kỷ Dậu (1632 tr.TL).
Ngang với Trung Quốc vào thời Ốc Đinh nhà Thương.
7. Chi Khôn: Hùng Chiêu Vương, húy Quốc Lang, sinh năm Quý Tỵ (1768 tr.TL)
lên ngôi khi 18 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Chiêu Vương, ở ngôi tất
cả 200 năm từ năm Canh Tuất (1631 tr.TL) đến năm Kỷ Tỵ (1432 tr.TL). Ngang với
Trung Quốc vào thời Tổ Ất nhà Thương.
8. Chi Đoài: Hùng Vĩ Vương, húy Vân Lang, sinh năm Nhâm Thìn (1469 tr.TL)
lên ngôi khi 39 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Vĩ Vương, ở ngôi tất cả
100 năm, từ năm Canh Ngọ (1431 tr.TL) đến năm Kỷ Dậu (1332 tr.TL). Ngang với
Trung Quốc vào thời Nam Canh nhà Thương.
9. Chi Giáp: Hùng Định Vương, húy Chân Nhân Lang, sinh năm Bính Dần (1375
tr. TL), lên ngôi khi 45 tuổi, truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Định Vương, ở
ngôi tất cả 80 năm, từ năm Canh Ngọ (1251 tr. TL) đến Kỷ Hợi (1162 tr. TL). Ngang
với Trung Quốc vào thời Tổ Giáp nhà Ân.
10. Chi Ất: Hùng Uy Vương, huý Hoàng Long Lang, sinh năm Giáp Ngọ (1287
tr.), lên ngôi khi 37 tuổi, truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Uy Vương, ở ngôi
tất cả 90 năm, từ năm Canh Ngọ (1251 tr.TL) đến Kỷ Hợi (1162 tr.TL) ngang với
Trung Quốc thời Tổ Giáp nhà Ân.
11. Chi Bính: Hùng Trinh Vương, húy Hưng Đức Lang, sinh năm Canh Tuất
(1211 tr. TL) lên ngôi khi 51 tuổi, truyền 4 đời vua, đều xưng là Hùng Trinh
Vương, ở ngôi tất cả 107 năm, từ năm Canh Tí (1161 tr. TL) đến năm Bính Tuất
(1055 tr. TL) Ngang với Trung Quốc vào thời Thành Vương nhà Tây Chu.
12. Chi Đinh: Hùng Vũ Vương, húy Đức Hiền Lang, sinh năm Bính Thân (1105
tr.TL), lên ngôi khi năm 52 tuổi, truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Vũ Vương ở
ngôi tất cả 96 năm, từ năm Đinh Hợi (1054 tr.TL) đến Nhâm Tuất (969 tr.TL).
Ngang với Trung Quốc vào thời Mục Vương nhà Tây Chu.
13. Chi Mậu: Hùng Việt Vương, húy Tuấn Lang, sinh năm Kỷ Hợi (982 tr.TL)
lên ngôi khi 23 tuổi, truyền 5 đời vua, đều xưng là Hùng Việt Vương, ở ngôi tất
cả 105 năm, từ năm Quý Hợi (958 tr.TL) đến Đinh Mùi (854 tr.TL). Ngang với
Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.
14. Chi Kỷ: Hùng Anh Vương, húy Viên Lang, sinh năm Đinh Mão (894 tr.TL)
lên ngôi khi 42 tuổi, truyền 4 đời vua, đều xưng là Hùng Anh Vương, ở ngôi tất
cả 99 năm, từ năm Mậu Thân (755 tr.TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Bình
Vương nhà Đông Chu.
15. Chi Canh: Hùng Triệu Vương, húy Cảnh Chiêu Lang, sinh năm Quý Sửu (748
tr.TL), lên ngôi khi 35 tuổi, truyền 3 đời vua, đều xưng là Hùng Triệu Vương, ở
ngôi tất cả 94 năm, từ năm Đinh Hợi (754 tr.TL) đến năm Canh Thân (661 tr.TL).
Ngang với Trung Quốc vào thời Huệ Vương nhà Đông Chu.
16. Chi Tân: Hùng Tạo Vương (Thần phả xã Tiên Lát, huyện Việt Yên, tỉnh Hà
Bắc, ghi đời thứ 16 là Hùng Tạo Vương, đóng ở Việt Trì, có thạch tướng quân
đánh tan giặc Man, vua phong làm Chuyển Thạch Tướng Đại Vương - “Người anh hùng
làng Dóng”, Cao Xuân Đỉnh, Nxb KHXH, 1969 tr.126 - 130), húy Đức Quân Lang,
sinh năm Kỷ Tỵ (712 tr.TL) lên ngôi khi 53 tuổi, truyền 3 đời vua, tất cả 92
năm, từ năm Tân Dậu (660 tr.TL) đến Nhâm Thìn (569 tr.TL). Ngang với Trung Quốc
vào thời Linh Vương nhà Đông Chu.
17. Chi Nhâm: Hùng Nghị Vương, húy Bảo Quang Lang, sinh năm Ất Dậu (576
tr. TL), lên ngôi khi 9 tuổi, truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Nghị Vương, ở
ngôi tất cả 160 năm, từ năm Quý Tỵ (568 tr. TL) đến năm Nhâm Thân (409 tr. TL).
Ngang với Trung Quốc vào thời Uy Liệt Vương nhà Đông Chu.
18. Chi Quý: Hùng Duệ Vương, húy Huệ Vương, sinh năm Canh Thân (421
tr. TL), lên ngôi khi 14 tuổi, truyền không rõ mấy đời vua (có lẽ 3 đời), vì ở
đình Tây Đằng, huyện Ba Vì, Hà Nội có bài vị “Tam Vi Quốc Chúa”, ở ngôi tất cả
150 năm, từ năm Quý Dậu (408 tr. TL) đến Quý Mão (258 tr. TL). Ngang với năm thứ
17 đời Uy Liệt Vương, đến năm thứ 56 đời Noãn Vương nhà Đông Chu, Trung Quốc.
Đây là một tư liệu chứng minh cho sự tồn tại trên thực tế thời
Hùng Vương kéo dài 2622 năm (Từ 2879 tr.CN đến 258 tr.CN). Tuy nhiên, như lời
giới thiệu đã trình bày: việc sử dụng tư liệu trong cuốn này, không phải để
minh chứng cho thực trạng xã hội Văn Lang, mà chỉ để minh họa cho giả thuyết được
trình bày, dựa vào sự phân tích những truyền thuyết phổ biến còn lại đến ngày
nay. Trong lần tái bản này, người viết cũng căn cứ vào tài liệu của cụ Trần Huy
Bá, bổ sung thêm chi thứ 10 của “ Ngọc phả Hùng Vương“.
Như vậy, với giả thuyết về tổ chức xã hội thời Hùng Vương dẫn đến việc thay đổi
cụm từ đã sai lệch với thời gian là “18 đời Hùng Vương”, trở về với đúng nghĩa
của nó là “18 Thời Hùng Vương”. Cụm từ này tự nó đã giải thích cho sự
tồn tại gần 3000 năm cho xã hội Văn Lang một cách hoàn toàn hợp lý và giải quyết
được mâu thuẫn về niên đại của thời Hùng Vương kéo dài gần 3000 năm với tuổi
sinh học của 18 đời Hùng Vương như trước đây đã quan niệm.
Với giả thuyết cho rằng “18 Thời Hùng Vương” liên tiếp trị vì đất nước
gần 3000 năm, sẽ giải thích được việc thờ 18 vị vua Hùng là tổ tiên người Việt.
Do tục thờ tổ tiên chỉ thờ một người khai sáng đầu tiên, không thể thờ 18 đời nối
tiếp đều là Tổ. Nhưng với 18 thời Hùng Vương thì việc thờ 18 vị vua khai sáng đầu
tiên của 18 thời Hùng Vương có công phát triển và ổn định đất nước là hợp lý. Đồng
thời cũng giải thích luôn việc 18 chi của họ Hồng Bàng thay nhau cầm quyền trên
đất nước Văn Lang, quốc gia đầu tiên của người Lạc Việt mà tư liệu của cụ Biệt
Lam Trần Huy Bá đã nói tới. Đây cũng là một chi tiết trùng hợp với truyền thuyết
“Con Rồng Cháu Tiên”: vua Hùng chia các em đi cai trị khắp nơi, tức là thủ lĩnh
các bộ đều thuộc các chi của Hùng tộc.
Như vậy, với giả thuyết về tổ chức xã hội Văn Lang thì đó là một nhà nước có ý
nghĩa về mặt lãnh thổ và sự đồng nhất về văn hóa, chính trị hơn là một nhà nước
có quyền lực tập trung về mọi mặt như thời Tần - Hán ở bên Trung Quốc, hoặc như
các nhà nước phong kiến của Việt Nam thời hưng quốc như Đinh, Lê, Lý, Trần...
Hồng phạm cửu trù - Bản hiến pháp cổ nhất của dân Lạc Việt
Hồng phạm cửu trù là một trong 58 thiên còn sót lại của kinh
Thư và là một thiên quan trọng được coi là “... giàu tính lý luận nhất, biểu
hiện tương đối đầy đủ hệ thống lý luận, chính trị nhà Nho.” (Kinh Thư diễn
nghĩa - Lê Quý Đôn - Nxb T/p Hồ Chí Minh 1993 - Dịch giả: Ngô Thế Long, Trần
Văn Quyền). Từ hơn 2000 năm nay các nhà nghiên cứu lịch sử, lý học Đông phương
đều cho rằng Hồng phạm cửu trù là trước tác của vua Đại Vũ. Cổ thư Trung Hoa viết:
khi vua Đại Vũ đi trị thủy, đến sông Lạc gặp một con rùa thần nổi lên. Trên mai
rùa có những vòng tròn đen, trắng gọi là Lạc thư (sách ở sông Lạc). Ngài bèn dựa
vào đó trình bày 9 phạm trù lớn (tức Hồng phạm cửu trù) rồi diễn giải 9 phạm
trù đó để lưu truyền cho đời sau. Khi Vũ Vương (Chu Vũ Vương - người viết) đã
đánh được nhà Thương, đến hỏi đạo trời ở Cơ Tử. Cơ Tử bèn đem đạo trời đó báo
cho Vũ Vương.
Trong Hồng phạm cửu trù có những chi tiết khiến cho người đọc cảm tưởng hoàn
toàn thuộc về trước tác của nền văn minh Hoa Hạ và không thuộc về Văn Lang. Những
đoạn sau đây thuộc trù thứ 3: “Bát Chính” trong Hồng phạm (Lịch sử triết học
phương Đông - Nxb T/p Hồ Chí Minh - sách in lần thứ hai của Gs. Nguyễn
Đăng Thục):
... Ví như ông Nghiêu nhường ngôi cho ông Thuấn dặn dò ngay:
“Thiên chi lịch số tại nhĩ cung. Doãn chấp quyết trung (162b) = cái lịch trình
vận hành thứ tự của vũ trụ thì ở tại nơi bản thân mi. Hãy nắm giữ lấy cái trung
tâm ấy”
Vua Thuấn cũng lấy lời ấy bảo ông Vũ: “Thuấn diệc dĩ mệnh Vũ”
(Hồng Phạm)
Nhưng trong sách Luận ngữ cũng có câu này (Đại cương triết học
Trung Quốc - sách đã dẫn):
Theo sách Luận ngữ (Thiên Nghiêu viết) thì hai chữ “chấp
trung” (giữ đạo trung) xuất hiện từ đời vua Nghiêu. Vua Nghiêu truyền cho vua
Thuấn như sau:
“Này Thuấn ơi, số trời đã ở tại thân anh (nghĩa là trời đã cho anh trị dân) thì
anh nên tin chắc mà giữ lấy đạo trung (để cho dân trong bốn bể được thái bình);
nếu dân trong bốn bể mà khốn cùng thì cái lộc trời cho anh sẽ mất luôn đấy. Vua
Thuấn cũng lấy lời đó truyền lại cho vua Vũ”. (Thiên Nghiêu viết: Tư nhĩ Thuấn,
thiên chi lịch số tại nhĩ cung, doãn chấp kỳ trung; tứ hải khốn cùng, thiên lộc
vĩnh chung. Thuấn diệc dĩ mệnh Vũ).
Không biết truyền thuyết đó có đúng không; điều chắc chắn là người đề cao đạo
Trung Dung là Khổng tử. Đạo có truyền do Tăng tử nên được chép trong Luận ngữ,
rồi Tăng tử lại truyền cho Khổng Cấp tức Tử Tư (cháu đích tôn của Khổng tử),
sau cùng Mạnh tử bàn cho rộng thêm.
Tư Mã Thiên trong bộ “Sử ký” bảo rằng sách Trung Dung do Tử Tư viết và các học
giả đời sau đều tin như vậy. Nhưng gần đây, một số học giả xét nội dung hiện
nay của sách đó ngờ rằng nếu có thực là do Tử Tư chép thì cũng có một số triết
gia ở thời Chiến quốc và đầu đời Hán sửa đổi khuếch sung thêm và phần sau của
sách bàn về đức thành nhất định không phải là của Tử Tư.
Như vậy, trong Luận ngữ thì vua Thuấn truyền cho vua Vũ đạo
Trung Dung nhưng trong Hồng phạm thì để chỉ nắm lấy lịch số - thật là khó hiểu.
Để bạn đọc tiện việc tham khảo và minh xác quan niệm cho rằng: “Hồng phạm cửu
trù” là trước tác của người Lạc Việt, xin được trích lại phần: “Tóm tắt thiên Hồng
Phạm trong chính văn kinh Thư” (bản tóm tắt này do dịch giả cuốn Kinh Thư diễn
nghĩa, sách đã dẫn, thực hiện):
Tóm tắt thiên Hồng phạm cửu trù trong chính văn kinh Thư:
A. Theo lời văn Hồng phạm nói: “Vũ Vương đánh thắng nhà Ân giết vua Trụ mời
Cơ tử về làm ra thiên Hồng phạm” - và lời Cơ tử nói: “Trời cho vua Vũ có Hồng
phạm cửu trù” thì:
1- Hồng phạm là sách trời cho vua Vũ (do trị thủy bắt được con rùa, trên mai
có ghi rõ?)
2- Sách ấy có 9 “trù” (nói theo ngày nay: là 9 loại, hay 9 khái niệm bao quát
nhất, cũng có thể gọi là phạm trù [Cathégori])
3- Nội dung của 9 phạm trù đó là khái quát toàn bộ học thuyết về chính trị, về
quản lý xã hội của đời Ân Thương.
B. Nội dung cụ thể của từng “trù” như thế nào?
1- Ngũ hành: (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ): đó là khái quát (gọi gộp) các vật
liệu mà dân phải dùng đến hay là những đối tượng con người phải chinh phục.
2- Ngũ sự (Mạo, Ngôn, Thị, Thính, Tư)
Mạo: dung mạo - phải luôn cung kính
Ngôn: lời nói - phải theo lẽ phải
Thị: mắt trông - phải sáng suốt
Thính: tai nghe - phải rõ ràng
Tư: suy nghĩ - phải sâu sắc
Tóm lại: 5 cử chỉ đó là con người có tài, khôn ngoan sáng suốt.
3- Bát chính: (Tám vấn đề chính sự phải lo làm)
a) Thực: cái ăn uống của người dân
b) Hóa: tiền của xã hội
c) Tự: việc tế tự
d) Tư không: việc công chính
e) Tư đồ: việc giáo dục
f) Tư khấu: việc an ninh
g) Tân: việc ngoại giao
h) Sự: việc quân sự
4- Ngũ kỷ gồm: năm, tháng, ngày, tinh tú, lịch số. Tóm lại là vấn đề
thiên văn và chế tạo lịch để có căn cứ điều hành các việc hành chính và nông
nghiệp.
5- Hoàng cực: Ngôi vua
Người làm vua phải dựng nên mực thước cho dân theo. Mực thước ấy là:
- Không thiên lệch, không bè đảng.
- Ai có mưu hay, có công lao thì vua phải nhớ.
- Ai chưa thánh thiện, nhưng không tội lỗi thì vua cũng thu dùng.
- Ai thực thành đức tốt thì vua cho tước lộc.
- Không bắt nạt người cô độc, yếu thế, nếu họ lương thiện thì nên khuyến khích.
- Kẻ có chức vị mà bất thiện thì răn bảo, đừng nể nang.
- Khuyến khích người tài làm việc thì nước được thịnh vượng.
- Người giàu thì khuyến khích họ làm điều từ thiện.
- Không ban bổng lộc cho bọn bất lương.
Tóm lại: đó là lẽ “Công bằng chính trực” mà vua phải theo và cũng là việc người
lãnh đạo phải làm - mà làm như thế là theo ý trời.
6- Tam đức: (ba cách đối xử) ngay thẳng, cương, nhu.
- Bình thường thì đối xử thẳng thắn.
- Gặp kẻ cương ngạnh thì phải cứng rắn.
- Đối với bậc cao minh hay kẻ ôn hòa thì phải “nhu”.
Bổ sung thêm: Vua nắm quyền tối cao, toàn diện - chỉ có vua mới được làm oai
ban phúc (cương nhu). Chỉ có vua có quyền, kể cả quyền cắt đứt sinh mạng con
người. Chỉ vua mới được dùng đồ ăn ngon, bầy tôi thì không được. Nếu bầy tôi và
dân thường cũng tự do cho mình có quyền đó thì rối loạn (phần bổ sung này
do người dịch hoặc tác giả thêm vào, không phải chính văn Hồng Phạm - người viết).
7- Kê nghi: vấn đề bói (để biết ý trời và giải quyết khi có sự hổ nghi do
dự. Đây là biện pháp làm việc thời cổ. Các cách bói; việc hỏi ý kiến đa số
(quan và dân).
8- Thứ trưng: các “điềm trời”
- Mưa nhiều: vua làm việc rồ dại
- Nắng nhiều đại hạn: vua sai lầm
- Nóng nhiều: lười biếng
- Rét nhiều: làm việc tính cách nóng nảy
- Gió nhiều: ngu tối
Ngược lại: nghiêm trang, sáng suốt, chính sự tốt thì mưa gió phải thì v.v...
(đây là tư tưởng siêu hình).
9- Ngũ phúc và lục cực:
Ngũ phúc là kết quả tích cực của đạo đức và chính trị, còn lục cực là kết quả của
tiêu cực của cái đó.
- Ngũ phúc gồm: thọ (sống lâu), phú (giàu), khang ninh (mạnh khỏe), du hảo đức
(đức tốt), khảo chung mệnh (sống thoải mái đến già).
- Lục cực (6 điều khổ cực gồm):
1. Hung đoản: (chết) tử nạn, chết non.
2. Tật: bệnh
3. Ưu: buồn
4. Bần: nghèo
5. Ác: ác nghiệt, xấu
6. Nhược: yếu, nhu nhược
Qua phần tóm tắt trên thì trù thứ nhất trong Hồng phạm cửu
trù là Ngũ hành. Chính vì Hồng phạm cửu trù được gán ghép cho vua Đại Vũ với dấu
ấn của Ngũ hành nên đã được coi như một bằng chứng chứng tỏ thuyết Ngũ hành do
vua Đại Vũ - vị vua đầu tiên khai sáng nhà Hạ - phát hiện và thuộc về nền văn
minh cổ Trung Hoa. Nhưng Ngũ hành trong Hồng phạm cửu trù chỉ xuất hiện như một
hiện tượng, không phải là một học thuyết.
Như phần trên đã chứng minh ở chương I: thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về nền
văn minh Văn Lang đã phát hiện ngay từ buổi đầu lập quốc và Lạc thư - Hà đồ
chính là những tiền đề đầu tiên khởi nguyên cho nền văn minh Văn Lang kỳ vĩ. Sự
gán ghép khiên cưỡng Hồng phạm cửu trù với dấu ấn của Ngũ hành cho vua Đại Vũ
đã chứng tỏ tính phi lý của nó: Vua Đại Vũ không phát hiện ra thuyết Ngũ hành,
vì sự vận động của nó vốn có ngay trong Lạc thư - Hà đồ vốn là nguyên lý căn bản
của thuyết Âm Dương Ngũ hành ứng dụng trong việc quan sát thiên văn, thì ngài lại
không phát hiện ra điều đó; mặc dù theo truyền thuyết thì vua Đại Vũ phát hiện
ra Lạc thư và Hồng phạm cửu trù. Ngược lại, Ngũ hành trong Hồng phạm cửu trù chỉ
là sự ứng dụng của nó trong việc điều hành đất nước thì lại được coi là bằng chứng
của sự phát hiện ra học thuyết này. Trường hợp phi lý trên xin được minh họa rõ
hơn là: người ta đã sử dụng chiếc bằng lái xe để chứng tỏ sự phát minh ra cái
xe. Đây cũng là trường hợp của vua Phục Hy khi truyền thuyết cho rằng ngài đã dựa
vào Hà đồ để làm ra Bát quái với vạch đứt là Âm, vạch liền là Dương. Nhưng Âm
Dương Ngũ hành nằm ngay trong độ số của Hà đồ với sự vận động vi diệu, thì ngài
lại không nói đến điều đó, mà phải đợi đến gần 3000 năm sau – đến thời Khổng tử
– mới đưa ra ý niệm mơ hồ về Âm Dương? Hơn nữa, nếu quả thật Ngũ hành có từ thời
vua Đại Vũ và đã từng được ứng dụng trong việc điều hành xã hội, thì thật là vô
lý khi hơn 1000 năm sau đó, các học giả thời Xuân Thu – Chiến quốc lại không hề
có trước tác nào nói về Ngũ hành, kể cả ngài Khổng tử.
Về xuất xứ mơ hồ của Hồng phạm cửu trù trong truyền thuyết Trung Hoa, đã chứng
tỏ sự gán ghép khiên cưỡng trước tác này cho vua Đại Vũ. Nếu như Lạc thư được
ghi trên lưng con rùa nổi ở sông Lạc, mặc dù đã mơ hồ nhưng còn có địa điểm.
Còn đối với con rùa bắt được trên lưng ghi Hồng phạm cửu trù thì không biết ở
đâu?
Việc Cơ tử nói vua Vũ Vương: Trời cho vua Vũ (Đại Vũ) Hồng phạm cửu trù, tức
là vua Vũ không phải là người trước tác ra nó.
Tương truyền kinh Thư (gồm Hồng phạm cửu trù) do Khổng An Quốc cháu 12 đời của
Khổng tử viết lại vào thời Hán Cảnh Đế, trên cơ sở một cuốn kinh Thư viết bằng
cổ văn trong vách nhà của Khổng tử, như đã trình bày ở phần trên. Như vậy, cuốn
kinh Thư này đã viết lại trên cơ sở chắp vá những tư liệu cổ còn sót lại và gán
ghép một cách khiên cưỡng.
Những học giả hiện đại của Trung Quốc trong những công trình nghiên cứu của họ,
như Phùng Hữu Lan đã viết:
[1968 - 141] “Về thời đại thật của thiên Hồng phạm cửu trù
thì khoa học hiện đại có ý đặt vào thế kỷ thứ IV hay thứ III Tr.CN” tức là thời
điểm muộn lắm rổi”. (Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam – sách đã dẫn).
Thời điểm mà ông Phùng Hữu Lan nói tới, tương đương với thời
điểm tướng Đồ Thư của nhà Tần tấn công Bách Việt và sự diễn biến của thời gian
lịch sử sau đó là Văn Lang - Âu Lạc mất nước. Với thời điểm nói trên thì Hồng
phạm cửu trù không có cơ sở tồn tại trên thực tế lịch sử Trung Hoa, như là một
chính sách chủ đạo được thực hiện để điều hành xã hội. Vào thế kỉ thứ IV và thứ
III Tr.CN, nước Trung Hoa bước vào giai đoạn cuối thời kỳ Chiến quốc với những
cuộc chiến đẫm máu và tàn khốc để tranh giành quyền lực, chiến thắng cuối cùng
thuộc về Tần Thủy Hoàng. Lịch sử Trung Quốc trước và sau thời gian đó, cũng
không hề ghi nhận một triều đại nào ứng dụng Hồng phạm cửu trù vào việc điều
hành đất nước. Tất cả những sự phi lý và mâu thuẫn đã trình bày ở trên, đã chứng
tỏ: Hồng phạm cửu trù thuộc về trước tác của người Lạc Việt qua dấu vết của Ngũ
hành. Từ thuyết Âm Dương Ngũ hành đã dẫn đến việc tìm hiểu sự vận động của vũ
trụ mà tiền đề của nó là Lạc thư - Hà đồ cửu cung. Sự sắp xếp cửu trù theo cửu
cung Lạc thư, đã khẳng định thuyết Âm Dương Ngũ hành là học thuyết chính thống
của Văn Lang thể hiện ở bánh Chưng – bánh Dầy và sự ứng dụng những quy luật vũ
trụ trong việc điều hành đất nước. Đó là lý do trù thứ nhất, khởi nguyên của Hồng
phạm cửu trù thể hiện Ngũ hành. Mười lăm bộ của đất nước Văn Lang mà truyền
thuyết nói đến chính là tổng độ số cộng ngang dọc chéo của cửu cung Lạc thư, chứng
tỏ điều này.
Nội dung Hồng phạm cửu trù được gắn liền với hình ảnh con rùa, bởi vì thời đó
ông cha ta đã viết trên mai con rùa những văn bản quan trọng (“giống rùa lớn chỉ
ở miền Nam sông Dương Tử mới có”. Xin xem thêm phần: “Phương tiện
chuyển tải chữ viết của nền văn minh Văn Lang” - chương IV: Truyền thuyết
Trầu Cau). Có thể khi nhà Ân Thương lấn chiếm những phần đất của Văn Lang đã lấy
được những mai rùa này; hoặc do chính nhà Tần (hay Hán) khi đánh chiếm Bách Việt
đã lấy được, nên sau đó người Trung Hoa đời sau đã sử dụng từ khi Văn Lang - Âu
Lạc mất nước (có thể đây chính là nguyên nhân để các nhà nghiên cứu Trung Hoa
cho rằng: Hồng phạm cửu trù xuất hiện vào thế kỷ thứ III tr.CN).
Hồng phạm cửu trù đúng với nghĩa của từ này là: những quy định của họ Hồng Bàng
với chín mục đích phải đạt tới trong việc điều hành đất nước. Chỉ có họ Hồng
Bàng - hoàng tộc lãnh đạo đất nước Văn Lang - với thuyết Âm Dương Ngũ hành được
coi là hệ tư tưởng chính thống, mới đủ tư cách coi Hồng phạm cửu trù là hình
thái ý thức chủ đạo trong việc hoàn chỉnh chính sách thuộc lĩnh vực chính trị
xã hội.
Hồng phạm cửu trù được chứng tỏ là trước tác của các học giả Lạc Việt bổ sung
cho giả thuyết về tổ chức xã hội Văn Lang. Theo giả thuyết này: Người lãnh đạo
tối cao (Hùng Vương) do hội đồng thủ lĩnh bầu lên, thì tất nhiên phải có những
phạm trù làm chuẩn mực cho vai trò chúa tể của các thủ lĩnh với những công việc
phải làm. Dấu ấn của Hồng phạm cửu trù còn được nhắc tới trong một truyền thuyết
nổi tiếng từ thời Hùng Vương là “Sơn Tinh Thủy Tinh”. (xin được chứng tỏ ở
chương VIII).
Một dấu chứng nữa khẳng định Hồng phạm cửu trù là trước tác chính trị thuộc văn
minh Văn Lang chính là dấu ấn của ngôi Hoàng Cực - ngôi thủ lĩnh tối cao - nằm ở
trung cung thuộc hành Thổ, sắc vàng trong Hà đồ cửu cung với độ số là 5 - 10
(xin xem hình vẽ sau) đó chính là ngày giỗ Tổ Hùng Vương của người Lạc Việt.
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười, tháng ba
Tháng ba là tháng Thìn - Rồng, thể hiện sức mạnh vũ trụ, biểu
tượng của vương quyền, chính là tháng thứ 5 kể từ tháng Tý (bắt đầu từ tháng 11
năm trước, tính theo Âm lịch) ứng với độ số Dương 5 trong Hoàng Cực. Ngày 10 ứng
với độ số Âm 10 trong Hoàng Cực. Xin xem đồ hình minh họa dưới đây:Ngày là con của Tháng. Tháng có trước thuộc Dương, Ngày có
sau thuộc Âm. Bởi vậy, lấy số Dương 5 làm tháng (tháng Ba là tháng thứ năm, kể
từ tháng Tý), lấy số Âm 10 làm ngày. Độ số 5,10 thuộc trung cung Hoàng Cực của
Hà đồ làm biểu tượng của vương quyền. Đó là nguyên lý của ngày giỗ tổ Hùng
Vương.
Ngày giỗ Tổ liên quan đến tháng Thìn - Rồng, còn chứng tỏ: Rồng, biểu tượng của
vương quyền có xuất xứ từ nền văn minh Văn Lang, chứ không phải từ nền văn minh
Trung Hoa. Có thể nói rằng dân tộc đầu tiên trong cổ sử nhân loại dùng hình ảnh
Rồng làm biểu tượng cho quyền lực tối cao là người Lạc Việt. Lạc Long Quân có
nghĩa là vua Rồng Lạc Việt - lãnh tụ nước Xích Quỷ - tiền thân của quốc gia Văn
Lang, quốc gia đầu tiên của người Lạc Việt có cách đây hơn 5000 năm, tổ tiên của
dân tộc Việt Nam hiện nay. Rồng không những là một biểu tượng của điềm lành mà
còn là biểu tượng của Hoàng đế đầu tiên lập quốc của dân tộc Việt.
Trong những cổ thư của Trung Hoa trước Hán, không thấy một vị Hoàng đế nào sử dụng
Rồng làm biểu tượng. Có lẽ cuốn sách xưa nhất nhắc đến biểu tượng Rồng thuộc về
nhà vua là Sử ký của Tư Mã Thiên - Tần Thủy Hoàng bản kỷ - trong đoạn trích dẫn
sau đây:
“Mùa thu, sứ giả đang đêm từ Quan Đông đi qua Hoa Âm, trên đường
Bình Thư. Có người cầm ngọc bích chặn đường sứ giả mà nói:
- Ông làm ơn đưa viên ngọc này cho Hạo Trì.
Nhân đấy nói rằng: năm nay thì Tổ Long chết.
Sứ giả hỏi: Tại sao?
Người ấy biến mất. Để lại viên ngọc bích ở đấy. Sứ giả cầm ngọc bích kể lại đầu
đuôi cho người ta nghe, Thủy Hoàng nín lặng hồi
lâu nói:
- Quỷ núi chẳng qua chỉ biết việc xảy ra trong một năm mà thôi.
Khi vào cung nói:
- Tổ Long (*) đó là tổ tiên của người.
Chú thích: (*) Tổ là đầu cũng như thủy. Long chỉ
nhà vua. Tổ Long cũng như Thủy Hoàng.
Như vậy cho đến đời nhà Tần, Rồng chưa phải biểu tượng của
vương quyền. Việc gọi “Tổ Long” để chỉ Tần Thủy Hoàng, xuất phát từ ý tưởng
trong dân gian qua nhân vật “Quỷ núi”. Có thể nói rằng: các hoàng đế Trung hoa
sử dụng Rồng làm biểu tượng, rất muộn sau Tần.
Qua phần chứng minh trên đã chứng tỏ: Hồng phạm cửu trù chính là bản hiến pháp
đầu tiên của người Lạc Việt. Sự chứng minh này cũng chứng tỏ Văn Lang là một quốc
gia hoàn chỉnh với tất cả những yếu tố của nó.
CHƯƠNG III - 3
Bởi vì: khi con người đã biết sử dụng kim loại và là nhu cầu phổ biến, thì
không thể nơi nào cũng có những khoáng sản và điều kiện sản xuất để phục vụ cho
nhu cầu như nhau. Do đó bắt buộc phải hình thành sự phân công lao động xã hội
theo đặc điểm tài nguyên của từng vùng. Hơn nữa, kỹ thuật đúc đồng đã đạt đến một
trình độ rất cao, vì vậy cũng phải có thợ chuyên nghiệp (cho dù là đúc một cái
trống đồng thô sơ nhất, trong số những trống đồng đã được tìm thấy, cũng đòi hỏi
tay nghề cao ở ngay trong xã hội hiện đại). So với thời kỳ con người chỉ
sử dụng thực phẩm hái lượm và săn bắt, thì mỗi bộ lạc đều có thể tạo ra một cuộc
sống khép kín. Nhưng chỉ cần một xã hội nông nghiệp được hình thành, có nhu cầu
phổ biến về sử dụng kim loại để tạo ra những công cụ sản xuất và những sản phẩm
tiêu dùng khác, thì đã tạo ra sự phân công lao động trên quy mô toàn xã hội và
trao đổi sản phẩm phức tạp. Đặc biệt là với trống đồng có giá trị rất lớn, đoạn
trích sau đây chứng tỏ điều này:
Sách Dị Lâm của Trung Quốc chép: “Tục người Di (Man Di - người
viết) rất chuộng trống đồng... bọn thổ hào, phú gia tranh nhau mua rất đắt, đến
trăm con bò cũng không tiếc”; sách Trinh Tràng Tiểu Phẩm nói: “Các trống đồng của
người Man... đổi được hàng ngàn con bò, kém cũng phải bảy, tám trăm con (xem
Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn 1960:229)... (Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam -
sách đã dẫn)
Như vậy, qua đoạn trích dẫn trên, bạn đọc cũng nhận thấy rằng:
để đổi lấy một cái trống đồng, cần số lượng trâu bằng cả một huyện, ở ngay thời
nông nghiệp hiện đại đầu thế kỷ 20 thì không thể là một thực tế trao đổi, mà chỉ
là sự đánh ngang giá trị. Do đó, người ta không thể trao đổi giá trị bằng hàng
hóa một cách trực tiếp, khi không có tín vật trung gian để định giá trị vật
trao đổi. Vì vậy, chính những nhu cầu xuất hiện trong quá trình phát triển kinh
tế và quan hệ xã hội, trong xã hội Văn Lang phải hình thành một loại tín vật dưới
một hình thức và khái niệm nào đó tương tự như “tiền” ngày nay. Trên thực tế,
các quốc gia thuộc thời đại đồ đồng trên thế giới, ngành khảo cổ học hiện đại
đã chứng tỏ được rằng: đều là những quốc gia có nền thương mại phát triển,
đương nhiên đều phải sử dụng tín vật trung gian để trao đổi hàng hóa. Thời đại
Hùng Vương với nền văn minh chính thống, mà tất cả các quan niệm khác nhau về thời
đại này đều thống nhất ở điểm ít nhất là đã bước vào thời đại đồ đồng. Do đó,
hoàn toàn có thể khẳng định rằng: trong xã hội Văn Lang ít nhất vào thời Hùng
Vương thứ VI, ông cha ta đã sử dụng tiền hoặc một cái gì đó tương tự, trong việc
trao đổi sản phẩm.Hai mặt trống đồng trên đây được chép lại từ cuốn Tìm về
bản sắc văn hóa Việt Nam (sách đã dẫn - trang 128) - phải chăng có thể
minh họa cho việc sử dụng tiền dưới thời Hùng Vương.
Những chi tiết trên trống đồng nằm trong vòng tròn có mũi tên chỉ là những hình
vuông lỗ tròn và hình tròn lỗ vuông, đã có nhận xét rằng đó là sự thể hiện đồng
tiền cổ Việt Nam. Nhưng giáo sư tác giả cuốn sách lại cho rằng: đó là biểu tượng
của Âm Dương. Nhận xét hình vuông và hình tròn là tượng của đồng tiền thời Hùng
Vương thì cũng chưa thể chắc chắn, nhưng có khả năng đúng (để tìm ra việc sử dụng
tiền cụ thể như thế nào, còn tùy thuộc vào việc có tư liệu hoặc di vật chứng
minh). Nhưng cho rằng đó là biểu tượng của Âm Dương thì có thể khẳng định rằng:
đó là một sai lầm. Bởi vì Âm Dương có tính bao trùm, bất cứ sự vật sự việc, hiện
tượng nào cũng thể hiện sự hiện diện của ý niệm này. Do tính bao trùm đó, nên
khi thể hiện thuyết Âm Dương dưới bất cứ một biểu tượng nào, bao giờ cũng ở vị
trí trung tâm hoặc cao nhất; thí dụ như cặp rồng ở nóc đình đền, hoặc biểu tượng
Âm Dương trong Bát quái... Vì vậy, hình vuông tròn trên trống đồng - mặc dù có
tượng của Âm Dương - nhưng không thể coi là nhằm thể hiện Âm Dương. Về mặt văn
bản thì chính trong Hồng phạm cửu trù - bản hiến pháp cổ nhất của người Lạc Việt
- đã nói đến trong trù thứ 3, Bát Chính phần hai: Hóa tức là tiền của
xã hội. Chữ “hóa” theo tiếng Việt cổ còn có nghĩa là sự chuyển đổi; trong dân
gian Việt Nam còn dùng chữ “Hóa vàng” (đốt vàng mã), “hóa kiếp”, “hóa thân”...
Cho đến hôm nay, mặc dù khoa khảo cổ học chưa hề tìm thấy một dấu vết gì nhằm
chứng tỏ sự tồn tại của tiền nong, hoặc một dạng tín vật nào đó tương tự như tiền
ở thời Hùng Vương. Nhưng cho dù có thể hoặc không bao giờ tìm thấy một di vật
khảo cổ nào; nhưng những tiền đề trong xã hội Văn Lang để xuất hiện việc sử dụng
một dạng tín vật tương tự như tiền hoàn toàn đầy đủ. Như vậy, hoàn toàn có thể
kết luận về khả năng sử dụng tiền tệ đã xuất hiện dưới thời Hùng Vương.
Hình phụ chương di vật đời Ân ThươngPhải chăng đây chính là những di vật mà học giả Nguyễn Hiến
Lê đã nói trong cuốn Sử Trung Quốc của ông:
Những hình người mặt rộng, tròn, mũi tẹt thuộc giống người
Mélanésie Đông Nam Á.
Tháng 1/1999
Nguyễn Vũ Tuấn Anh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét