Thời Hùng Vương
qua truyền thuyết và huyền thoại 2
CHƯƠNG 4
Trong “Trầu Cau”, niên đại ghi nhận vào thời thượng cổ, nhưng lại nhắc
tới vua Hùng. Do đó, có thể khẳng định rằng: Khi người Việt dùng trầu cau thì
trầu cau đã có trước thời Hùng Vương thứ VI và sau Hùng Vương thứ I. Trầu Cau một
nghi thức trong giao tiếp của người Việt thời Hùng Vương, có trước bánh Chưng
bánh Dầy mà dấu ấn còn để lại đến tận bây giờ, chính là thói quen ăn trầu còn
tương đối phổ biến trong người Việt hiện nay. Lâu lâu chúng ta vẫn gặp những
đám cưới dùng lá trầu, quả cau biểu tượng cho sự nồng thắm của tình người, theo
truyền thống của ông cha xưa. Cũng như “bánh Chưng bánh Dầy”, “Truyền
thuyết Trầu Cau” may mắn còn di chứng đến tận bây giờ.Như phần trên đã minh chứng: xã hội Văn Lang đã phát triển với
những mối quan hệ xã hội phức tạp. Đó là tiền đề để phát triển nhu cầu về hình
thái ý thức trong những mối quan hệ xã hội. Những hình thái ý thức trong quan hệ xã hội được thể hiện bằng những giá trị đạo
đức, nghi lễ, thứ bậc trong gia đình và xã hội với những phong tục tập quán
mang bản sắc văn hóa của thời Hùng Vương đã được thể hiện trong “Truyền
thuyết Trầu Cau”. “Truyền thuyết Trầu Cau” có rất nhiều chi tiết liên
quan đến những vấn đề cần chứng minh. Do đó, để tiện cho bạn đọc theo dõi những
vấn đề được đặt ra và minh chứng thực trạng xã hội Văn Lang qua “Truyền
thuyết Trầu Cau”, xin chép lại toàn bộ truyền thuyết này.“Truyền thuyết Trầu Cau” được chép sau đây trích từ trong cuốn Lĩnh Nam
Chích Quái (sách đã dẫn) - có kèm theo phần chú thích của dịch giả.Truyền thuyết Trầu CauThời thượng cổ có một vị quan lang (1) sức vóc cao lớn, nhà
vua ban tên là Cao cho nên lấy Cao làm họ. Cao sinh hạ được hai người con trai,
con cả tên là Tân, con thứ tên là Lang (2). Hai anh em giống nhau như đúc,
trông không thể phân biệt nỗi. Đến năm 17-18 tuổi, cha mẹ đều từ trần, hai
anh em đến theo học đạo sĩ Lưu Huyền (3).
Nhà họ Lưu có người con gái tên là Liên, tuổi cũng khoảng 17 - 18. Hai anh em
thấy nàng thì rất vừa ý, muốn kết làm vợ chồng (4). Nàng chưa biết người nào là
anh, mới bày một khay cháo và một đôi đũa cho hai anh em ăn. Người em nhường
cho anh ăn trước, nàng mới phân được ai là anh, ai là em. Nàng về nói với cha mẹ
xin làm vợ người anh.Khi cùng ở với nhau, người anh có lúc lạt lẽo với em. Người em tự lấy làm tủi hổ,
cho rằng anh lấy vợ rồi thì quên mình, bèn không cáo biệt mà bỏ đi về quê nhà.
Đi tới giữa rừng gặp một dòng suối sâu mà không có thuyền để qua, đau đớn khóc
mà chết, hóa thành một cây mọc ở bên sông.Người anh ở nhà không thấy em bèn đi tìm. Tới chỗ đó gieo mình chết ở bên gốc
cây, hóa thành phiến đá nằm ôm gốc cây. Người vợ đi tìm chồng tới chỗ này cũng
gieo mình ôm lấy phiến đá mà chết hóa thành một cây leo uốn quanh phiến đá ở gốc
cây, lá có mùi thơm cay. Cha mẹ nàng họ Lưu đi tìm con tới đây, đau xót vô cùng
bèn lập miếu thờ (5).Người trong vùng hương quả thờ cúng, ca tụng anh em hòa thuận, vợ chồng tiết
nghĩa.Khoảng tháng Bảy tháng Tám, khí nóng chưa tan, Hùng Vương đi tuần thú, nhân dừng
chân nghỉ mát ở trước miếu, thấy cây lá xum xuê, dây leo chằng chịt, hỏi mà biết
chuyện, ta thán hồi lâu. Nhà vua sai lấy quả ở cây và lá ở dây leo nhai, nhổ bọt
lên phiến đá thấy có sắc đỏ, mùi vị thơm tho. Bèn sai nung đá lấy vôi mà ăn
cùng với quả và lá dây leo, thấy mùi vị thơm ngon, môi đỏ má hồng, biết là vật
quý, bèn lấy mang về.Ngày nay, cây thường trồng ở khắp nơi, đó chính là cây cau, cây trầu và vôi vậy.
Về sau, người nước Nam ta phàm cưới vợ gả chồng hay lễ tết lớn nhỏ đều lấy trầu
cau làm đầu. Nguồn gốc cây cau là như thế đó.Chú thích:(1) Tiếng để gọi con trai vua (hoàng tử) trong thời Hồng Bàng. Sách “Việt sử
thông giám cương mục”, “Tiền biên”, tập 11, trang 5 chép: họ Hồng Bàng “bắt đầu
đặt quan chức, tướng văn gọi là lạc hầu, tướng võ gọi là lạc tướng, hữu tư gọi
là bồ chính, con trai vua gọi là quan lang...”(2) Hai chữ Tân và Lang ghép lại có nghĩa là cây cau.(3) Bản A. 2107 chép là Lưu Đạo Huyền.(4) Bản A. 1572 chép: “Nhà họ Lưu có người con gái 17, 18 tuổi thấy hai người
trong lòng rất lấy làm thích, muốn kết làm vợ chồng mà không biết ai là anh, ai
là em bèn đưa ra một bát cháo và một đôi đũa...”(5) Về đoạn này, bản A. 2107 chép: “Cha mẹ nàng họ Lưu tìm thấy chốn này đau đớn
vô cùng bèn lập miếu thờ để cúng. Về tới nhà đêm mộng thấy hai anh em tới vái
mà nói rằng: “Chúng tôi nặng tình huynh đệ, vì nghĩa mà không thể cẩu thả được,
làm liên lụy tới lệnh ái. Cha mẹ đã không bắt tội lại còn lập đền thờ”. Người
con gái cũng tiếp lời rằng: “Thiếp từ thuở thác sinh, nhờ công ơn nuôi dưỡng tới
nay, đã không có gì báo đáp, vừa rồi lại vì đạo vợ chồng, vì lòng duyên nhất là
vì nghĩa vợ chồng tuy trọn vẹn song dạ hiếu nữ vẫn chưa tròn, dám xin rộng lòng
xá tội”. Họ Lưu nói: “Các con đã vẹn tình huynh đệ, nghĩa vợ chồng, ta còn giận
gì nữa? Âm Dương đôi ngả, một sớm thành người thiên cổ để cho ta luống những sầu
thương”.“Truyền thuyết Trầu Cau” có thể chia làm hai phần. Phần
đầu giải thích về nguồn gốc của cây trầu quả cau mang tính huyền thoại. Nhưng nếu
loại bỏ những yếu tố của huyền thoại, chúng ta sẽ tìm thấy những yếu tố để chứng
minh cho quan hệ xã hội dưới thời Hùng và giá trị đạo lý trên cơ sở những mối
quan hệ đó. Phần hai: sự ấn chứng của vua Hùng quyết định sử dụng trầu cau là một
hình thức nghi lễ trong hôn nhân và mọi quan hệ xã hội (Trong “Lĩnh Nam
Chích Quái” không ghi việc Hùng Vương quyết định sử dụng trầu cau làm nghi lễ
trong quan hệ giao tiếp và hôn nhân trên toàn quốc như truyền thuyết đã nói).Trầu CauBiểu tượng trong hôn lễ của người Lạc Việt còn đến tận bây giờ Trong phần đầu, yếu tố huyền thoại thể hiện bằng hình ảnh những
con người trong gia đình Tân và Lang, khi nghĩ rằng đã mất nhau trong đời đều
hóa thân thành cây, đá để vĩnh viễn bên nhau. Đó là một hình ảnh bi diễm đầy chất
thơ, thể hiện những giá trị tình cảm yêu thương của con người sẵn sàng hy sinh
cho nhau. Đây cũng là đích hướng tới của những giá trị đạo lý thời Hùng Vương,
mà đỉnh cao của nó là sự hòa nhập tâm hồn trong tình đồng cảm giữa con người với
con người, tràn đầy tính nhân bản. Chất lãng mạn tột cùng đó của tình người
cũng được thể hiện rất rõ nét trong những tác phẩm văn học thời Hùng Vương,
như: Chuyện tình Trương Chi; Thạch Sanh; Mỵ Châu - Trọng Thủy (xin được minh chứng
ở phần sau).Tình người trong mối quan hệ con người trong huyền thoại Trầu
Cau đã được vua Hùng ấn chứng và lưu lại qua hàng thiên niên kỷ. Cụm từ “nồng
thắm” (nồng - vị của vôi, thắm -sắc của trầu) nhằm diễn tả một trạng thái tốt
đẹp nhất trong quan hệ con người, sử dụng trong ngôn ngữ Việt Nam. Phải chăng,
hình tượng đó bắt đầu từ sự kết tinh của tình người ở quệt vôi, lá trầu, quả
cau, đã ghi dấu ấn trong tâm linh sâu thẳm trải gần 5000 năm cho đến tận bây giờ!Với một tình người được tôn trọng và đề cao, thì dù Âm Dương cách biệt vẫn còn
tưởng nhớ đến nhau trong cuộc đời. Tục thờ cúng người đã khuất trong nền văn
minh Việt Nam - mà nguồn gốc của nó là sự đề cao tình người trong mối quan hệ
giữa con người với con người có từ trước thời Hùng Vương thứ VI - chắc chắn đã
xuất hiện vào lúc này. Hình ảnh ông bà Lưu lập miếu thờ ba người đã chứng tỏ điều
đó. Khi tổ tiên người Lạc Việt đặt lễ cúng để tưởng niệm cho người đã khuất, là
muốn nhắc nhở con cháu phải biết yêu thương nhau ngay từ khi còn sống. Như vậy,
có thể khẳng định rằng: Việc thờ cúng tổ tiên hoàn toàn là phong tục của người
Việt đã có từ lâu, chứ không phải là sự du nhập của nền văn minh Trung Hoa (nên
chăng trong mỗi mâm cỗ cúng người đã khuất ở thời hiện đại, có thêm lá trầu quả
cau như là một biểu tượng cho sự nồng thắm của tình người còn sống với người đã
khuất).Trầu cau, một di sản văn hóa thể hiện những giá trị tinh thần và mơ ước của người
Lạc Việt. Lá trầu biểu tượng cho sự sinh sản, cái bắt đầu và nguồn cội; Buồng
cau nặng trĩu chi chít những quả no tròn: biểu tượng cho sự phú túc và phát triển;
vôi: biểu tượng cho sự trong sạch, thanh cao. Nhưng khi tất cả hòa quyện với
nhau thì sự nồng thắm xuất hiện, như khẳng định tình yêu chính là giá trị hướng
tới của con người. Thật là một biểu tượng tuyệt diệu! Khi trầu cau được sử dụng
trong nghi lễ cưới hỏi; sự mở đầu cho một thế hệ mới tiếp nối cho sự sống của
con người. Ở ngay từ lúc bắt đầu thiêng liêng ấy, đã có sự nồng thắm của tình
yêu con người. Dịch kinh viết: “Trí thì cao siêu, lễ thì khiêm hạ. Cao là
bắt chước trời, thấp là bắt chước đất”. Sự giản dị khiêm cung của “Trầu
cau” đã tạo nên tính nhân bản trong di sản văn hóa của người Lạc Việt: tất
cả những đôi nam nữ yêu nhau, đều có thể lấy nhau chính vì sự thanh đạm và biểu
tượng cao quý của nghi lễ này.Trong “Truyền thuyết Trầu Cau” đã chứng tỏ: xã hội
Văn Lang từ trước thời Hùng Vương thứ VI có mối quan hệ gia đình như là tế bào
cơ bản cấu thành xã hội. Điều này cũng chứng tỏ một nền kinh tế phát triển tạo
điều kiện cho con người có khả năng tồn tại trong một cộng đồng nhỏ hơn là gia
đình, không còn phải chịu sự ràng buộc chặt chẽ trong cộng đồng bộ lạc hoặc thị
tộc. Những thành viên trong gia đình cùng liên quan chịu trách nhiệm chính
trong sự tồn tại và phát triển của mỗi một con người và của cả gia đình họ. Chi
tiết phần I miêu tả việc hai anh em bỏ nhà đi học xa, khi người em bỏ đi khiến
vợ chồng Tân đi tìm và họ lần lượt hóa thân bên nhau, đã chứng tỏ tính trách
nhiệm và sự ràng buộc tình cảm trong mối quan hệ gia đình. Kể từ thời gian đầu
lập quốc với truyền thuyết “Con Rồng Cháu Tiên” đến thời Hùng Vương
thứ VI, cụ thể là đến khi có “Truyền thuyết Trầu Cau” ngót cả ngàn năm. Đó là
thời gian hợp lý để sự phát triển kinh tế xã hội, làm nền tảng cho các mối quan
hệ trong gia đình và tạo điều kiện cho con người thoát khỏi sự ràng buộc của những
cộng đồng người hoang sơ. Tiêu biểu cho mối quan hệ gia đình từ sự bắt đầu của
nó là quan hệ hôn nhân - đám cưới - đã xuất hiện với những nghi lễ, mà di vật
minh chứng cho điều này có từ thời xa xưa vẫn còn tới tận bây giờ: đó chính
là “Trầu Cau”.
Bạn đọc có thể cho rằng: Nhận xét về sự tồn tại mối quan hệ gia đình với đầy đủ
những hình thái ý thức của nó, như là phần tử cơ bản cấu thành xã hội Văn Lang,
tương tự như trong xã hội hiện đại dựa vào “Truyền thuyết Trầu Cau” ở
phần 1 của câu chuyện, có thể là một giả thuyết dựa trên cơ sở không vững chắc
vì tính huyền thoại của nó. Bởi phần sự tích của “Trầu Cau” có thể được đặt
ra và thêm thắt, để tạo nên một nền tảng tư tưởng cho những giá trị đạo lý
trong quan hệ gia đình được hình thành ở những thời gian lịch sử sau đó, mà tục
sử dụng trầu cau như là một nghi thức thể hiện sẵn có, chỉ là một phương tiện để
chuyển tải.
Nhận xét trên chỉ có thể được coi là đúng, nếu phần 2 của câu chuyện không có sự
ấn chứng của vua Hùng đối với loại cây được sử dụng trong nghi lễ giao tiếp và
hôn lễ của người Việt. Điều này chứng tỏ rằng: nhu cầu về hình thức giao tiếp
trong quan hệ xã hội và gia đình đã xuất hiện và đã có những hình thái ý thức
cho nó, đã có từ trước thời Hùng Vương thứ VI. Phong tục sử dụng trầu cau trong
nghi lễ cưới hỏi của người Lạc Việt còn tồn tại hàng ngàn năm cho đến tận bây
giờ, chính là hiện tượng bảo chứng cho sự tồn tại của gia đình trong xã hội Văn
Lang. Hình thức giao tiếp không chỉ bằng những cử chỉ cung kính, cẩn trọng mà
là những vật lễ cụ thể đơn giản, nhưng đầy đủ ý nghĩa để có thể trở thành phổ
biến trong xã hội Văn Lang. Đặc biệt là sự xuất hiện hình thức trong nghi lễ
hôn nhân bằng trầu cau, là một bằng chứng thể hiện vị trí của gia đình và những
hình thái ý thức của nó trong cơ cấu xã hội. Đây là một dấu chứng phủ nhận quan
niệm cho rằng: xã hội Văn Lang chỉ là một cộng đồng bộ lạc.
Những hình thái ý thức trong quan hệ gia đình đã xuất hiện qua “Truyền
thuyết Trầu Cau”, có thể nhận thấy qua sự phân biệt ngôi thứ trong quan hệ
gia đình. Đó là việc cô Liên, con gái người thầy của hai anh em Tân và Lang đưa
ra một đôi đũa và một khay cháo để lựa chọn người anh trong gia đình chứng tỏ
điều này (trong điều kiện hai anh em giống nhau như đúc). Việc người em nhường
đũa cho người anh dùng cháo trước, đã chứng tỏ không phải chỉ là sự phân biệt
ngôi thứ mà còn là tôn ti trật tự trong gia đình. Hình ảnh cô Liên sau khi biết
được Tân là anh về nói với cha mẹ xin cưới Tân làm chồng, đã chứng tỏ người phụ
nữ Việt Nam dưới thời Hùng Vương hoàn toàn được quyền tự do và chủ động trong
hôn nhân, chứ không phải “Tại gia tòng phụ” như quan điểm Nho học sau này từ
văn minh Trung Hoa - trọng nam khinh nữ - truyền vào Việt nam, khi đất nước bị
đô hộ. Hình ảnh này cũng chứng tỏ những nghi thức trong hôn nhân đã hình thành
với vai trò của cha mẹ. Việc cô Liên đi tìm chồng và chết theo chồng không phải
xuất phát từ tư tưởng “Xuất giá tòng phu” mà hoàn toàn chủ động từ tình cảm của
chính cô. Sự nồng thắm của tình người sau khi hóa thân thành trầu, cau, vôi đã
chứng tỏ điều này. Nếu đạo Tam tòng của Hán Nho về sau, thuộc về trạng thái ý
thức có tính gò ép, thì sự chung thủy trên căn bản tình người là một giá trị của
nền văn hiến thời Hùng Vương.
Nhận xét nói trên, được bảo chứng bằng sự phổ biến của tục ăn trầu ở khắp miền
nam sông Dương Tử cho đến đời Tống và cho đến tận bây giờ ở Đài Loan; cũng như
nghi lễ sử dụng trầu cau còn được gìn giữ trong cộng đồng người Việt, cho đến
nay trải đã hàng ngàn năm. Sự phổ biến của một tập quán bao trùm một không
gian địa lý rộng lớn với thời gian kéo dài hàng thiên niên kỷ, đã chứng tỏ tính
thống nhất về văn hóa và sự tồn tại của một quyền lực ổn định bao trùm bảo đảm
cho sự tồn tại của nó.
CHƯƠNG
IV - PHẦN 1
Từ Phúc Kiến, miền dưới Tứ Xuyên, miền Tây tỉnh Quảng Đông, đều
có tục ăn trầu... (Theo Cau trầu đầu truyện, Phạm Côn Sơn. Nxb Đồng
Tháp 1994).
“Phúc Kiến” tức là miền dưới Triết Giang của nước Việt
cũ; “miền dưới Tứ Xuyên” tức Quý Châu cũ; “Quảng Đông” tức là miền
Giao Châu cũ, tất cả đều thuộc lãnh thổ Văn Lang ngày xưa theo truyền thuyết.
Hiện tượng này chỉ có sự giải thích hợp lý là: Lãnh thổ Văn Lang đã bao trùm phần
miền Nam Trung Quốc ngày nay như truyền thuyết “Con Rồng Cháu Tiên” đã
nói tới: “Bắc giáp Động Đình Hồ, Tây giáp Ba Thục, Nam giáp Hồ Tôn, Đông
giáp Đông Hải”. Do đó, khi lãnh thổ bị thu hẹp thì những người dân ở vùng
đất thuộc Văn Lang cũ vẫn giữ được thói quen ăn trầu trải đã hàng ngàn năm, mặc
dù phần nghi lễ dựa trên miếng trầu quả cau đã bị xóa bỏ vì Hán hóa. Như vậy,
đây là một trong những nét minh họa sắc sảo nhất cho biên giới Văn Lang theo
truyền thuyết “Con Rồng, cháu Tiên”.
Trong khi đang viết cuốn sách này thì tập san Kiến thức ngày nay số 283 phát
hành ngày 10/6/1998 có bài báo “Quan niệm về cái đẹp ở xứ Hoa Anh Đào” (người
giới thiệu bài báo: Đoan Thư - theo The East) nói về quan niệm của phụ nữ Nhật
về vẻ đẹp của họ. Do bài báo có liên quan đến phong tục của thời Hùng Vương,
xin được trích dẫn ở đây để bạn đọc tham khảo:Ngay trong lời giới thiệu bài viết đã có đoạn:Thật bất ngờ khi khám phá rằng người phụ nữ Nhật hồi xưa cũng
như phụ nữ Việt Nam cách đây cả trăm năm, đều thích nhuộm răng đen và hơn nữa họ
còn khoái xăm mình!
Trong bài có đoạn viết:“Nhuộm răng đen là dấu hiệu cho thấy quí bà đó thuộc tầng lớp
thượng lưu và người ta cho rằng tục nhuộm răng ở xứ Phù Tang có nguồn gốc từ
Đông Nam Á chứ không phải Trung Hoa.
Phong trào nhuộm răng đen lan mạnh đến thế kỷ 11, thời Nhật Hoàng Shirakawa
(1072 - 1086). Phái nam thuộc giới quí tộc không những nhuộm răng mà còn “đánh
má hồng”.
Tục ăn trầu, nhuộm răng đen và xăm mình đã có từ trước thời
Hùng Vương thứ VI ở Văn Lang, cho đến ngay bây giờ vẫn còn có một số người lớn
tuổi ở miền Bắc nhuộm răng đen, chứ không phải cách đây hàng trăm năm như tác
giả bài viết đã nói. Hiện tượng phụ nữ nhuộm răng đen ở Nhật Bản và tục ăn trầu
của người Đài Loan, nếu như không thể giải thích bằng bề dầy của thời gian gần
3000 năm và một lãnh thổ đến tận bờ Nam sông Dương Tử của Văn Lang, thì chỉ còn
cách giải thích đó là do ý muốn của thượng đế.
Cây trầu, cây cau và cuộc sống định canh định cư với nền nông
nghiệp phát triển trong xã hội Văn Lang
Người Việt thời Hùng Vương chỉ có thể xây dựng cho mình một nền
văn minh trên nền tảng của cuộc sống định canh, định cư và sự phồn vinh của
nông nghiệp. Sự dư thừa của sản phẩm nông nghiệp, sau khi hoàn tất cho nhu cầu
của những người làm ra nó, là điều kiện tối thiểu để tồn tại những người sống bằng
nghề phi nông nghiệp khác. Đó là những học giả, những người luyện kim, nhà
buôn,... Sự hiện diện của cây cau, lá trầu theo quyết định của vua Hùng, được
trồng phổ biến khắp nơi đã chứng tỏ điều này (tất nhiên chỉ có thể trồng được ở
những vùng có điều kiện địa lý thích hợp). Việc trồng một thứ cây không phải
cây lương thực, mà hoàn toàn chỉ là nhu cầu nghi lễ một cách phổ biến từ trước
thời Hùng Vương VI, đã chứng tỏ ngành nông nghiệp phát triển và người ta có thể
quan tâm đến một thứ sản phẩm phục vụ cho nhu cầu văn hóa. Hiện tượng này chứng
tỏ tổ tiên người Việt đã có một nền nông nghiệp phát triển, ít nhất là trước thời
Hùng Vương thứ VI tức là khoảng hơn, kém 2000 năm tr.CN. Do đó, có thể khẳng định:
dân tộc Việt có nền nông nghiệp hình thành và phát triển sớm nhất thế giới.
Để minh họa cho luận điểm này, xin được dẫn lại một đoạn trong bài “Tia
sáng mới rọi và một quá khứ bị lãng quên” của tiến sĩ Wilhelm G.Solhelm II
là giáo sư nhân chủng học ở trường đại học Hawaii chuyên nghiên cứu về thời tiền
sử Đông Nam Á. Bài viết này đã được in trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt
Nam (sách đã dẫn). Sau đây là đoạn miêu tả sự phát hiện của tiến sĩ Wilhelm
G.Solhelm II tại một di chỉ khảo cổ ở vùng biên giới Đông Bắc Thái Lan (tức là
phần lãnh thổ hoặc giáp giới lãnh thổ của Văn Lang cũ, người viết).
Trong một chỗ đất rộng chừng 2,5cm2 có một mảnh đồ gốm in vết
vỏ của một hạt lúa có niên đại muộn nhất là 3600 tr.CN. Như vậy có nghĩa là trước
cả ngàn năm so với những hạt lúa tìm thấy ở Ấn Độ và Trung Hoa cũng được xác định
bằng phương pháp cacbon (mà trước đây dựa vào đó các nhà khảo cổ cho rằng con
người tại đây biết trồng lúa trước tiên).
Cuộc sống định canh, định cư đã được hình thành chứng tỏ cho
sự phát triển của nền nông nghiệp. Sự hiện diện của cây trầu, cây cau trong đời
sống văn hóa của người Việt chứng tỏ điều này. Bởi vì, đó là loại cây có ít nhất
3 năm để bắt đầu cho trái và sử dụng sản phẩm của nó hàng chục năm về sau, được
trồng khắp nước ở những vùng địa lý thuận lợi. Đây chính là hiện tượng minh chứng
cho cuộc sống định canh, định cư và một nền nông nghiệp phát triển ở khắp lãnh
thổ Văn Lang. Người ta không thể trồng một loại cây lâu năm với một lối sống du
canh, du cư.
Khả năng trao đổi sản phẩm văn hóa
Việc trồng cây trầu và cau trên khắp một vùng lãnh thổ rộng lớn với những điều
kiện địa lý khác nhau, thích hợp hoặc không thích hợp với sự phát triển của loại
cây này là điều không thể thực hiện. Nhưng với quyết định của vua Hùng sử dụng
trầu cau trong cả nước để thực hiện những nghi lễ trong quan hệ xã hội, thuộc
những vùng chịu ảnh hưởng của nền văn minh chính thống. Tất yếu phải có trao đổi
sản phẩm từ những vùng địa lý có khả năng trồng được và trồng nhiều trầu và
cau, đến những vùng không thể trồng được cây này. Như phần phân tích truyền
thuyết “Phù Đổng Thiên Vương” đã trình bày về sự phát triển của việc
trao đổi sản phẩm tiêu dùng từ trước thời Hùng Vương thứ VI. Với truyền thuyết
Trầu Cau thì sự trao đổi sản phẩm không còn giới hạn ở sản phẩm tiêu dùng, mà
đã xuất hiện sự trao đổi sản phẩm văn hóa. Đó chính là trầu cau được trao đổi với
tư cách là sản phẩm văn hóa, trước khi là một sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tiêu
dùng do thói quen ăn trầu. Vậy ngoài những sản phẩm văn hóa được trao đổi trên
thực tế là trầu cau đã chứng minh ở phần trên, thì người Việt thời Văn Lang còn
trao đổi những sản phẩm văn hóa khác nữa hay không, khi những nhu cầu văn hóa
đã xuất hiện? Khả năng trao đổi những sản phẩm văn hóa và trí tuệ hoàn toàn có
thể có. Như phần trên đã trình bày: xã hội Văn Lang đã có một hệ thống ý niệm
vũ trụ quan hoàn chỉnh của thuyết Âm Dương Ngũ hành với sự ứng dụng trong mọi
lĩnh vực liên quan đến con người và cuối cùng là văn học nghệ thuật (riêng phần
văn học nghệ thuật thời Hùng, xin được chứng minh rõ hơn qua truyền thuyết kể lại
về: Chuyện tình Trương Chi, Thạch Sanh, Mỵ Châu - Trọng Thủy và phần huyền thoại
của truyền thuyết Trầu Cau). Do đó, tất yếu xã hội Văn Lang phải có sự truyền
bá kiến thức để bảo đảm sự duy trì và phát triển của nền văn minh. Nhưng phương
tiện chuyển tải kiến thức dưới thời Hùng Vương là gì?
Phương tiện ghi nhận - chuyển tải tri thức trong thời Hùng
Vương
Ngành khảo cổ học Trung Hoa đã phát hiện được những mảnh
xương thú, mai rùa trên đó có khắc chữ viết ở Ân Khư thủ đô nhà Ân Thương. Hiện
tượng này là bằng chứng cho thấy: trước khi tìm ra giấy, những nền văn minh cổ ở
những vùng khác nhau trên thế giới đã ghi văn tự lên da, xương thú, trên đá...
Tất cả những phương tiện đó, đều chứng tỏ một nền văn minh có thể chưa phát triển
với những kiến thức còn đơn giản, hoặc sự phổ biến kiến thức còn hạn chế. Nhưng
với một khối lượng tri thức lớn như dưới thời Hùng Vương đã trình bày ở trên và
nhu cầu phổ biến trên một lãnh thổ rộng lớn - lại ở một xã hội nông nghiệp định
canh, định cư ổn định - thì lấy đâu ra một lượng da, xương lớn để làm phương tiện
chuyển tải chữ viết?
Dấu ấn xưa nhất chứng tỏ phương tiện chuyển tải tri thức của nền văn minh Văn
Lang, chính là mai con rùa. Điều này đã được nói tới trong sách Thông Chí của
Trịnh Tiều về việc tặng lịch cho vua Nghiêu. Những dấu ấn của nền văn minh Văn
Lang thời đầu lập quốc được minh chứng từ những cổ thư Trung Hoa, cũng được
phát hiện trên lưng rùa (Lạc thư, Hồng phạm). Hiện tượng này chứng tỏ vào thời
đầu lập quốc, các học giả Văn Lang đã sử dụng mai rùa để ghi lại những tri thức
của mình. Điều kiện tự nhiên đã tạo cho nền văn minh Văn Lang thực hiện điều
này, “giống rùa lớn chỉ có ở miền Nam sông Dương Tử”. Nhưng với sự
phát triển của nền văn minh, nhu cầu trao đổi tri thức ngày càng nhiều, thì việc
sử dụng mai rùa làm phương tiện chuyển tải, tất yếu sẽ không phải là một hiện
tượng phổ biến.
Phải chăng, việc sử dụng tre để khắc chữ của người Trung Hoa sau này bắt đầu từ
văn minh Văn Lang, khi ở đất nước này hoàn toàn có đầy đủ những nhu cầu và điều
kiện để thực hiện. Đó là từ phía Nam Động Đình Hồ đến hết biên giới phía Nam
Văn Lang là quê hương của tre nứa. Nếu như từ thuở hồng hoang trước thời lập quốc,
người Bách Việt có sử dụng xương thú hoặc mai rùa để khắc chữ, thì từ khoảng
ngót 1000 năm sau thời lập quốc với một nền văn minh phát triển, việc chuyển từ
xương thú hay mai rùa qua tre nứa, không phải là một việc đòi hỏi những tư duy
phức tạp hơn việc làm ra chiếc bánh chưng, bánh dầy. Lúc này rùa chỉ còn là một
biểu tượng của phương tiện chuyển tải tri thức của nền văn minh Văn Lang mà dấu
ấn còn để lại đến bây giờ, như là một sự tri ân loài linh vật đầu tiên phụng sự
cho nền văn minh Lạc Việt. Chính vì biểu tượng con rùa này trong truyền thuyết
và huyền thoại, là phương tiện để con cháu người Lạc Việt tìm lại dấu ấn của tổ
tiên mấy ngàn năm trước.
Để bạn đọc khỏi lật lại trang sách, xin được trích lại đoạn
sau đây trong sách Kinh Dịch - Cấu hình tư tưởng Trung Quốc (sách đã dẫn, trang
590), chúng tỏ điều này:
Đồng thời cũng có khoa đẩu văn (gọi như vậy vì chữ được viết bằng những que chấm
sơn trên thẻ tre, hay thẻ gỗ), nét sơn không đều hình con nòng nọc.
Như vậy, đoạn nói về những di vật đào được ở Ân Khư trích dẫn
trên, đã chứng tỏ rõ nét phương tiện chuyển tải chữ viết của ông cha ta, khi chữ
khoa đẩu - là chữ của người Việt có từ hơn 2000 tr.CN. (sách Thông Chí, đã
dẫn) - được viết bằng sơn trên tre nứa. Điều này cũng chứng tỏ rằng từ gần 2000
tr.CN, ông cha ta đã sử dụng sơn để viết chữ trên tre, gỗ chứ không phải khắc
trên tre, gỗ như người Trung Hoa sau này.
Giấy - Một khả năng đã xuất hiện dưới thời Hùng Vương?
Trong số những tranh dân gian của làng tranh Đông Hồ còn để lại
đến ngày nay, có rất nhiều bức tranh có liên hệ với những giá trị tư tưởng có từ
thời Hùng Vương, mang những dấu ấn của một nền minh triết Lạc Việt, cội nguồn của
văn minh Đông phương, như các tranh: Thầy đồ Cóc; Nhân Nghĩa (bé ôm Cóc); Lễ
Trí (bé ôm Rùa)... Sự hiện tồn của những bức tranh trên, khó có thể cho rằng nó
được thể hiện những giá trị văn hóa lưu truyền từ thời Hùng Vương, trên một
phương tiện xuất hiện sau đó là giấy Gió. Vì vậy, hoàn toàn có cơ sở để đặt vấn
đề cho rằng: người Lạc Việt đã làm ra giấy và những bức họa dân gian đã có từ
thời Hùng Vương. Lịch sử làng tranh Đông Hồ có từ hơn 400 năm nay. Nhưng trước
đó thì người Việt chắc chắn cũng đã có tranh. Tức là trước khi các nghệ nhân xứng
đáng được sự tôn trọng của người Việt tụ tập ở làng Đông Hồ, để gây dựng thành
một làng tranh nổi tiếng. Họ đã vẽ những bức tranh trên những tờ giấy gió là một
sản phẩm độc đáo của Việt Nam. Từ việc giã cây Quang Lăng để lấy bột làm lương
thực vào thời kỳ đầu lập quốc của Văn Lang (gần 3000 năm tr.CN), cho đến việc
giã cây gió để làm ra thứ giấy Gió nổi tiếng thì khoảng cách thời gian là bao
lâu? Phải chăng hình ảnh trên trống đồng được coi là người đọc văn bản đang cầm
một tờ giấy, khi hình vẽ thể hiện nếp uốn ở phía trên? (hình trang 93). Ý tưởng
cho rằng hình người trên trống đồng đang đọc văn bản viết trên giấy được tiếp tục
minh chứng ở mục “Y phục thời Hùng Vương” trong phần sau.
Giả thuyết về khả năng trong thời Hùng Vương ông cha ta đã làm ra giấy được củng
cố qua sự so sánh giữa hai hình sau đây.
Hình bên được chép lại từ trống đồng Hoàng Hạ, được các nhà
nghiên cứu cho rằng đây là hình giã gạo. Ở trên đầu hai nhân vật là hai con
chim mỏ ngắn thuộc loài chim có thể ăn hạt. Đây là biểu tượng của sự giã gạo hoặc
ngũ cốc.
So với hình bên được chép lại từ cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam (sách
đã dẫn), chú thích trong sách là hình “Nam nữ giã gạo”. Nhưng những ai đã
xem bộ phim “Sân trăng”, được đài truyền hình chiếu vào khoảng đầu năm 98 -
là một bộ phim có nội dung miêu tả lịch sử và sinh hoạt của các nghệ nhân làng
tranh Đông Hồ, thì thấy nó giống cảnh hai người giã cây gió làm giấy hơn. Hơn nữa,
trên đầu gậy lại có họa hai hình chữ nhật. Phải chăng, đó là biểu tượng thể hiện
sản phẩm giấy họ sẽ làm ra sau khi giã xong cối bột gió?
Những hình tượng này chỉ là cơ sở của một giả thuyết về khả năng thời Hùng
Vương đã làm ra giấy, không phải là yếu tố để minh chứng cho giả thuyết này.
Như vậy, với dấu ấn của trầu cau trong hôn lễ của người Lạc Việt và tục ăn trầu
tồn tại hàng ngàn năm ở vùng nam sông Dương Tử, và đến tận bây giờ ở Đài Loan,
đã chứng tỏ rằng:
@ Ngay từ trước thời Hùng Vương thứ VI, Văn Lang đã là một xã hội có những dấu ấn
chứng tỏ sự hoàn chỉnh của một nền văn minh phát triển. Nếu không phải là sớm
nhất và hơn hẳn so với các vùng khác trên thế giới, thì cũng là tương đương với
những nền văn minh kỳ vĩ khác của thế giới cổ đại, mà di tích còn lại của những
nền văn minh đó, đã gây ra sự kinh ngạc trong xã hội hiện đại.
@ Chứng tỏ một nền văn minh nông nghiệp phát triển cao và tồn tại hàng ngàn năm
ở miền nam sông Dương Tử. Bởi vì, phải có một bề dày trải hàng ngàn năm của
thói quen ăn trầu; thói quen đó phải được bảo trợ bằng quyền lực trong một xã hội cao cấp có tổ chức chặt chẽ và được
hình thành trong một cuộc sống ổn định rất lâu dài, mới có thể để lại dấu ấn
qua hàng ngàn năm thăng trầm của lịch sử trong thời Bắc thuộc và cho đến tận
bây giờ.
Thật đáng trân trọng thay! Khi thấy những đám cưới của người dân Lạc Việt - cho
đến tận bây giờ, vẫn trân trọng những truyền thống của tổ tiên - lại có mâm
cau, lá trầu: biểu tượng cho sự phú túc, nồng thắm và thủy chung của tình yêu
con người với sự ấn chứng thiêng liêng của tổ tiên!.
Thời thượng cổ có một vị quan lang (1) sức vóc cao lớn, nhà vua ban tên là Cao cho nên lấy Cao làm họ. Cao sinh hạ được hai người con trai, con cả tên là Tân, con thứ tên là Lang (2). Hai anh em giống nhau như đúc, trông không thể phân biệt nỗi. Đến năm 17-18 tuổi, cha mẹ đều từ trần, hai anh em đến theo học đạo sĩ Lưu Huyền (3).
Trầu Cau
Biểu tượng trong hôn lễ của
người Lạc Việt còn đến tận bây giờ
Trong “Truyền thuyết Trầu Cau” đã chứng tỏ: xã hội
Văn Lang từ trước thời Hùng Vương thứ VI có mối quan hệ gia đình như là tế bào
cơ bản cấu thành xã hội. Điều này cũng chứng tỏ một nền kinh tế phát triển tạo
điều kiện cho con người có khả năng tồn tại trong một cộng đồng nhỏ hơn là gia
đình, không còn phải chịu sự ràng buộc chặt chẽ trong cộng đồng bộ lạc hoặc thị
tộc. Những thành viên trong gia đình cùng liên quan chịu trách nhiệm chính
trong sự tồn tại và phát triển của mỗi một con người và của cả gia đình họ. Chi
tiết phần I miêu tả việc hai anh em bỏ nhà đi học xa, khi người em bỏ đi khiến
vợ chồng Tân đi tìm và họ lần lượt hóa thân bên nhau, đã chứng tỏ tính trách
nhiệm và sự ràng buộc tình cảm trong mối quan hệ gia đình. Kể từ thời gian đầu
lập quốc với truyền thuyết “Con Rồng Cháu Tiên” đến thời Hùng Vương
thứ VI, cụ thể là đến khi có “Truyền thuyết Trầu Cau” ngót cả ngàn năm. Đó là
thời gian hợp lý để sự phát triển kinh tế xã hội, làm nền tảng cho các mối quan
hệ trong gia đình và tạo điều kiện cho con người thoát khỏi sự ràng buộc của những
cộng đồng người hoang sơ. Tiêu biểu cho mối quan hệ gia đình từ sự bắt đầu của
nó là quan hệ hôn nhân - đám cưới - đã xuất hiện với những nghi lễ, mà di vật
minh chứng cho điều này có từ thời xa xưa vẫn còn tới tận bây giờ: đó chính
là “Trầu Cau”.
Bạn đọc có thể cho rằng: Nhận xét về sự tồn tại mối quan hệ gia đình với đầy đủ
những hình thái ý thức của nó, như là phần tử cơ bản cấu thành xã hội Văn Lang,
tương tự như trong xã hội hiện đại dựa vào “Truyền thuyết Trầu Cau” ở
phần 1 của câu chuyện, có thể là một giả thuyết dựa trên cơ sở không vững chắc
vì tính huyền thoại của nó. Bởi phần sự tích của “Trầu Cau” có thể được đặt
ra và thêm thắt, để tạo nên một nền tảng tư tưởng cho những giá trị đạo lý
trong quan hệ gia đình được hình thành ở những thời gian lịch sử sau đó, mà tục
sử dụng trầu cau như là một nghi thức thể hiện sẵn có, chỉ là một phương tiện để
chuyển tải.
Nhận xét trên chỉ có thể được coi là đúng, nếu phần 2 của câu chuyện không có sự
ấn chứng của vua Hùng đối với loại cây được sử dụng trong nghi lễ giao tiếp và
hôn lễ của người Việt. Điều này chứng tỏ rằng: nhu cầu về hình thức giao tiếp
trong quan hệ xã hội và gia đình đã xuất hiện và đã có những hình thái ý thức
cho nó, đã có từ trước thời Hùng Vương thứ VI. Phong tục sử dụng trầu cau trong
nghi lễ cưới hỏi của người Lạc Việt còn tồn tại hàng ngàn năm cho đến tận bây
giờ, chính là hiện tượng bảo chứng cho sự tồn tại của gia đình trong xã hội Văn
Lang. Hình thức giao tiếp không chỉ bằng những cử chỉ cung kính, cẩn trọng mà
là những vật lễ cụ thể đơn giản, nhưng đầy đủ ý nghĩa để có thể trở thành phổ
biến trong xã hội Văn Lang. Đặc biệt là sự xuất hiện hình thức trong nghi lễ
hôn nhân bằng trầu cau, là một bằng chứng thể hiện vị trí của gia đình và những
hình thái ý thức của nó trong cơ cấu xã hội. Đây là một dấu chứng phủ nhận quan
niệm cho rằng: xã hội Văn Lang chỉ là một cộng đồng bộ lạc.
Những hình thái ý thức trong quan hệ gia đình đã xuất hiện qua “Truyền
thuyết Trầu Cau”, có thể nhận thấy qua sự phân biệt ngôi thứ trong quan hệ
gia đình. Đó là việc cô Liên, con gái người thầy của hai anh em Tân và Lang đưa
ra một đôi đũa và một khay cháo để lựa chọn người anh trong gia đình chứng tỏ
điều này (trong điều kiện hai anh em giống nhau như đúc). Việc người em nhường
đũa cho người anh dùng cháo trước, đã chứng tỏ không phải chỉ là sự phân biệt
ngôi thứ mà còn là tôn ti trật tự trong gia đình. Hình ảnh cô Liên sau khi biết
được Tân là anh về nói với cha mẹ xin cưới Tân làm chồng, đã chứng tỏ người phụ
nữ Việt Nam dưới thời Hùng Vương hoàn toàn được quyền tự do và chủ động trong
hôn nhân, chứ không phải “Tại gia tòng phụ” như quan điểm Nho học sau này từ
văn minh Trung Hoa - trọng nam khinh nữ - truyền vào Việt nam, khi đất nước bị
đô hộ. Hình ảnh này cũng chứng tỏ những nghi thức trong hôn nhân đã hình thành
với vai trò của cha mẹ. Việc cô Liên đi tìm chồng và chết theo chồng không phải
xuất phát từ tư tưởng “Xuất giá tòng phu” mà hoàn toàn chủ động từ tình cảm của
chính cô. Sự nồng thắm của tình người sau khi hóa thân thành trầu, cau, vôi đã
chứng tỏ điều này. Nếu đạo Tam tòng của Hán Nho về sau, thuộc về trạng thái ý
thức có tính gò ép, thì sự chung thủy trên căn bản tình người là một giá trị của
nền văn hiến thời Hùng Vương.
Nhận xét nói trên, được bảo chứng bằng sự phổ biến của tục ăn trầu ở khắp miền
nam sông Dương Tử cho đến đời Tống và cho đến tận bây giờ ở Đài Loan; cũng như
nghi lễ sử dụng trầu cau còn được gìn giữ trong cộng đồng người Việt, cho đến
nay trải đã hàng ngàn năm. Sự phổ biến của một tập quán bao trùm một không
gian địa lý rộng lớn với thời gian kéo dài hàng thiên niên kỷ, đã chứng tỏ tính
thống nhất về văn hóa và sự tồn tại của một quyền lực ổn định bao trùm bảo đảm
cho sự tồn tại của nó.
CHƯƠNG IV - PHẦN 1
Từ Phúc Kiến, miền dưới Tứ Xuyên, miền Tây tỉnh Quảng Đông, đều
có tục ăn trầu... (Theo Cau trầu đầu truyện, Phạm Côn Sơn. Nxb Đồng
Tháp 1994).
“Phúc Kiến” tức là miền dưới Triết Giang của nước Việt
cũ; “miền dưới Tứ Xuyên” tức Quý Châu cũ; “Quảng Đông” tức là miền
Giao Châu cũ, tất cả đều thuộc lãnh thổ Văn Lang ngày xưa theo truyền thuyết.
Hiện tượng này chỉ có sự giải thích hợp lý là: Lãnh thổ Văn Lang đã bao trùm phần
miền Nam Trung Quốc ngày nay như truyền thuyết “Con Rồng Cháu Tiên” đã
nói tới: “Bắc giáp Động Đình Hồ, Tây giáp Ba Thục, Nam giáp Hồ Tôn, Đông
giáp Đông Hải”. Do đó, khi lãnh thổ bị thu hẹp thì những người dân ở vùng
đất thuộc Văn Lang cũ vẫn giữ được thói quen ăn trầu trải đã hàng ngàn năm, mặc
dù phần nghi lễ dựa trên miếng trầu quả cau đã bị xóa bỏ vì Hán hóa. Như vậy,
đây là một trong những nét minh họa sắc sảo nhất cho biên giới Văn Lang theo
truyền thuyết “Con Rồng, cháu Tiên”.
Thật bất ngờ khi khám phá rằng người phụ nữ Nhật hồi xưa cũng như phụ nữ Việt Nam cách đây cả trăm năm, đều thích nhuộm răng đen và hơn nữa họ còn khoái xăm mình!
“Nhuộm răng đen là dấu hiệu cho thấy quí bà đó thuộc tầng lớp
thượng lưu và người ta cho rằng tục nhuộm răng ở xứ Phù Tang có nguồn gốc từ
Đông Nam Á chứ không phải Trung Hoa.
Phong trào nhuộm răng đen lan mạnh đến thế kỷ 11, thời Nhật Hoàng Shirakawa
(1072 - 1086). Phái nam thuộc giới quí tộc không những nhuộm răng mà còn “đánh
má hồng”.
Tục ăn trầu, nhuộm răng đen và xăm mình đã có từ trước thời
Hùng Vương thứ VI ở Văn Lang, cho đến ngay bây giờ vẫn còn có một số người lớn
tuổi ở miền Bắc nhuộm răng đen, chứ không phải cách đây hàng trăm năm như tác
giả bài viết đã nói. Hiện tượng phụ nữ nhuộm răng đen ở Nhật Bản và tục ăn trầu
của người Đài Loan, nếu như không thể giải thích bằng bề dầy của thời gian gần
3000 năm và một lãnh thổ đến tận bờ Nam sông Dương Tử của Văn Lang, thì chỉ còn
cách giải thích đó là do ý muốn của thượng đế.
Cây trầu, cây cau và cuộc sống định canh định cư với nền nông
nghiệp phát triển trong xã hội Văn Lang
Người Việt thời Hùng Vương chỉ có thể xây dựng cho mình một nền
văn minh trên nền tảng của cuộc sống định canh, định cư và sự phồn vinh của
nông nghiệp. Sự dư thừa của sản phẩm nông nghiệp, sau khi hoàn tất cho nhu cầu
của những người làm ra nó, là điều kiện tối thiểu để tồn tại những người sống bằng
nghề phi nông nghiệp khác. Đó là những học giả, những người luyện kim, nhà
buôn,... Sự hiện diện của cây cau, lá trầu theo quyết định của vua Hùng, được
trồng phổ biến khắp nơi đã chứng tỏ điều này (tất nhiên chỉ có thể trồng được ở
những vùng có điều kiện địa lý thích hợp). Việc trồng một thứ cây không phải
cây lương thực, mà hoàn toàn chỉ là nhu cầu nghi lễ một cách phổ biến từ trước
thời Hùng Vương VI, đã chứng tỏ ngành nông nghiệp phát triển và người ta có thể
quan tâm đến một thứ sản phẩm phục vụ cho nhu cầu văn hóa. Hiện tượng này chứng
tỏ tổ tiên người Việt đã có một nền nông nghiệp phát triển, ít nhất là trước thời
Hùng Vương thứ VI tức là khoảng hơn, kém 2000 năm tr.CN. Do đó, có thể khẳng định:
dân tộc Việt có nền nông nghiệp hình thành và phát triển sớm nhất thế giới.
Để minh họa cho luận điểm này, xin được dẫn lại một đoạn trong bài “Tia
sáng mới rọi và một quá khứ bị lãng quên” của tiến sĩ Wilhelm G.Solhelm II
là giáo sư nhân chủng học ở trường đại học Hawaii chuyên nghiên cứu về thời tiền
sử Đông Nam Á. Bài viết này đã được in trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt
Nam (sách đã dẫn). Sau đây là đoạn miêu tả sự phát hiện của tiến sĩ Wilhelm
G.Solhelm II tại một di chỉ khảo cổ ở vùng biên giới Đông Bắc Thái Lan (tức là
phần lãnh thổ hoặc giáp giới lãnh thổ của Văn Lang cũ, người viết).
Trong một chỗ đất rộng chừng 2,5cm2 có một mảnh đồ gốm in vết
vỏ của một hạt lúa có niên đại muộn nhất là 3600 tr.CN. Như vậy có nghĩa là trước
cả ngàn năm so với những hạt lúa tìm thấy ở Ấn Độ và Trung Hoa cũng được xác định
bằng phương pháp cacbon (mà trước đây dựa vào đó các nhà khảo cổ cho rằng con
người tại đây biết trồng lúa trước tiên).
Cuộc sống định canh, định cư đã được hình thành chứng tỏ cho
sự phát triển của nền nông nghiệp. Sự hiện diện của cây trầu, cây cau trong đời
sống văn hóa của người Việt chứng tỏ điều này. Bởi vì, đó là loại cây có ít nhất
3 năm để bắt đầu cho trái và sử dụng sản phẩm của nó hàng chục năm về sau, được
trồng khắp nước ở những vùng địa lý thuận lợi. Đây chính là hiện tượng minh chứng
cho cuộc sống định canh, định cư và một nền nông nghiệp phát triển ở khắp lãnh
thổ Văn Lang. Người ta không thể trồng một loại cây lâu năm với một lối sống du
canh, du cư.
Khả năng trao đổi sản phẩm văn hóa
Việc trồng cây trầu và cau trên khắp một vùng lãnh thổ rộng lớn với những điều
kiện địa lý khác nhau, thích hợp hoặc không thích hợp với sự phát triển của loại
cây này là điều không thể thực hiện. Nhưng với quyết định của vua Hùng sử dụng
trầu cau trong cả nước để thực hiện những nghi lễ trong quan hệ xã hội, thuộc
những vùng chịu ảnh hưởng của nền văn minh chính thống. Tất yếu phải có trao đổi
sản phẩm từ những vùng địa lý có khả năng trồng được và trồng nhiều trầu và
cau, đến những vùng không thể trồng được cây này. Như phần phân tích truyền
thuyết “Phù Đổng Thiên Vương” đã trình bày về sự phát triển của việc
trao đổi sản phẩm tiêu dùng từ trước thời Hùng Vương thứ VI. Với truyền thuyết
Trầu Cau thì sự trao đổi sản phẩm không còn giới hạn ở sản phẩm tiêu dùng, mà
đã xuất hiện sự trao đổi sản phẩm văn hóa. Đó chính là trầu cau được trao đổi với
tư cách là sản phẩm văn hóa, trước khi là một sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tiêu
dùng do thói quen ăn trầu. Vậy ngoài những sản phẩm văn hóa được trao đổi trên
thực tế là trầu cau đã chứng minh ở phần trên, thì người Việt thời Văn Lang còn
trao đổi những sản phẩm văn hóa khác nữa hay không, khi những nhu cầu văn hóa
đã xuất hiện? Khả năng trao đổi những sản phẩm văn hóa và trí tuệ hoàn toàn có
thể có. Như phần trên đã trình bày: xã hội Văn Lang đã có một hệ thống ý niệm
vũ trụ quan hoàn chỉnh của thuyết Âm Dương Ngũ hành với sự ứng dụng trong mọi
lĩnh vực liên quan đến con người và cuối cùng là văn học nghệ thuật (riêng phần
văn học nghệ thuật thời Hùng, xin được chứng minh rõ hơn qua truyền thuyết kể lại
về: Chuyện tình Trương Chi, Thạch Sanh, Mỵ Châu - Trọng Thủy và phần huyền thoại
của truyền thuyết Trầu Cau). Do đó, tất yếu xã hội Văn Lang phải có sự truyền
bá kiến thức để bảo đảm sự duy trì và phát triển của nền văn minh. Nhưng phương
tiện chuyển tải kiến thức dưới thời Hùng Vương là gì?
Phương tiện ghi nhận - chuyển tải tri thức trong thời Hùng
Vương
Ngành khảo cổ học Trung Hoa đã phát hiện được những mảnh
xương thú, mai rùa trên đó có khắc chữ viết ở Ân Khư thủ đô nhà Ân Thương. Hiện
tượng này là bằng chứng cho thấy: trước khi tìm ra giấy, những nền văn minh cổ ở
những vùng khác nhau trên thế giới đã ghi văn tự lên da, xương thú, trên đá...
Tất cả những phương tiện đó, đều chứng tỏ một nền văn minh có thể chưa phát triển
với những kiến thức còn đơn giản, hoặc sự phổ biến kiến thức còn hạn chế. Nhưng
với một khối lượng tri thức lớn như dưới thời Hùng Vương đã trình bày ở trên và
nhu cầu phổ biến trên một lãnh thổ rộng lớn - lại ở một xã hội nông nghiệp định
canh, định cư ổn định - thì lấy đâu ra một lượng da, xương lớn để làm phương tiện
chuyển tải chữ viết?
Dấu ấn xưa nhất chứng tỏ phương tiện chuyển tải tri thức của nền văn minh Văn
Lang, chính là mai con rùa. Điều này đã được nói tới trong sách Thông Chí của
Trịnh Tiều về việc tặng lịch cho vua Nghiêu. Những dấu ấn của nền văn minh Văn
Lang thời đầu lập quốc được minh chứng từ những cổ thư Trung Hoa, cũng được
phát hiện trên lưng rùa (Lạc thư, Hồng phạm). Hiện tượng này chứng tỏ vào thời
đầu lập quốc, các học giả Văn Lang đã sử dụng mai rùa để ghi lại những tri thức
của mình. Điều kiện tự nhiên đã tạo cho nền văn minh Văn Lang thực hiện điều
này, “giống rùa lớn chỉ có ở miền Nam sông Dương Tử”. Nhưng với sự
phát triển của nền văn minh, nhu cầu trao đổi tri thức ngày càng nhiều, thì việc
sử dụng mai rùa làm phương tiện chuyển tải, tất yếu sẽ không phải là một hiện
tượng phổ biến.
Phải chăng, việc sử dụng tre để khắc chữ của người Trung Hoa sau này bắt đầu từ
văn minh Văn Lang, khi ở đất nước này hoàn toàn có đầy đủ những nhu cầu và điều
kiện để thực hiện. Đó là từ phía Nam Động Đình Hồ đến hết biên giới phía Nam
Văn Lang là quê hương của tre nứa. Nếu như từ thuở hồng hoang trước thời lập quốc,
người Bách Việt có sử dụng xương thú hoặc mai rùa để khắc chữ, thì từ khoảng
ngót 1000 năm sau thời lập quốc với một nền văn minh phát triển, việc chuyển từ
xương thú hay mai rùa qua tre nứa, không phải là một việc đòi hỏi những tư duy
phức tạp hơn việc làm ra chiếc bánh chưng, bánh dầy. Lúc này rùa chỉ còn là một
biểu tượng của phương tiện chuyển tải tri thức của nền văn minh Văn Lang mà dấu
ấn còn để lại đến bây giờ, như là một sự tri ân loài linh vật đầu tiên phụng sự
cho nền văn minh Lạc Việt. Chính vì biểu tượng con rùa này trong truyền thuyết
và huyền thoại, là phương tiện để con cháu người Lạc Việt tìm lại dấu ấn của tổ
tiên mấy ngàn năm trước.
Để bạn đọc khỏi lật lại trang sách, xin được trích lại đoạn
sau đây trong sách Kinh Dịch - Cấu hình tư tưởng Trung Quốc (sách đã dẫn, trang
590), chúng tỏ điều này:
Đồng thời cũng có khoa đẩu văn (gọi như vậy vì chữ được viết bằng những que chấm
sơn trên thẻ tre, hay thẻ gỗ), nét sơn không đều hình con nòng nọc.
Như vậy, đoạn nói về những di vật đào được ở Ân Khư trích dẫn
trên, đã chứng tỏ rõ nét phương tiện chuyển tải chữ viết của ông cha ta, khi chữ
khoa đẩu - là chữ của người Việt có từ hơn 2000 tr.CN. (sách Thông Chí, đã
dẫn) - được viết bằng sơn trên tre nứa. Điều này cũng chứng tỏ rằng từ gần 2000
tr.CN, ông cha ta đã sử dụng sơn để viết chữ trên tre, gỗ chứ không phải khắc
trên tre, gỗ như người Trung Hoa sau này.
Giấy - Một khả năng đã xuất hiện dưới thời Hùng Vương?
Trong số những tranh dân gian của làng tranh Đông Hồ còn để lại
đến ngày nay, có rất nhiều bức tranh có liên hệ với những giá trị tư tưởng có từ
thời Hùng Vương, mang những dấu ấn của một nền minh triết Lạc Việt, cội nguồn của
văn minh Đông phương, như các tranh: Thầy đồ Cóc; Nhân Nghĩa (bé ôm Cóc); Lễ
Trí (bé ôm Rùa)... Sự hiện tồn của những bức tranh trên, khó có thể cho rằng nó
được thể hiện những giá trị văn hóa lưu truyền từ thời Hùng Vương, trên một
phương tiện xuất hiện sau đó là giấy Gió. Vì vậy, hoàn toàn có cơ sở để đặt vấn
đề cho rằng: người Lạc Việt đã làm ra giấy và những bức họa dân gian đã có từ
thời Hùng Vương. Lịch sử làng tranh Đông Hồ có từ hơn 400 năm nay. Nhưng trước
đó thì người Việt chắc chắn cũng đã có tranh. Tức là trước khi các nghệ nhân xứng
đáng được sự tôn trọng của người Việt tụ tập ở làng Đông Hồ, để gây dựng thành
một làng tranh nổi tiếng. Họ đã vẽ những bức tranh trên những tờ giấy gió là một
sản phẩm độc đáo của Việt Nam. Từ việc giã cây Quang Lăng để lấy bột làm lương
thực vào thời kỳ đầu lập quốc của Văn Lang (gần 3000 năm tr.CN), cho đến việc
giã cây gió để làm ra thứ giấy Gió nổi tiếng thì khoảng cách thời gian là bao
lâu? Phải chăng hình ảnh trên trống đồng được coi là người đọc văn bản đang cầm
một tờ giấy, khi hình vẽ thể hiện nếp uốn ở phía trên? (hình trang 93). Ý tưởng
cho rằng hình người trên trống đồng đang đọc văn bản viết trên giấy được tiếp tục
minh chứng ở mục “Y phục thời Hùng Vương” trong phần sau.
Giả thuyết về khả năng trong thời Hùng Vương ông cha ta đã làm ra giấy được củng
cố qua sự so sánh giữa hai hình sau đây.
Hình bên được chép lại từ trống đồng Hoàng Hạ, được các nhà
nghiên cứu cho rằng đây là hình giã gạo. Ở trên đầu hai nhân vật là hai con
chim mỏ ngắn thuộc loài chim có thể ăn hạt. Đây là biểu tượng của sự giã gạo hoặc
ngũ cốc.
So với hình bên được chép lại từ cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam (sách
đã dẫn), chú thích trong sách là hình “Nam nữ giã gạo”. Nhưng những ai đã
xem bộ phim “Sân trăng”, được đài truyền hình chiếu vào khoảng đầu năm 98 -
là một bộ phim có nội dung miêu tả lịch sử và sinh hoạt của các nghệ nhân làng
tranh Đông Hồ, thì thấy nó giống cảnh hai người giã cây gió làm giấy hơn. Hơn nữa,
trên đầu gậy lại có họa hai hình chữ nhật. Phải chăng, đó là biểu tượng thể hiện
sản phẩm giấy họ sẽ làm ra sau khi giã xong cối bột gió?
Những hình tượng này chỉ là cơ sở của một giả thuyết về khả năng thời Hùng
Vương đã làm ra giấy, không phải là yếu tố để minh chứng cho giả thuyết này.
Như vậy, với dấu ấn của trầu cau trong hôn lễ của người Lạc Việt và tục ăn trầu
tồn tại hàng ngàn năm ở vùng nam sông Dương Tử, và đến tận bây giờ ở Đài Loan,
đã chứng tỏ rằng:
@ Ngay từ trước thời Hùng Vương thứ VI, Văn Lang đã là một xã hội có những dấu ấn
chứng tỏ sự hoàn chỉnh của một nền văn minh phát triển. Nếu không phải là sớm
nhất và hơn hẳn so với các vùng khác trên thế giới, thì cũng là tương đương với
những nền văn minh kỳ vĩ khác của thế giới cổ đại, mà di tích còn lại của những
nền văn minh đó, đã gây ra sự kinh ngạc trong xã hội hiện đại.
@ Chứng tỏ một nền văn minh nông nghiệp phát triển cao và tồn tại hàng ngàn năm
ở miền nam sông Dương Tử. Bởi vì, phải có một bề dày trải hàng ngàn năm của
thói quen ăn trầu; thói quen đó phải được bảo trợ bằng quyền lực trong một xã hội cao cấp có tổ chức chặt chẽ và được
hình thành trong một cuộc sống ổn định rất lâu dài, mới có thể để lại dấu ấn
qua hàng ngàn năm thăng trầm của lịch sử trong thời Bắc thuộc và cho đến tận
bây giờ.
Thật đáng trân trọng thay! Khi thấy những đám cưới của người dân Lạc Việt - cho
đến tận bây giờ, vẫn trân trọng những truyền thống của tổ tiên - lại có mâm
cau, lá trầu: biểu tượng cho sự phú túc, nồng thắm và thủy chung của tình yêu
con người với sự ấn chứng thiêng liêng của tổ tiên!.
Hình phụ chương
Chữ Khoa Đẩu
Tư liệu chép trong Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam
CHƯƠNG 5
Cho nên chính sự hiện diện trên thực tế của miếng trầu quả
cau ở những vùng thuộc lãnh thổ Văn Lang cũ, đã chứng tỏ thực trạng xã hội Văn
Lang. Hoặc ở truyền thuyết “Bánh Chưng, bánh Dầy”, ngoài sự ấn chứng của vua
Hùng Vương thứ VI thì toàn bộ nội dung của truyền thuyết không ảnh hưởng gì đến
thuyết Âm Dương Ngũ hành nằm ngay trong hai vật lễ thiêng liêng của người Lạc
Việt. Còn ở truyền thuyết “Quả Dưa Hấu” thì sự hiện diện của quả dưa
hấu không nói lên được điều gì. Do đó, mọi ý tưởng của ông cha đều gửi gấm
trong chính nội dung của truyền thuyết này. Bởi vậy, sự tam sao thất bản qua
2000 năm thăng trầm của lịch sử, là một điều cản trở lớn đến việc tìm hiểu những
ý tưởng nằm trong truyền thuyết “Quả Dưa Hấu”. Có lẽ bởi vậy, ông cha ta
đã tạo nên kết cấu một chiều cho nội dung của truyền thuyết “Quả Dưa Hấu”, khi
lưu truyền trong dân gian. Trên thực tế sự tam sao thất bản đã xảy ra cho truyền
thuyết này. Vì vậy, trước khi tìm hiểu hàm nghĩa câu truyện, xin được tóm tắt
truyền thuyết “Quả Dưa Hấu” như sau:
@ Bắt đầu từ một nhận định của Mai An Tiêm thể hiện nhân sinh
quan của chàng, khiến vua Hùng nổi giận đày An Tiêm ra đảo.
@ Ở hoang đảo, An Tiêm đã chứng tỏ trên thực tế nhận định của mình.
@ Vua Hùng gián tiếp thừa nhận quan điểm của Mai An Tiêm, nên đã tha tội cho
chàng.
Vì vậy, vấn đề bắt đầu từ một nhận định của Mai An Tiêm thể hiện nhân sinh quan
của chàng và đây là điểm cốt lõi của sự việc. Nhưng so sánh “Sự tích Dưa Hấu” chép
trong cuốn sách xưa nhất là Lĩnh Nam Chích Quái (LNCQ) (sách đã dẫn)
với cuốn sách mới nhất chép lại sự tích này là Hợp tuyển truyện cổ tích Việt
Nam (HTTCTVN - Sách dùng trong nhà trường - Nxb Giáo Dục 1996 ) thì câu
nói của Mai An Tiêm là nguyên nhân diễn biến toàn bộ câu chuyện lại hoàn toàn
khác nhau.
Theo LNCQ thì câu nói của Mai An Tiêm là:
Đó là do tiền thân của ta, đâu phải ân chúa!
Theo HTTCTVN thì câu nói của Mai An Tiêm là:
Của được là của lo, của cho là của nợ.
Thái độ của vua Hùng với cả hai câu nói có nội dung khác nhau
này đều là:
Ngài cho Mai An Tiêm là kẻ vô ơn và trừng phạt chàng. Như vậy, tội của Mai An
Tiêm thuộc về phạm trù đạo đức. Từ đó dẫn đến một kết cấu vô lý là: không lẽ việc
tìm ra quả dưa hấu và sự phú túc của chàng trên hoang đảo, lại chứng tỏ được
chàng không vô ơn hay sao? Đây là những ý tưởng rất xa lạ với những giá trị
nhân bản được đề cao dưới thời Hùng Vương (sẽ tiếp tục được minh chứng qua các
chương sau).
Kết cấu câu chuyện với câu nói của cả hai cuốn sách nói trên, thật là khó lý giải.
Nếu không muốn nói là phi lý. Do đó, hoàn toàn có cơ sở cho rằng: cả hai cuốn
sách nói trên, chưa phản ánh đúng thực tế câu nói nguyên thủy của Mai An Tiêm
trong truyền thuyết.
Với từ “tiền thân”, tức là kiếp trước, nghiệp báo ở câu nói của Mai
An Tiêm trong LNCQ, mang nội dung tư tưởng Phật giáo. Sách LNCQ không phải chỉ
một lần thể hiện tư tưởng Phật giáo, trong truyện “Nhất Dạ Trạch” cũng
có đoạn chép: “Đồng Tử trở về, giảng lại đạo Phật”. Trong khi đó, lịch sử
Phật giáo ghi nhận: những dấu ấn chứng tỏ Phật giáo hiện diện ở Việt Nam bắt đầu
từ đầu thế kỷ thứ II sau CN. So sánh câu trước của Mai An Tiêm và câu sau khi
chàng nói với vợ trên hoang đảo “Trời đã sinh ra ta tất nuôi nổi ta, sống chết bởi
trời ta đâu lo lắng!” thì không có sự đồng nhất về ý tưởng: câu trước nói
đến tiền thân (kiếp trước), câu sau nói đến ý trời. Như vậy, câu nói của Mai An
Tiêm trong LNTQ là do đời sau thêm vào.
Nhưng với HTTCTVN thì câu: “Của được là của lo, của cho là của nợ!” là
nguyên văn của câu tục ngữ đã lưu truyền từ lâu trong dân gian. Câu tục ngữ này
gồm hai vế. Vế thứ nhất: “Của được là của lo”, mang hàm ý: muốn được của cải
để có sự phú túc thì phải biết lo lắng; hoặc là: của tự dưng mà có thì phải lo
sợ vì nguồn gốc của nó. Vế thứ hai: “Của cho là của nợ”, mang hàm ý phải biết
ơn người đã cho mình của cải (trả ơn, nợ); hoặc là: của tự dưng mà người ta cho
mình, không rõ nguyên nhân thì tức là phải nợ người ta một cái gì đó. Nhưng
toàn bộ câu thì lại mang hàm ý khuyên không nên mang cái lo và cái nợ vào mình.
Với ý nghĩa trên thì dù Mai An Tiêm là tác giả của câu tục ngữ Việt Nam đó,
đáng nhẽ chàng phải từ chối những của cải mà vua Hùng ban cho chàng. Nhưng ngay
cả khi từ chối của cải của vua ban, chàng cũng không thể nói câu đó. Bởi vì
quan hệ của chàng với vua Hùng - ngoài quan hệ cá nhân - còn là trách nhiệm của
người dân đối với đất nước mà vua Hùng là đại diện. Nếu cho rằng Mai An Tiêm là
người ngoại quốc, nên không có trách nhiệm với một quốc gia không phải quê
hương ông. Nhưng ít nhất cũng phải tồn tại một giá trị đạo lý về tình người và
cái nghĩa đối với một quốc gia đã dung nạp mình, khi vua Hùng đã dành nhiều ân
sủng cho Mai An Tiêm. Như vậy, chứng tỏ câu nói này của Mai An Tiêm trong
HTTCTVN cũng là sự nhầm lẫn, do cách hiểu về nội dung và truyền thuyết nói
trên.
Sự sửa chữa của đời sau theo cách hiểu của thời đại đó được chứng minh ở trên,
là một yếu tố chứng tỏ rằng: truyền thuyết “Sự tích Dưa Hấu” cũng như
toàn bộ truyền thuyết về thời Hùng Vương, đều đã tồn tại và phổ biến từ rất lâu
trong văn hóa dân gian như một hiện tượng xã hội, nên đã được các học giả Việt
Nam ở thế kỷ XIV sưu tầm, tìm hiểu chứ không phải là những câu chuyện được tạo
dựng vào thế kỷ này như một số nhà nghiên cứu quan niệm. Bởi vì, nếu là một câu
chuyện được tạo dựng thì ít nhất nó cũng bảo đảm được tính nhất quán cho nội
dung câu chuyện, dù ở bất cứ trình độ nào.
Nhưng, câu nói thực sự của Mai An Tiêm trong truyền thuyết nguyên thủy về “Quả
Dưa Hấu” là gì?
Như phần chứng minh ở trên thì cả hai câu trong cuốn sách cổ nhất và mới nhất,
đều không phải đích thực câu nói nguyên thủy của Mai An Tiêm trong truyền thuyết.
Nhưng cả hai câu đều mang hàm ý triết lý về nhân sinh quan. Như vậy, nó phải là
sự thay thế sai lầm cho một câu triết lý phản ánh nhân sinh quan của Mai An
Tiêm. Quan điểm của Mai An Tiêm đã được chứng thực ở đoạn sau, nên đã được vua
Hùng gián tiếp thừa nhận bằng cách tha tội cho chàng. Do đó, có thể căn cứ vào
diễn biến nội dung của đoạn sau để suy đoán câu nói của Mai An Tiêm ở đoạn trước.
Đoạn này có những tình tiết như sau:
@ Mai An Tiêm và gia đình bị đày ra một đảo hoang, nhưng
chàng vẫn chấp nhận và sẵn sàng cho cuộc sống của mình. Điều này chứng tỏ chàng
vẫn tự khẳng định mình.
@ Mai An Tiêm gặp may vì có con chim trắng từ phía Tây mang đến cho gia đình
chàng những hạt giống dưa. Sự gặp may của Mai An Tiêm - theo cách nói của người
xưa - tức là trời cho. Nhưng nếu Mai An Tiêm không tự khẳng định mình bằng sự cố
gắng của con người thì không có sự may mắn đó.
Như vậy trong trường hợp của Mai An Tiêm chứng tỏ rằng: con người và hoàn cảnh
là hai yếu tố cấu thành nên số phận. Phải chăng, qua truyền thuyết Dưa Hấu, tổ
tiên ta đã nhắc nhở con cháu đời sau về khả năng của con người trong việc khắc
phục hoàn cảnh.
Trong nội dung câu chuyện, sự tức giận của vua Hùng rất có khả năng ngài thiên
về phía thiên mệnh (số phận - đây có thể chỉ là một tình tiết hư cấu để tạo nội
dung cho câu chuyện, trên thực tế chưa hẳn vua Hùng đã ủng hộ thuyết thiên mệnh.
Bởi vì, nếu có sự ủng hộ đó thì đã không có câu chuyện này). Với sự chứng minh ở
phần trên - nền văn minh Văn Lang đã phát hiện quy luật vận động của các thiên
thể và những hiệu ứng vũ trụ tác động tới tự nhiên, cuộc sống và tâm sinh lý của
con người - nên ông cha ta thường có những dự đoán tương lai trên cơ sở quy luật
đã nắm bắt được (Trù thứ bảy - Kê Nghi trong Hồng phạm cửu trù thể hiện điều
này). Nhưng cũng không cho sự dự đoán là tuyệt đối (nếu ba người cùng bói thì
theo hai người - Hồng phạm).
Do đó, câu nói của Mai An Tiêm và diễn biến hợp lý nhất phải mang một nội dung
như trên. Thí dụ có thể là:
“Tất cả do trời định và sự cố gắng của bản thân nên mới được
như vậy!”. Vua Hùng buộc chàng phải chứng minh điều này. Chàng đã chấp nhận,
cùng vợ con ra đảo để chứng tỏ quan điểm của mình. Do đó câu nói của Mai An
Tiêm trên hoang đảo (trong Lĩnh Nam chích quái, sách đã dẫn) phải điều chỉnh
lại như sau: “Trời đã bắt ta như vậy thì chỉ còn cách cố gắng, lo lắng
cũng vô ích!”. (So với câu này trong Lĩnh Nam chích quái là: “Trời
sinh ra ta, sống chết bởi trời ta đâu lo lắng!”).
Với sự hiệu chỉnh trên thì kết cấu câu chuyện sẽ hợp lý, ít nhất cũng là với nội
dung của câu chuyện đã được sửa đổi. Để độc giả tiện minh xác, xin chép lại câu
chuyện từ Lĩnh Nam chích quái (sách đã dẫn) với hai câu nói của Mai
An Tiêm đã sửa đổi (những chỗ nào sửa, được in bằng chữ đậm và kèm nguyên văn bản
cũ trong ngoặc, bên cạnh).
Truyện Dưa Hấu
Về đời Hùng Vương có viên quan tên là Mai Tiêm, vốn người ngoại
quốc. Khi lên 7, 8 tuổi, vua mua từ thương thuyền về làm nô bộc. Kịp tới khi lớn
lên diện mạo đoan chính, nhớ thuộc sự vật, vua ban tên cho là Mai Yến, hiệu An
Tiêm, lại ban cho một người thiếp. Tiêm sinh hạ được một trai, một gái. Vua rất
tin yêu, giao cho công việc, dần dần trở nên yêu quí, bổng lộc rất nhiều.
An Tiêm là người tự tin thường nói rằng: “Tất cả do trời định và sự cố gắng
của bản thân nên mới được như vậy” (Sau, Tiêm đâm ra kiêu căng ngạo mạn,
thường nói rằng: “Đó đều do tiền thân của ta, đâu phải do ơn chúa”). Vua nghe
nói cả giận phán: “Nay ta đưa ngươi ra một nơi không có người giữa bể, xem
người chứng tỏ những ý nghĩ của ngươi như thế nào?” (Vua nghe nói cả giận,
phán: “Làm thần tử của người mà kiêu căng ngạo mạn, không biết ơn chúa, lại nói
đều là vật tiền thân! Nay đưa nhà ngươi ra một nơi không có người giữa bể, xem
có còn vật tiền thân không?”). Bèn đưa (đày) ra cửa biển Nga Sơn (còn
gọi là Giáp Sơn) bốn bể toàn cát và nước, không có vết chân người qua lại, ban
cho một số lương thực đủ bốn năm tháng để cho ăn (hết thì chết).
Vợ Tiêm than khóc, Tiêm cười mà bảo: “Trời đã bắt ta như vậy, chỉ còn cách
cố gắng, lo lắng cũng vô ích!” (“Trời đã sinh ta tất nuôi nổi ta, sống chết
bởi trời, ta đâu lo lắng”). Bỗng thấy một con bạch trĩ từ phương Tây bay lại đậu
ở đầu núi, kêu ba bốn tiếng. Sáu bảy hạt dưa theo tiếng kêu mà rơi xuống cát, mọc
lên xanh rì rồi kết thành quả.
An Tiêm mừng rỡ mà nói: “Đây không phải là quái vật mà là trời cho để nuôi ta
đó”. Bèn bổ ra mà ăn, thấy vị mát ngọt, tinh thần sảng khoái, mới giữ lấy hạt,
năm sau đem trồng. Ăn hết, lại đem đổi lấy gạo nuôi vợ con. Tiêm không biết gọi
là quả gì, nhân vì chim trĩ ngậm hạt từ phương Tây bay tới nên gọi là quả Tây
Qua.
Phường chài phường buôn đều cho là ngon. Những người ở thôn xóm xa gần đều mua
để lấy giống. Sau vua nghĩ tới Tiêm, cho người đến xem An Tiêm sống ra làm
sao (còn sống hay đã chết). Người đó về tâu lại với vua, vua thở dài mà
than rằng: “Điều hắn nói quả thật không ngoa” (“Hắn nói là vật tiền
thân, điều đó thật không ngoa”). Bèn xuống chiếu gọi về cho phục chức cũ, lại cấp
cho nô tì; gọi bãi cát Tiêm ở là bãi An Tiêm, làng đó gọi là làng Mai Thôn. Có
người lại suy tôn cha mẹ ông bà An Tiêm mà cho rằng nơi họ ở là châu An Tiêm
thuộc tỉnh Thanh Hóa.
Như vậy với nội dung của câu chuyện thì thuyết “Thiên nhân hợp
nhất” cho rằng gốc ở Trung Hoa (do Đổng Trọng Thư người thời Hán đề xướng), thực
ra đó là thuyết đã có từ thời Hùng Vương. Hùng Vương tha tội cho An Tiêm, chứng
tỏ đã dung nạp thuyết này. Từ sự hình thành nhân sinh quan “Thiên nhân hợp nhất”
dẫn đến một ý niệm tín ngưỡng về sự hòa nhập cuộc sống của con người với thiên
nhiên trong “Sự tích Đầm Nhất Dạ” là một khoảng cách ngắn (xin xem chương sau:
“Sự tích Đầm Nhất Dạ”).
Trong “Sự tích Dưa Hấu” có những tình tiết rất đáng chú ý: Mai An
Tiêm là người ngoại quốc, vậy phải chăng truyền thuyết “Quả Dưa Hấu” đã chứng tỏ
sự tiếp thu của vua Hùng đối với những tinh hoa văn hóa bên ngoài. Do đó, vua
Hùng đòi hỏi phải có sự chứng minh trên thực tế. Ý tưởng của câu chuyện không
phải chỉ dừng lại ở đấy, mà còn chứng tỏ một quan hệ ngoại giao rộng rãi của
Văn Lang với các quốc gia lân bang. Hình ảnh con chim trắng từ phía Tây bay lại,
điều này có thể suy diễn như sau: màu trắng của con chim thuộc hành Kim, chủ
phương Tây. Hướng của con chim bay từ phía Tây lại chứng tỏ rằng những ý tưởng
của văn minh bên ngoài du nhập vào Văn Lang từ những quốc gia phía Tây. So sánh
những quốc gia cổ đại có nền văn minh phát triển vào khoảng giữa thời Hùng
Vương có khả năng truyền bá văn minh của mình ở phía Tây Văn Lang, rất có khả
năng là Ấn Độ hoặc những nước có ảnh hưởng nền văn minh này ở phía Tây Văn
Lang.
Nếu giả thuyết trên là đúng thì điều này giải thích sự có mặt của những chiếc
trống đồng Văn Lang, nằm rải rác ở một số vùng Đông Nam Á không thuộc lãnh thổ
Văn Lang: nếu không phải do buôn bán thì cũng là một tài sản do sự di trú của
người Lạc Việt mang theo khi Văn Lang bị tiêu diệt. Với cả hai lý do trên thì
cũng chứng tỏ quan hệ láng giềng trước đó của Văn Lang.
Sự tích về quả dưa hấu chứng tỏ quan hệ ngoại giao của Văn Lang với các nước
láng giềng, một yếu tố không thể thiếu được để chứng tỏ sự phát triển của nền
văn minh và sự phú túc, hùng mạnh của xã hội Văn Lang.
Sự tích Dưa Hấu có thể còn chứa đựng nhiều sự bí ẩn, đề cập đến nhiền vấn đề
qua hình tượng được ông cha ta lựa chọn để chuyển tải cho đời sau. Quả Dưa Hấu
có thể là một biểu tượng của vũ trụ, những hạt dưa được xem là những ngôi sao
trên bầu trời. Qua câu truyện “Sự tích Dưa Hấu” có thể chứa đựng ẩn ý
nói đến nguồn gốc nền văn minh Văn Lang trước khi xuất hiện ở phía Nam Động
Đình Hồ (chim trắng mang hạt dưa từ phía Tây bay lại). Nguồn gốc phương Tây của
quả dưa hấu còn liên quan đến những truyền thuyết khác: thí dụ như việc Lão Tử
về cuối đời, cưỡi trâu xanh đi về phía Tây; hoặc như kinh Vệ Đà của đạo Bà La
Môn một triết thuyết cổ Ấn Độ, có những dấu ấn gần giống với quan niệm giải
thích về bản nguyên vũ trụ của nền văn minh Văn Lang qua câu tục ngữ “Mẹ
tròn con vuông”; mặc dù từ một ý niệm gần giống này sự phát triển của Kinh
Vệ Đà đi theo xu hướng tôn giáo; hay như trong kinh Dịch, tiết 5 thuyết Quái
truyện viết: “Thuyết ngôn hồ Đoài” (Vui vẻ nói ở Đoài). Trong kinh Dịch
cung Đoài có phương vị ở phía Tây.
Phải chăng từ trước những nền văn minh tối cổ như Văn Lang, Ai Cập, Ấn Độ, Hoa
Hạ... đã tồn tại một nền văn minh rực rỡ của nhân loại và nền văn minh đó đã bị
hủy diệt? (*)
Chú thích: (*) Ý tưởng này được phát triển và liên hệ rõ hơn
trong “Tìm về cội nguồn Kinh Dịch”, Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nxb Đại học Quốc gia
T/p HCM.CHƯƠNG 6
Do đó truyền thuyết về Chử Đồng Tử, một trong những truyền
thuyết phổ biến trong dân gian, chắc chắn không phải chỉ để giải thích về
nguyên nhân cái đầm nằm ở Hải Dương bây giờ. Vì vậy, muốn có một sự phân tích
chu đáo về truyền thuyết này cũng phải lược lại những yếu tố do đời sau thêm
vào, để tìm đến nội dung ban đầu đích thực của nó. Trước hết, xin độc giả xem lại
toàn bộ truyền thuyết của truyện “Nhất Dạ Trạch” trong Lĩnh Nam
chích quái (sách đã dẫn):
Truyện Nhất Dạ trạch
Hùng Vương truyền tới đời thứ III (Truyền thuyết Hùng
Vương - thần thoại Vĩnh Phú, sách đã dẫn và truyền thuyết còn lưu truyền trong
dân gian nói: Vào đời Hùng Vương thứ XVIII) thì hạ sinh được con gái tên
là Tiên Dung - Mỵ Nương đến tuổi 18 dung mạo đẹp đẽ, không muốn lấy chồng, chỉ
mải vui chơi chu du khắp thiên hạ. Vua cũng không cấm. Mỗi năm vào khoảng tháng
hai, tháng ba lại sắm sửa thuyền bè chèo chơi ở ngoài bể vui quên trở về.
Hồi đó, ở làng Chử Xá cạnh sông lớn có người dân tên là Chử Vi Vân sinh hạ được
Chử Đồng Tử (có nghĩa là người con trai ở bến sông), cha từ con hiếu. Nhà gặp hỏa
hoạn, của cải sạch không, còn một khố vải cha con ra vào thay nhau mà mặc. Kịp
tới lúc cha già ốm, bảo con rằng: “Cha chết cứ để trần mà chôn, giữ khố lại cho
con”. Con không nỡ làm theo, dùng khố mà liệm bố.
Đồng Tử thân thể trần truồng đói rét khổ sở, đứng ở bên sông, hễ nhìn thấy thuyền
buôn qua lại thì đứng dưới nước mà ăn xin, rồi lại câu cá độ thân. Không ngờ
thuyền Tiên Dung tới, chiêng trống đàn sáo, kẻ hầu người hạ rất đông. Đồng Tử rất
kinh sợ.
Trên bãi cát có khóm lau sậy, lưa thưa dăm ba cây. Đồng Tử bèn nấp trong đó, bới
cát thành lỗ nằm xuống mà phủ cát lên mình. Thoắt sau, Tiên Dung cắm thuyền dạo
chơi trên bãi cát, ra lệnh vây màn trướng ở khóm lau mà tắm. Tiên Dung vào màn
cởi áo dội nước, cát trôi mất, trông thấy Đồng Tử. Tiên Dung kinh sợ hồi lâu,
thấy con trai bèn nói: “Ta vốn không muốn lấy chồng, nay lại gặp người này, cùng
ở trần với nhau trong một hố, đó chính là trời xui nên vậy. Người hãy đứng dậy
tắm rửa, ta ban cho quần áo mặc rồi cùng ta xuống thuyền mở tiệc ăn mừng”. Người
trong thuyền đều cho đó là cuộc giai ngộ xưa nay chưa từng có. Đồng Tử nói là tại
sao mà lại nấp ở đấy. Tiên Dung ta thán rồi ép làm vợ chồng. Đồng Tử cố từ,
Tiên Dung nói: “Đây là do trời chắp nối, sao cứ chối từ?”.
Người theo hầu vội về tâu lại với vua. Hùng Vương nói: “Tiên Dung không thiết
danh tiết, không màng của cải của ta, ngao du bên ngoài, hạ mình lấy kẻ bần
nhân, còn mặt mũi nào trông thấy ta nữa”.
Tiên Dung nghe thấy, sợ không dám về, bèn cùng Đồng Tử mở bến chợ, lập phố xá,
cùng dân buôn bán, dần dần trở thành cái chợ lớn (nay là chợ Thám, còn gọi
là chợ Hà Lương). Phú thương ngoại quốc tới buôn bán, thờ Tiên Dung, Đồng
Tử làm chúa. Có người lái buôn giàu nói rằng: “Quí nhân bỏ một dật vàng ra
ngoài biển mua vật quí, sang năm có thể thành mười dật”. Tiên Dung cả mừng bảo
Đồng Tử: “Vợ chồng chúng ta do trời tác thành, đồ ăn thức mặc do trời phú cho,
hãy đem vàng cùng phú thương ra hải ngoại buôn bán”.
Có núi Quỳnh Viên, trên núi có am nhỏ, bọn lái buôn thường ghé thuyền ở đó lấy
nước ngọt. Đồng Tử lên am chơi, có tiểu tăng tên gọi là Ngưỡng Quang truyền
phép cho Đồng Tử. Đồng Tử lưu học ở đó, giao hàng cho lái buôn mua hàng. Sau
lái buôn quay lại am chở Đồng Tử về. Sư tặng Đồng Tử một cây trượng và một chiếc
nón (Theo truyền thuyết dân gian Việt Nam thì là “cây gậy và chiếc nón” -
người viết.) mà nói rằng: “Linh thiêng ở những vật này đây”.
Đồng Tử trở về, giảng lại đạo Phật, Tiên Dung giác ngộ, bỏ phố phường, cơ nghiệp,
rồi cả hai tìm thầy học đạo. Trên đường viễn hành, trời tối mà chưa thấy thôn
xá, hai người tạm nghỉ ở giữa đường, cắm trượng, che nón mà trú thân. Đến canh
ba thấy hiện ra thành quách, lầu ngọc, điện vàng, đền đài dinh thự, phủ kho miếu
xã, vàng bạc châu báu, giường chiếu chăn màn, tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ
la liệt trước mắt. Sáng hôm sau ai trông cũng kinh lạ, đem hương hoa, thức ăn
quý tới mà xin làm bầy tôi. Có văn võ bá quan chia túc quân vệ, lập thành nước
riêng.
Hùng Vương nghe tin cho rằng con gái làm loạn, bèn sai quân tới đánh. Quần thần
xin đem quân ra phân nhau chống giữ. Tiên Dung cười mà bảo: “Điều đó ta không
muốn làm, do trời định đó thôi, sinh tử tại trời, há đâu dám chống lại cha, chỉ
xin nhận theo lẽ chính, mặc cho đao kiếm chém giết”.
Lúc đó dân mới đến đều kinh sợ tản đi, chỉ có dân cũ ở lại. Quan quân tới, đóng
trại ở châu Tự Nhiên, còn cách sông lớn thì trời tối không kịp tiến quân.
Nửa đêm gió thổi bay cát nhổ cây, quan quân hỗn loạn. Tiên Dung cùng thủ hạ,
thành quách phút chốc bay tản lên trời, chỗ đất đó tuột xuống thành cái chằm lớn.
Dân bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, gọi chằm là chằm Nhất Dạ Trạch (nghĩa
là chằm một đêm), gọi bãi là bãi Mạn Trù (bãi Màn Trướng), gọi chợ là chợ
Thám còn gọi là chợ Hà Lương.
Sau vua Hậu Lương là Diễn sai Trần Bá Tiên đem quân sang xâm lược phương Nam.
Lý Nam Đế sai Triệu Quang Phục làm tướng cự địch. Quang Phục sai quân nấp ở chằm.
Chằm sâu mà rộng, lầy lội, tiến binh rất khó, Quang Phục dùng thuyền độc mộc đột
xuất ra đánh cướp lương thực, cầm cự lâu ngày làm cho quân giặc mệt mỏi, trong
ba bốn năm không hề đối diện chiến đấu. Bá Tiên than rằng: “Ngày xưa đây là chằm
một đêm bay về trời, nay lại là chằm một đêm cướp một người”.
Nhân gặp loạn Hầu Cảnh vua nhà Lương bèn gọi Bá Tiên về, ủy cho tùy tướng là
Dương Sằn thống lĩnh sĩ tốt. Quang Phục ăn chay lập đàn ở giữa đầm, đốt hương
mà cầu đảo, bỗng thấy thần nhân cưỡi rồng bay vào trong đàn mà bảo Quang Phục rằng:
“Hiển linh còn đó, người có thể cầu tới cứu trợ để dẹp bằng họa loạn”. Dứt lời,
tháo vuốt rồng cho Quang Phục, bảo: “Đem vật này đeo lên mũ đâu mâu có thể khiến
giặc bị diệt”. Đoạn bay lên trời mà đi.
Quang Phục được vật đó, reo mừng vang động, xông ra đột chiến, quân Lương thua
to. Chém Dương Sằn trước trận, giặc Lương phải lùi. Quang Phục nghe tin Nam Đế
mất, bèn tự lập làm Việt Vương, xây thành ở Trâu Sơn, huyện Vũ Ninh. (Có
chỗ viết là Châu Quỳnh Viên Sơn tức Kim Mộc Sơn ở cửa Nam Giới, huyện Thạch
Hà).
Như vấn đề sự tam sao thất bản đã trình bày ở trên, qua “Sự
tích Đầm Nhất Dạ”, bạn đọc có thể nhận ngay những yếu tố do đời sau thêm
vào, đó là:
@ Toàn bộ đoạn nói về cuộc chiến do ngài Triệu Quang Phục
lãnh đạo với quân nhà Lương.
@ Chử Đồng Tử đi học đạo Phật ở núi Quỳnh Viên. Được sư thầy tặng bảo bối là
cây trượng và chiếc nón. Sau đó về giảng lại đạo Phật cho Tiên Dung. Tiên Dung
giác ngộ đạo Phật.
Đây là một yếu tố do đời sau thêm vào. Bởi vì lịch sử Phật giáo đã ghi nhận: Phật
giáo truyền vào Giao Chỉ ở đầu thế kỷ thứ II sau CN, tức là sau khi kết thúc thời
Hùng Vương hơn 400 năm. Do đó, không thể Tiên Dung và Chử Đồng Tử đi học đạo Phật
được, cho dù đó là cuối thời Hùng Vương thứ XVIII. Hơn nữa, giáo lý của đạo Phật
nhằm hướng dẫn con người trở về với bản tính – còn gọi là Như Lai tạng tính – để
đi đến một sự hòa nhập với bản nguyên chân như, tức là đạt đến sự giải thoát
hoàn toàn (cõi Niết Bàn), không thể có việc sử dụng bảo bối, bùa phép thần
thông biến hóa như đạo Giáo. Vì vậy, có thể khẳng định rằng việc đưa đạo Phật
vào nội dung “Sự Tích Đầm Nhất Dạ” hoàn toàn do đời sau thêm vào.
Trong đền thờ ngài Chử Đồng Tử cũng có biểu tượng cây gậy và chiếc nón, chứ
không phải cây thiền trượng của Phật giáo.
Một yếu tố nữa thể hiện quan điểm của Hán Nho, đặc biệt là Tống Nho cũng được
gán vào trong câu chuyện này. Đó là khi nghe tin Tiên Dung lấy Chử Đồng Tử, vua
Hùng Vương nói: “Tiên Dung không thiết danh tiết...”. Ý niệm về danh
tiết chỉ bắt đầu từ ý thức hệ trong xã hội phong kiến Trung Hoa kể từ khi Nho học
có ảnh hưởng mạnh, đặc biệt là Tống Nho. Trước đó, vào thời Xuân Thu Chiến quốc,
ý niệm này không được tôn trọng (thời điểm ra đời của cuốn Lĩnh Nam chích
quái là lúc Nho giáo được xiển dương dưới triều Hồng Đức và ảnh hưởng của
Phật giáo trước đó là quốc giáo vẫn còn rất mạnh).
Sau khi loại trừ yếu tố Hán Nho và Phật học nói trên, thì cốt truyện này được
tóm lược để tìm đến ý tưởng của tác giả như sau:
@ Chử Đồng Tử rất có hiếu và nhà nghèo, chỉ có một cái khố duy nhất.
@ Công chúa đi du ngoạn, tắm ở mé sông, gặp Chử Đồng Tử trong một tình trạng
khó xử. Hai người lấy nhau.
@ Họ ra riêng và tạo dựng được cơ nghiệp, đem lại sự trù phú cho cả một vùng.
@ Chử Đồng Tử đi học đạo, đắc đạo và truyền lại cho Tiên Dung.
@ Hai vợ chồng bỏ cơ nghiệp đi học đạo tiếp tục. Do thần thông, tạo dựng nên một
quốc gia riêng.
@ Vua Hùng đem quân tới. Toàn bộ nhà cửa thành quách biến mất chỉ trong một
đêm. Hai vợ chồng bay lên trời.
Với nội dung như trên thì yếu tố đầu tiên dễ nhận thấy là: sự
phù hoa chỉ là hư ảo. Chử Đồng Tử rất nghèo “cái khố không có mà mặc”. Lấy
được công chúa, tự tạo nên sự phú túc cho mình. Bỏ đi học đạo. Tạo nên sự phú
quý tột đỉnh (làm vua). Rồi lại bỏ đi hết để vào cõi bất tử. Có lẽ nội dung câu
chuyện đầy tính huyền thoại này có một số yếu tố rất gần với quan niệm Phật
giáo. Do đó, đã có sự thay thế giữa vị đạo sĩ (như “Truyền thuyết Trầu
Cau” - Đạo sĩ họ Lưu) bằng vị Phật hoặc sư theo đạo Phật. Nhưng nếu là đạo
sĩ tất nhiên không phải là tín đồ Lão – Trang mà là chỉ nói tới con người uyên
bác (sĩ) và cái học hướng tới một đỉnh cao nào đó (đạo). Về sau từ đạo sĩ để chỉ
những người tu tiên. Như vậy, với nội dung gần gũi thì “Truyền thuyết Đầm
Nhất Dạ” nói về sự vô thường của cuộc đời và đề cao giá trị tâm linh.
Câu chuyện này về mặt nghệ thuật còn có những hình tượng và kết cấu rất huyền ảo,
độc đáo. Hình ảnh người nghèo đến nỗi không có cái khố để mặc, lấy một cô công
chúa kiều diễm trong một hoàn cảnh đặc biệt. Đây là một sự tuyệt đỉnh của tính
hư cấu hợp lý, hầu như không có khảo dị cho những trường hợp tương tự ở bất cứ
một truyện cổ tích nào trên thế giới. Trong những truyện cổ tích phổ biến của
thế giới, chúng ta hay gặp những hình ảnh: một chàng trai nghèo khổ nào đó,
tình cờ gặp bầy tiên tắm bên suối, rồi giấu quần áo, cánh... để lấy làm vợ thì
nhiều vô kể. Nhưng để đạt đến quan hệ vợ chồng với lối kết cấu đó lại nặng tính
cưỡng chế, thỏa mãn dục vọng. Hoặc cũng có nhiều chuyện cổ tích miêu tả những
chàng trai con nhà nghèo, gặp may mắn, hay nhờ sự hỗ trợ của thần thánh, lập
chiến công rồi lấy công chúa… Còn ở hoàn cảnh của Chử Đồng Tử và Tiên Dung thì
lại có sự hài hòa của bản tính tự nhiên của con người với những giá trị đạo lý
giàu chất nhân bản. Mặc dù trước đó, Chử Đồng Tử nghèo đến mức khó có thể lấy vợ;
công chúa Tiên Dung thì lại không muốn lấy chồng. Đó cũng là một cách giải quyết
tài tình, có hậu cho một người con chí hiếu. Như vậy, qua đoạn mở đầu với những
hình ảnh đối lập đầy ấn tượng giữa sự phú quý tột đỉnh của công chúa Tiên Dung
và cái nghèo nàn đói khó đến cùng cực của Chử Đồng Tử; diễn biến sự kiện đầy kịch
tính và sự hư cấu cao độ, nhưng hoàn toàn hợp lý và giầu chất nhân bản; đã cho
thấy trí tưởng tuợng rất phong phú, giầu chất lãng mạn của những tác gia thời
Hùng Vương. Có thể nói, những tác gia đời Hùng đã đạt đến trình độ bậc thầy về
tuyệt kỹ trong văn học (rất tiếc trải qua hơn 2000 năm thăng trầm của lịch sử,
câu chuyện chỉ còn lại cốt lõi của nó; nếu không, chắc chắn sẽ vô cùng hấp dẫn).
Những vấn đề cần phải minh chứng liên quan đến thực trạng xã hội Văn Lang trong
truyện này, bắt đầu từ hình ảnh gây ấn tượng mạnh mẽ nhất, đó chính là sự chí
hiếu của Chử Đồng Tử: nhường cái khố cuối cùng cho cha để chấp nhận “Nghèo
đến không có khố mà mang”. Câu thành ngữ vẫn còn được phổ biến trong dân
gian Việt Nam cho đến nửa đầu thế kỷ 20 này, phải chăng có xuất xứ từ “Sự
tích Đầm Nhất Dạ”. Từ đó đặt ra một vấn đề: người giàu mặc cái gì?.Chử Đồng Tử và Tiên DungTranh lụa màu của họa sĩ Nguyễn Phan ChánhCHƯƠNG VI - 1
Qua cuộc đời của ông cho thấy ít nhất căn bản quan niệm nhân
sinh quan của Chử Đồng Tử là: của cải thế nhân và sự thăng trầm của cuộc đời chỉ
là phù du. Trong truyền thuyết Đầm Nhất Dạ nói tới sự kiện Chử Đồng Tử,
Tiên Dung đắc đạo và tạo dựng một vương quốc hư ảo cho mình bằng quyền năng của
thần thánh. Đây là hình ảnh của một thế giới tâm linh tạo nên tín ngưỡng của
người dân Lạc Việt thời Hùng.
Hình ảnh cuối cùng của truyền thuyết này là lâu đài, cung điện nguy nga biến mất
chỉ trong một đêm, để lại cho thế nhân một đầm nước long lanh, phản chiếu những
hình ảnh hư ảo của cuộc đời qua hàng thiên niên kỷ.
Lý ngư vọng Nguyệt
Tranh dân gian Hàng Trống
Phải chăng đây là một bức tranh mang màu sắc
Đạo giáo của Chử Đồng Tử, miêu tả
những ảo vọng
của cuộc đời qua bòng trăng soi đáy nước?
Như những chương trên đã trình bày: thuyết Âm Dương Ngũ hành là hệ tư tưởng vũ
trụ quan chính thống của thời Hùng Vương, giải thích từ bản nguyên vũ trụ là
Thái Cực đến sự vận động của nó là Âm Dương Ngũ hành. Tính bao trùm về mọi mặt
và sự ứng dụng rộng rãi trên thực tế đã chứng tỏ sự thuyết phục của học thuyết
này. Do đó, không thể có cơ sở từ ngay trong tâm lý để phát sinh và tồn tại một
hệ tư tưởng tôn giáo vượt ra ngoài giá trị của nó. Nhưng về nhân sinh quan, xuất
phát từ những giá trị đạo lý đề cao tình người và tính nhân bản, cộng với tri
thức sâu sắc trong thiên văn qua sự vận động của những tinh tú ảnh hưởng đến
chu kỳ sinh học của con người - tức là sự chi phối của sức mạnh thiên nhiên. Đồng
thời nền văn minh đó cũng thừa nhận khả năng của con người trong sự tương tác
giữa con người với thiên nhiên (Sự tích Dưa Hấu). Do đó, tín ngưỡng mà ngài Chử
Đồng Tử và công chúa Tiên Dung tạo dựng, chỉ có thể hướng con người vươn tới sự
hòa nhập với thiên nhiên hoặc đạt tới những quyền năng của thiên nhiên trong sự
vận động của Âm Dương Ngũ hành. Trên thực tế, truyền thuyết về các thánh thần ở
Việt Nam cho thấy: mỗi thần đều có chức năng riêng trong việc chi phối vận động
của tự nhiên. Như: Thiên Lôi làm sấm sét, Long vương làm mưa… Sự khác biệt so
sánh với hệ thống đa thần của các nền văn minh cổ đại khác như Ai Cập, Hy Lạp
là:
@ Các thần của hệ thống đa thần trong sinh hoạt tín ngưỡng dân gian Việt Nam
không có quyền, hoặc quyền năng rất hạn chế, trong việc quyết định thay đổi định
mệnh con người. Ngược lại, trong thần thoại Ai Cập, Hy Lạp hầu như mỗi vị thần
đều có quyền năng thay đổi số phận con người.
@ Tổ chức trong hệ thống bách thần ở Việt Nam rất chặt chẽ, có thứ bậc; trong
đó Ngọc Hoàng Thượng đế có quyền năng tối cao. Ngược lại, trong thần thoại Hy Lạp
quyền năng của thần Dớt rất hạn chế với các vị thần dưới quyền. Hoặc trong thần
thoại Ai Cập, quyền năng của các vi thần thượng đẳng như: thần Rê, thần Tho… gần
ngang nhau.
Điều này là cơ sở để chứng tỏ hệ thống thần thoại Việt Nam đã
ra đời rất lâu sau khi hình thành một quốc gia có tổ chức chặt chẽ. Từ đó, trên
cơ sở của những giá trị tư tưởng chính thống chi phối toàn bộ xã hội Văn Lang
là thuyết Âm dương Ngũ hành và cuộc đời của ngài Chử Đồng Tử, thì hoàn toàn có
cơ sở để đặt giả thuyết về khả năng hình thành một tín ngưỡng đa thần vào cuối
thời Hùng Vương mà vị khởi xướng là ngài Chử Đồng Tử. Tín ngưỡng này phản ảnh
thực trạng xã hội Văn Lang ở tính tổ chức và quyền năng hạn chế của các vị thần,
hướng giá trị tâm linh con người trở về với Thái Cực, hoặc đạt tới Thái Cực để
thoát ly khỏi cuộc sống đầy vướng bận trần gian.
Hình tượng vua Hùng đem quân tới mà không có sự trấn áp, đã chứng tỏ vua Hùng
không thừa nhận những giá trị tín ngưỡng được hình thành từ chính những giá trị
tư tưởng chính thống của Văn Lang, nhưng cũng không phản ứng mạnh mẽ. Mặc dù
như vậy, nhưng sự hiện diện của công chúa Tiên Dung - con vua Hùng - bên cạnh
Chử Đồng Tử, vị sáng lập ra một hệ thống tín ngưỡng của người Lạc Việt cũng chứng
tỏ khả năng phát triển sâu rộng của nó trong xã hội Văn Lang.
Đạo đức kinh và tín ngưỡng của người Lạc Việt
Hình ảnh cuối cùng trước khi vào cõi bất tử của ngài Chử Đồng
Tử và công chúa Tiên Dung là chiếc nón và cây gậy đã tạo nên một vương quốc tâm
linh hư ảo của ngài. Đây chính là hình tượng của sự vươn lên đạt tới Thái Cực,
tức là sự hòa nhập hoàn toàn với vũ trụ (theo truyền thuyết kể lại thì không phải
ông sư tặng cho Chử Đồng Tử cây trượng, mà là tiên tặng cho cây gậy và cái
nón).
Trên cơ sở vấn đề được đặt ra, đã trình bày ở phần trên về giá trị tín ngưỡng của
ngài Chử Đồng Tử; nếu so sánh với tư tưởng của Lão tử qua cuốn “Đạo Đức
Kinh” có thể đi đến một nhận xét về sự tương đồng giữa tư tưởng của Lão tử
và Chử Đồng Tử. Trong “Đạo Đức Kinh” - tương truyền là của Lão tử -
có thể cho rằng: nếu “Mẹ tròn, con vuông” là Lý của Thái Cực và sự khởi
nguyên của Âm Dương theo quan niệm vũ trụ quan Văn Lang, thì Đạo Đức Kinh chính
là Lý của Âm Dương. Bạn đọc có thể tìm thấy những ý tưởng tương tự qua những đoạn
văn sau đây:
Sang (Dương) lấy hèn (Âm) làm gốc; Cao (Dương) lấy
thấp (Âm) làm nền (*).
Hoặc:
Không muốn được quý như ngọc (không Dương), bị khinh như sỏi (tất
Âm) (*)
Chú thích: (*) Trích dẫn trong “Lão Tử - Đạo Đức Kinh”. Nguyễn
Hiến Lê. Nxb VHTT 1994.
Do đó truyền thuyết về Chử Đồng Tử, một trong những truyền thuyết phổ biến trong dân gian, chắc chắn không phải chỉ để giải thích về nguyên nhân cái đầm nằm ở Hải Dương bây giờ. Vì vậy, muốn có một sự phân tích chu đáo về truyền thuyết này cũng phải lược lại những yếu tố do đời sau thêm vào, để tìm đến nội dung ban đầu đích thực của nó. Trước hết, xin độc giả xem lại toàn bộ truyền thuyết của truyện “Nhất Dạ Trạch” trong Lĩnh Nam chích quái (sách đã dẫn):
Truyện Nhất Dạ trạch
Hồi đó, ở làng Chử Xá cạnh sông lớn có người dân tên là Chử Vi Vân sinh hạ được Chử Đồng Tử (có nghĩa là người con trai ở bến sông), cha từ con hiếu. Nhà gặp hỏa hoạn, của cải sạch không, còn một khố vải cha con ra vào thay nhau mà mặc. Kịp tới lúc cha già ốm, bảo con rằng: “Cha chết cứ để trần mà chôn, giữ khố lại cho con”. Con không nỡ làm theo, dùng khố mà liệm bố.
Đồng Tử thân thể trần truồng đói rét khổ sở, đứng ở bên sông, hễ nhìn thấy thuyền buôn qua lại thì đứng dưới nước mà ăn xin, rồi lại câu cá độ thân. Không ngờ thuyền Tiên Dung tới, chiêng trống đàn sáo, kẻ hầu người hạ rất đông. Đồng Tử rất kinh sợ.
Trên bãi cát có khóm lau sậy, lưa thưa dăm ba cây. Đồng Tử bèn nấp trong đó, bới cát thành lỗ nằm xuống mà phủ cát lên mình. Thoắt sau, Tiên Dung cắm thuyền dạo chơi trên bãi cát, ra lệnh vây màn trướng ở khóm lau mà tắm. Tiên Dung vào màn cởi áo dội nước, cát trôi mất, trông thấy Đồng Tử. Tiên Dung kinh sợ hồi lâu, thấy con trai bèn nói: “Ta vốn không muốn lấy chồng, nay lại gặp người này, cùng ở trần với nhau trong một hố, đó chính là trời xui nên vậy. Người hãy đứng dậy tắm rửa, ta ban cho quần áo mặc rồi cùng ta xuống thuyền mở tiệc ăn mừng”. Người trong thuyền đều cho đó là cuộc giai ngộ xưa nay chưa từng có. Đồng Tử nói là tại sao mà lại nấp ở đấy. Tiên Dung ta thán rồi ép làm vợ chồng. Đồng Tử cố từ, Tiên Dung nói: “Đây là do trời chắp nối, sao cứ chối từ?”.
Người theo hầu vội về tâu lại với vua. Hùng Vương nói: “Tiên Dung không thiết danh tiết, không màng của cải của ta, ngao du bên ngoài, hạ mình lấy kẻ bần nhân, còn mặt mũi nào trông thấy ta nữa”.
Tiên Dung nghe thấy, sợ không dám về, bèn cùng Đồng Tử mở bến chợ, lập phố xá, cùng dân buôn bán, dần dần trở thành cái chợ lớn (nay là chợ Thám, còn gọi là chợ Hà Lương). Phú thương ngoại quốc tới buôn bán, thờ Tiên Dung, Đồng Tử làm chúa. Có người lái buôn giàu nói rằng: “Quí nhân bỏ một dật vàng ra ngoài biển mua vật quí, sang năm có thể thành mười dật”. Tiên Dung cả mừng bảo Đồng Tử: “Vợ chồng chúng ta do trời tác thành, đồ ăn thức mặc do trời phú cho, hãy đem vàng cùng phú thương ra hải ngoại buôn bán”.
Có núi Quỳnh Viên, trên núi có am nhỏ, bọn lái buôn thường ghé thuyền ở đó lấy nước ngọt. Đồng Tử lên am chơi, có tiểu tăng tên gọi là Ngưỡng Quang truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử lưu học ở đó, giao hàng cho lái buôn mua hàng. Sau lái buôn quay lại am chở Đồng Tử về. Sư tặng Đồng Tử một cây trượng và một chiếc nón (Theo truyền thuyết dân gian Việt Nam thì là “cây gậy và chiếc nón” - người viết.) mà nói rằng: “Linh thiêng ở những vật này đây”.
Đồng Tử trở về, giảng lại đạo Phật, Tiên Dung giác ngộ, bỏ phố phường, cơ nghiệp, rồi cả hai tìm thầy học đạo. Trên đường viễn hành, trời tối mà chưa thấy thôn xá, hai người tạm nghỉ ở giữa đường, cắm trượng, che nón mà trú thân. Đến canh ba thấy hiện ra thành quách, lầu ngọc, điện vàng, đền đài dinh thự, phủ kho miếu xã, vàng bạc châu báu, giường chiếu chăn màn, tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ la liệt trước mắt. Sáng hôm sau ai trông cũng kinh lạ, đem hương hoa, thức ăn quý tới mà xin làm bầy tôi. Có văn võ bá quan chia túc quân vệ, lập thành nước riêng.
Hùng Vương nghe tin cho rằng con gái làm loạn, bèn sai quân tới đánh. Quần thần xin đem quân ra phân nhau chống giữ. Tiên Dung cười mà bảo: “Điều đó ta không muốn làm, do trời định đó thôi, sinh tử tại trời, há đâu dám chống lại cha, chỉ xin nhận theo lẽ chính, mặc cho đao kiếm chém giết”.
Lúc đó dân mới đến đều kinh sợ tản đi, chỉ có dân cũ ở lại. Quan quân tới, đóng trại ở châu Tự Nhiên, còn cách sông lớn thì trời tối không kịp tiến quân.
Nửa đêm gió thổi bay cát nhổ cây, quan quân hỗn loạn. Tiên Dung cùng thủ hạ, thành quách phút chốc bay tản lên trời, chỗ đất đó tuột xuống thành cái chằm lớn. Dân bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, gọi chằm là chằm Nhất Dạ Trạch (nghĩa là chằm một đêm), gọi bãi là bãi Mạn Trù (bãi Màn Trướng), gọi chợ là chợ Thám còn gọi là chợ Hà Lương.
Sau vua Hậu Lương là Diễn sai Trần Bá Tiên đem quân sang xâm lược phương Nam. Lý Nam Đế sai Triệu Quang Phục làm tướng cự địch. Quang Phục sai quân nấp ở chằm. Chằm sâu mà rộng, lầy lội, tiến binh rất khó, Quang Phục dùng thuyền độc mộc đột xuất ra đánh cướp lương thực, cầm cự lâu ngày làm cho quân giặc mệt mỏi, trong ba bốn năm không hề đối diện chiến đấu. Bá Tiên than rằng: “Ngày xưa đây là chằm một đêm bay về trời, nay lại là chằm một đêm cướp một người”.
Nhân gặp loạn Hầu Cảnh vua nhà Lương bèn gọi Bá Tiên về, ủy cho tùy tướng là Dương Sằn thống lĩnh sĩ tốt. Quang Phục ăn chay lập đàn ở giữa đầm, đốt hương mà cầu đảo, bỗng thấy thần nhân cưỡi rồng bay vào trong đàn mà bảo Quang Phục rằng: “Hiển linh còn đó, người có thể cầu tới cứu trợ để dẹp bằng họa loạn”. Dứt lời, tháo vuốt rồng cho Quang Phục, bảo: “Đem vật này đeo lên mũ đâu mâu có thể khiến giặc bị diệt”. Đoạn bay lên trời mà đi.
Quang Phục được vật đó, reo mừng vang động, xông ra đột chiến, quân Lương thua to. Chém Dương Sằn trước trận, giặc Lương phải lùi. Quang Phục nghe tin Nam Đế mất, bèn tự lập làm Việt Vương, xây thành ở Trâu Sơn, huyện Vũ Ninh. (Có chỗ viết là Châu Quỳnh Viên Sơn tức Kim Mộc Sơn ở cửa Nam Giới, huyện Thạch Hà).
Như vấn đề sự tam sao thất bản đã trình bày ở trên, qua “Sự tích Đầm Nhất Dạ”, bạn đọc có thể nhận ngay những yếu tố do đời sau thêm vào, đó là:
@ Toàn bộ đoạn nói về cuộc chiến do ngài Triệu Quang Phục lãnh đạo với quân nhà Lương.
@ Chử Đồng Tử đi học đạo Phật ở núi Quỳnh Viên. Được sư thầy tặng bảo bối là cây trượng và chiếc nón. Sau đó về giảng lại đạo Phật cho Tiên Dung. Tiên Dung giác ngộ đạo Phật.
Đây là một yếu tố do đời sau thêm vào. Bởi vì lịch sử Phật giáo đã ghi nhận: Phật giáo truyền vào Giao Chỉ ở đầu thế kỷ thứ II sau CN, tức là sau khi kết thúc thời Hùng Vương hơn 400 năm. Do đó, không thể Tiên Dung và Chử Đồng Tử đi học đạo Phật được, cho dù đó là cuối thời Hùng Vương thứ XVIII. Hơn nữa, giáo lý của đạo Phật nhằm hướng dẫn con người trở về với bản tính – còn gọi là Như Lai tạng tính – để đi đến một sự hòa nhập với bản nguyên chân như, tức là đạt đến sự giải thoát hoàn toàn (cõi Niết Bàn), không thể có việc sử dụng bảo bối, bùa phép thần thông biến hóa như đạo Giáo. Vì vậy, có thể khẳng định rằng việc đưa đạo Phật vào nội dung “Sự Tích Đầm Nhất Dạ” hoàn toàn do đời sau thêm vào. Trong đền thờ ngài Chử Đồng Tử cũng có biểu tượng cây gậy và chiếc nón, chứ không phải cây thiền trượng của Phật giáo.
Một yếu tố nữa thể hiện quan điểm của Hán Nho, đặc biệt là Tống Nho cũng được gán vào trong câu chuyện này. Đó là khi nghe tin Tiên Dung lấy Chử Đồng Tử, vua Hùng Vương nói: “Tiên Dung không thiết danh tiết...”. Ý niệm về danh tiết chỉ bắt đầu từ ý thức hệ trong xã hội phong kiến Trung Hoa kể từ khi Nho học có ảnh hưởng mạnh, đặc biệt là Tống Nho. Trước đó, vào thời Xuân Thu Chiến quốc, ý niệm này không được tôn trọng (thời điểm ra đời của cuốn Lĩnh Nam chích quái là lúc Nho giáo được xiển dương dưới triều Hồng Đức và ảnh hưởng của Phật giáo trước đó là quốc giáo vẫn còn rất mạnh).
Sau khi loại trừ yếu tố Hán Nho và Phật học nói trên, thì cốt truyện này được tóm lược để tìm đến ý tưởng của tác giả như sau:
@ Chử Đồng Tử rất có hiếu và nhà nghèo, chỉ có một cái khố duy nhất.
@ Công chúa đi du ngoạn, tắm ở mé sông, gặp Chử Đồng Tử trong một tình trạng khó xử. Hai người lấy nhau.
@ Họ ra riêng và tạo dựng được cơ nghiệp, đem lại sự trù phú cho cả một vùng.
@ Chử Đồng Tử đi học đạo, đắc đạo và truyền lại cho Tiên Dung.
@ Hai vợ chồng bỏ cơ nghiệp đi học đạo tiếp tục. Do thần thông, tạo dựng nên một quốc gia riêng.
@ Vua Hùng đem quân tới. Toàn bộ nhà cửa thành quách biến mất chỉ trong một đêm. Hai vợ chồng bay lên trời.
Với nội dung như trên thì yếu tố đầu tiên dễ nhận thấy là: sự phù hoa chỉ là hư ảo. Chử Đồng Tử rất nghèo “cái khố không có mà mặc”. Lấy được công chúa, tự tạo nên sự phú túc cho mình. Bỏ đi học đạo. Tạo nên sự phú quý tột đỉnh (làm vua). Rồi lại bỏ đi hết để vào cõi bất tử. Có lẽ nội dung câu chuyện đầy tính huyền thoại này có một số yếu tố rất gần với quan niệm Phật giáo. Do đó, đã có sự thay thế giữa vị đạo sĩ (như “Truyền thuyết Trầu Cau” - Đạo sĩ họ Lưu) bằng vị Phật hoặc sư theo đạo Phật. Nhưng nếu là đạo sĩ tất nhiên không phải là tín đồ Lão – Trang mà là chỉ nói tới con người uyên bác (sĩ) và cái học hướng tới một đỉnh cao nào đó (đạo). Về sau từ đạo sĩ để chỉ những người tu tiên. Như vậy, với nội dung gần gũi thì “Truyền thuyết Đầm Nhất Dạ” nói về sự vô thường của cuộc đời và đề cao giá trị tâm linh.
Câu chuyện này về mặt nghệ thuật còn có những hình tượng và kết cấu rất huyền ảo, độc đáo. Hình ảnh người nghèo đến nỗi không có cái khố để mặc, lấy một cô công chúa kiều diễm trong một hoàn cảnh đặc biệt. Đây là một sự tuyệt đỉnh của tính hư cấu hợp lý, hầu như không có khảo dị cho những trường hợp tương tự ở bất cứ một truyện cổ tích nào trên thế giới. Trong những truyện cổ tích phổ biến của thế giới, chúng ta hay gặp những hình ảnh: một chàng trai nghèo khổ nào đó, tình cờ gặp bầy tiên tắm bên suối, rồi giấu quần áo, cánh... để lấy làm vợ thì nhiều vô kể. Nhưng để đạt đến quan hệ vợ chồng với lối kết cấu đó lại nặng tính cưỡng chế, thỏa mãn dục vọng. Hoặc cũng có nhiều chuyện cổ tích miêu tả những chàng trai con nhà nghèo, gặp may mắn, hay nhờ sự hỗ trợ của thần thánh, lập chiến công rồi lấy công chúa… Còn ở hoàn cảnh của Chử Đồng Tử và Tiên Dung thì lại có sự hài hòa của bản tính tự nhiên của con người với những giá trị đạo lý giàu chất nhân bản. Mặc dù trước đó, Chử Đồng Tử nghèo đến mức khó có thể lấy vợ; công chúa Tiên Dung thì lại không muốn lấy chồng. Đó cũng là một cách giải quyết tài tình, có hậu cho một người con chí hiếu. Như vậy, qua đoạn mở đầu với những hình ảnh đối lập đầy ấn tượng giữa sự phú quý tột đỉnh của công chúa Tiên Dung và cái nghèo nàn đói khó đến cùng cực của Chử Đồng Tử; diễn biến sự kiện đầy kịch tính và sự hư cấu cao độ, nhưng hoàn toàn hợp lý và giầu chất nhân bản; đã cho thấy trí tưởng tuợng rất phong phú, giầu chất lãng mạn của những tác gia thời Hùng Vương. Có thể nói, những tác gia đời Hùng đã đạt đến trình độ bậc thầy về tuyệt kỹ trong văn học (rất tiếc trải qua hơn 2000 năm thăng trầm của lịch sử, câu chuyện chỉ còn lại cốt lõi của nó; nếu không, chắc chắn sẽ vô cùng hấp dẫn).
Những vấn đề cần phải minh chứng liên quan đến thực trạng xã hội Văn Lang trong truyện này, bắt đầu từ hình ảnh gây ấn tượng mạnh mẽ nhất, đó chính là sự chí hiếu của Chử Đồng Tử: nhường cái khố cuối cùng cho cha để chấp nhận “Nghèo đến không có khố mà mang”. Câu thành ngữ vẫn còn được phổ biến trong dân gian Việt Nam cho đến nửa đầu thế kỷ 20 này, phải chăng có xuất xứ từ “Sự tích Đầm Nhất Dạ”. Từ đó đặt ra một vấn đề: người giàu mặc cái gì?.
Chử Đồng Tử và Tiên Dung
Tranh lụa màu của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh
CHƯƠNG VI - 1Qua cuộc đời của ông cho thấy ít nhất căn bản quan niệm nhân sinh quan của Chử Đồng Tử là: của cải thế nhân và sự thăng trầm của cuộc đời chỉ là phù du. Trong truyền thuyết Đầm Nhất Dạ nói tới sự kiện Chử Đồng Tử, Tiên Dung đắc đạo và tạo dựng một vương quốc hư ảo cho mình bằng quyền năng của thần thánh. Đây là hình ảnh của một thế giới tâm linh tạo nên tín ngưỡng của người dân Lạc Việt thời Hùng.
Hình ảnh cuối cùng của truyền thuyết này là lâu đài, cung điện nguy nga biến mất chỉ trong một đêm, để lại cho thế nhân một đầm nước long lanh, phản chiếu những hình ảnh hư ảo của cuộc đời qua hàng thiên niên kỷ.
Tranh dân gian Hàng Trống
Phải chăng đây là một bức tranh mang màu sắc
Đạo giáo của Chử Đồng Tử, miêu tả những ảo vọng
của cuộc đời qua bòng trăng soi đáy nước?
Lão TửNếu như tư tưởng “Đạo Đức Kinh” hướng con người trở
về với bản thể thì cuộc đời và sự nghiệp của ngài Chử Đồng Tử, trong một bối cảnh
xã hội đã coi thuyết Âm Dương Ngũ hành có nguồn gốc Thái Cực (Đạo) là ý thức hệ
chính thống thì hoàn toàn có khả năng dẫn đến một lý thuyết tương tự.
Từ trước thời nhà Tần và kết thúc vào năm 208 tr.CN - ngoại trừ Đạo Đức Kinh -
các nhà Lý học Trung Hoa không có trước tác nào nói đến sự khởi nguyên của vũ
trụ. Mặc dù theo truyền thuyết và cổ thư Trung Hoa có đặt vấn đề này trong kinh
Dịch: Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Nhưng đây chỉ là một
hiện tượng, không thể coi là một học thuyết. Trong Đạo Đức Kinh, Lão tử bàn đến
những vấn đề căn nguyên của vũ trụ. Ngài quan niệm về khởi nguyên của vũ trụ:
“Không - là cái bản thủy của trời đất; Có - là
mẹ sinh ra vạn vật”
(Vô - danh thiên hạ chi thủy. Hữu - danh thiên hạ chi mẫu)
(*)
So sánh quan điểm vũ trụ quan của Lão tử qua đoạn trích dẫn ở
trên với quan điểm vũ trụ quan của Văn Lang qua câu tục ngữ “Mẹ tròn con vuông”
và hình tượng bánh Chưng bánh Dầy thì hai quan điểm này nếu không phải là hoàn
toàn, cũng gần như hoàn toàn trùng khớp.
Thái Cực - Dương tương ứng với cái “Không” của Lão tử.
Âm - lý của Ngũ hành nằm trong bánh Chưng là nguồn gốc của vạn vật, tương ứng với
cái “Có” là mẹ sinh ra vạn vật.
Có thể nói rằng: quan điểm vũ trụ quan của Lão tử chính là sự diễn đạt dưới một
hình thức khác quan điểm vũ trụ quan của Văn Lang; hoặc chính là sự bổ sung làm
rõ hơn ý nghĩa của câu tục ngữ “Mẹ tròn con vuông” và hình tượng bánh
chưng, bánh dầy.
Nếu như thuyết Âm Dương Ngũ hành lý giải hiện tượng khởi thủy của vũ trụ thì
Lão tử nói về năng lực chi phối sự vận động, hình thành và phát triển của vũ trụ.
Ngài cho rằng năng lực đó là Đạo và đây là nền tảng cơ bản để hình thành Đạo
giáo sau này. Ngài cho rằng:
“Đạo là cái gì chỉ mập mờ thấp thoáng, thấp thoáng mập mờ mà
bên trong có hình tượng; mập mờ thấp thoáng mà bên trong có vạn vật; nó thâm viễn,
tối tăm mà bên trong có cái tinh túy; tinh túy đó rất xác thực và rất đáng tin”
(*).
“Ở trên không sáng, ở dưới không tối, thâm viễn bất tuyệt; không thể gọi tên nó
lại trở về với cõi vô vật; cho nên bảo là cái trạng không có hình trạng, cái tượng
không có vật thể. Nó thấp thoáng, mập mờ. Đón nó thì không thấy đầu, theo nó
thì không thấy đuôi” (*).
Chú thích: (*) Trích dẫn trong “Lão Tử - Đạo Đức Kinh”, sách đã
dẫn.
Sự lý giải về Đạo của Lão tử có thể khẳng định rằng đó là sự
lý giải bằng một hình thức khác ý niệm của Thái Cực từ văn minh Lạc Việt. Văn
minh Lạc Việt - qua nội dung ”Mẹ tròn, con vuông” - quan niệm Thái Cực
là thể bản nguyên của vũ trụ trong đó không có cái “Có” để nói đến
cái “Không”, tràn đầy viên mãn, tức là không có sự phân biệt. So với
ý niệm của Lão tử “Ở trên không sáng, ở dưới không tối, thâm viễn bất tuyệt” hoàn
toàn tương ứng với tính không phân biệt, tràn đầy viên mãn; cũng có thể gọi
là “trạng không có hình trạng, tượng không có vật thể”, khó diễn đạt
cho nên nói “thấp thoáng mập mờ”; viên mãn tràn đầy cho nên nói “đón
nó thì không thấy đầu, theo nó thì không thấy đuôi”. Thái Cực là thể bản nguyên
của vũ trụ, gốc của vạn vật, cho nên nói “bên trong có hình tượng” “có vạn
vật”.
Như chương I đã chứng minh: thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về văn minh Văn Lang
đã xuất hiện từ buổi đầu lập quốc, tức là trước Lão tử xấp xỉ 2000 năm. Sự
trùng hợp về ý niệm trong hệ tư tưởng vũ trụ quan trong Đạo Đức Kinh với văn
minh Lạc Việt, đã chứng tỏ những vấn đề sau:
@ Phủ nhận tất cả những tác giả được coi là phát minh ít nhất ra thuyết Âm
Dương, khi Lão tử được coi là người đầu tiên đề xướng quan điểm vũ trụ quan
trong xã hội Trung Hoa cổ đại.
@ Lão tử đã kế thừa từ vũ trụ quan Văn Lang để hướng tới một nhân sinh quan
theo quan điểm của ông và là tiền đề của Đạo giáo. Như vậy đã chứng tỏ rằng:
Lão tử là người có nguồn gốc từ Văn Lang, nhưng đã sang sinh sống ở phần đất
nhà Chu hoặc là Đạo Đức Kinh được phát hiện sau khi Văn Lang mất nước.
Đạo Đức Kinh là một tác phẩm từ trước đến nay vẫn được các nhà nghiên cứu
lịch sử cho rằng thuộc về nền văn minh Trung Hoa và thời điểm ra đời của nó xuất
hiện vào thời Xuân Thu Chiến quốc. Nhưng trong xấp xỉ 5000 từ của Đạo Đức Kinh,
không hề để lại một dấu ấn nào thể hiện thời kỳ lịch sử này của xã hội Trung
Hoa. Ngược lại, trong tác phẩm này, ngoài những vấn đề liên quan đến hệ tư tưởng
vũ trụ quan của người Lạc Việt như đã trình bày ở trên, lại có những dấu ấn của
xã hội Văn Lang; có thể lấy làm ví dụ điển hình cho sự liên quan đến xã hội Văn
Lang, đó là câu:
“Bắt dân dùng lại lối thắt dây thời thượng cổ” (*)
Chú thích: (*) Trích dẫn trong “Lão Tử - Đạo Đức Kinh”, sách
đã dẫn.
Về việc “Chính sự dùng lối thắt nút” đã được trình
bày ở chương I, điều này chỉ có thể khẳng định một cách hợp lý là: đó là công
việc 207 của những nhà lãnh đạo Văn Lang có từ gần 3000 năm tr.CN. Điều này khẳng
định rằng Đạo Đức Kinh của Lão tử hoàn toàn là một trước tác có nguồn
gốc từ nền văn minh Văn Lang. Lão tử được coi là tổ của Đạo giáo; do đó hoàn
toàn có cơ sở để cho rằng Đạo giáo chính xuất phát từ nền văn minh này. Hiện tượng “Chính
sự dùng lối thắt nút” được nói tới trong Đạo Đức Kinh cũng đồng
thời chứng tỏ rằng: Thời Hùng Vương không thể tồn tại vài trăm năm; bởi vì:
@ Nếu cho rằng Lão tử là người thuộc nhà Chu thì phải
chăng “Chính sự dùng lối thắt nút” của các vua Hùng ở thời điểm thế kỷ
thứ VI hoặc VII tr.CN (theo quan điểm lịch sử mới) mà “Việt sử lược” nói
tới là tiếp thu của nền văn minh Trung Hoa có từ hơn 3000 năm trước? Đây hoàn
toàn là một sự vô lý và không thể lý giải được sự liên hệ của
nó.
@ Nhưng khi khẳng định Lão tử là người gốc Lạc Việt, thì thời điểm xuất hiện Đạo
Đức Kinh (được coi là tương đương với Khổng tử hoặc lùi vào thời Chiến quốc?)
không thể coi thời Chu Trang Vương tức là thời điểm lập quốc của Văn Lang (theo
quan điểm lịch sử mới về thời Hùng Vương) là thời thượng cổ được.
Điều này chỉ có thể có một nhận xét hợp lý, khi cho rằng: đất
nước Văn Lang đã tồn tại gần 3000 năm và “Chính sự dùng lối thắt nút” là
công việc của những nhà lãnh đạo Văn Lang có ngay từ buổi đầu lập quốc, tức là
thời thượng cổ mà Lão tử nói tới.
Vào đầu thời Hùng Vương thứ XVIII về thời gian tương đương với sự xuất hiện “Đạo
Đức Kinh” của Lão tử, đồng thời có sự tương đồng về tư tưởng của Lão - Chử
với những hiện tượng liên quan đến văn minh Văn Lang đã trình bày ở trên. Trong
truyền thuyết Việt Nam, Chử Đồng tử và công chúa Tiên Dung biến mất khi kết
thúc câu chuyện và sự xuất hiện huyền ảo của Lão tư, ở cùng một khoảng thời
gian và trong không gian của hai quốc gia láng giềng với những giá trị tư tưởng
gần như hoàn toàn trùng hợp. Do đó, hoàn toàn có cơ sở để đặt vấn đề về tác giả
của Đạo Đức Kinh – nếu do Lão tử viết – thì Lão tử và Chử Đồng tử chỉ là một
người duy nhất. Đây cũng là một vấn đề đã được nhiều học giả nghi vấn.
Đoạn dưới đây được trích lại trong Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam nhận xét của
giáo sư Trần Văn Giàu để bạn đọc tham khảo:
Giáo sư Trần Văn Giàu có viết: “Tư tưởng tín ngưỡng Đạo giáo
... sẵn có từng phần lớn trong nhân dân Việt Nam từ nguyên thủy và trong cả quá
trình lịch sử, người Việt chưa có lúc nào chế tạo được cái tên chung để đặt cho
loại tín ngưỡng đó, riêng những người nghiên cứu nhận thấy tư tưởng tín ngưỡng
đó cùng bản chất với Đạo giáo nên xếp vào một loại vậy thôi”.
Những luận điểm này giải thích vì sao Chử Đồng tử được coi là
một trong bốn vị thần hộ quốc của người Lạc Việt.
CHƯƠNG VI - 2
Hình ảnh còn lại của tín ngưỡng đầu tiên của dân tộc Việt
ngày nay, chính là cây Nêu trong những ngày Tết ở Việt Nam. Mặc dù truyền thuyết
về cây Nêu hoàn toàn thể hiện dấu ấn của Phật giáo: Đức Phật hiện thân đuổi quỉ
cứu người và để lại cây Nêu. Nhưng tục trồng cây Nêu với tư cách là một tín ngưỡng
đặc thù, hơn là một hệ quả của một giáo lý phổ biến là Phật giáo (chỉ ở Việt
Nam, hoặc có thể ở những vùng ảnh hưởng của văn minh Văn Lang cũ mới có cây
Nêu; còn những vùng ảnh hưởng Phật giáo khác trên thế giới không có tục này).
Điều này được lý giải như sau:Một trong những giáo lý căn bản của Phật giáo quan niệm rằng:
mọi hậu quả của con người nhận lãnh - hạnh phúc hay đau khổ - đều có nguyên
nhân do chính con người tạo ra trong đời hiện tại hoặc kiếp trước, gọi là nghiệp
báo. Muốn loại trừ nghiệp báo thì phương pháp duy nhất là bản thân không tác
nghiệp. Sự quấy phá của ma quỷ theo quan điểm của Phật giáo cũng là một loại
nghiệp báo. Việc sử dụng thần thông (cây Nêu) để loại trừ ma quỷ, hay nói cách khác là sử dụng một
phương pháp khác để loại trừ nghiệp báo, không phải do bản thân tu tập (không
tác nghiệp); điều này đi ngược lại giáo lý căn bản của Phật giáo. Vì vậy, sự
tích cây Nêu mang dấu ấn Phật giáo và tục trồng cây Nêu không thể do các thiền
sư tạo dựng và phổ biến. Trong lịch sử Phật giáo cũng không ghi nhận điều này.
Vì vậy có thể khẳng định rằng: tục trồng cây Nêu là một tín ngưỡng riêng của
người Lạc Việt có từ thời Hùng Vương, tồn tại trong sự che chở bằng dấu ấn của
Phật giáo trong thời đô hộ. Có thể truyền thuyết cây Nêu mang đến dấu ấn Phật
giáo có từ thời nhà Minh. Đây là thời kỳ lịch sử ghi nhận sự đô hộ rất hà khắc,
đặc biệt là sự tiêu diệt nền văn hóa Đại Việt. Do đó, tổ tiên ta vào thời kỳ
này, để bảo vệ di sản văn hóa đã đặt ra câu chuyện “Sự tích cây Nêu” mang
dấu ấn Phật giáo - là tín ngưỡng cũng phổ biến ở Trung Quốc. Do tục trồng Nêu
trải qua hàng ngàn năm thăng trầm của lịch sử nên đã mất đi nội dung đích thực
của nó, tương tự như trường hợp bánh Chưng, bánh Dầy và chỉ còn mang tính chất
thể hiện như một phong tục truyền thống. Vì vậy, khi có một nội dung mới - mặc
dù không phản ánh đúng thực tế và được gán ghép - nhưng vẫn được chấp nhận và
phổ biến đến tận bây giờ.
Hơn nữa, hình ảnh cây Nêu thể hiện một ý thức vươn lên (cây tre cột Nêu) để đạt
tới sự hòa nhập với vũ trụ (vòng tròn phía trên cây tre) phù hợp với hình ảnh
cuối cùng của hai thần vật của ngài Chử Đồng tử: cái nón đặt trên đầu cây gậy cắm
xuống đất, biến thành cung điện lâu đài để ngài trú qua đêm, tại nơi mà sau này
gọi là Đầm Nhất Dạ. Vòng tròn cũng là biểu tượng của Dương, của giá trị tâm
linh và cũng là của Thái Cực; sự khởi nguyên của vũ trụ và cũng là mục đích đạt
tới của Đạo giáo.
Dấu ấn của nền văn hiến Lạc Việt. trong tín ngưỡng dân gian
Việt Nam và đạo giáo Hạc và Rùa biểu tượng độc đáo của nền văn minh Lạc Việt
Từ những luận điểm đã trình bày ở trên dẫn đến một sự liên hệ
tiếp nối và giải thích một dấu ấn liên quan đến nền văn minh Văn Lang và Đạo
giáo. Đó chính là hình ảnh con hạc đứng trên lưng con rùa. Đây là một hình ảnh
rất phổ biến ở tất cả các đình đền thờ thánh thần của Việt Nam và ở cả những
vùng Nam Trung Quốc; kể cả Triều Tiên, Nhật Bản. Sự phổ biến của hình tượng Hạc
và Rùa ở khắp những vùng có ảnh hưởng của văn hóa Đông Phương, đã chứng tỏ tính
biểu tượng được lựa chọn có ý thức cho một giá trị văn hóa của nó.
Tại sao con hạc lại đứng trên lưng con rùa? Tất nhiên không thể giải thích đơn
giản rằng: tại vì con hạc chăm chỉ thông minh, còn con rùa chậm chạp nên bị Thượng
đế bắt phạt phải làm nền cho con hạc đứng chầu tiên thánh.
Ông cha ta đã để lại một câu ca dao độc đáo mà có lẽ cũng nhiều người biết:
Thương thay thân phận con rùa,
Trong đền đội hạc, ngoài đình đội bia.
Nhưng tại sao người xưa lại chọn biểu tượng này?
Trước hết, chúng ta bắt đầu tìm hiểu từ hình ảnh con rùa. Đây là một linh vật
biểu tượng cho nền văn minh Văn Lang: đó là phương tiện chuyển tải chữ viết của
ông cha ta, mà dấu ấn xưa nhất đã được ghi nhận trong sách Thông Chí của Trịnh
Tiều (đã trình bày ở phần trên). Giống rùa lớn chỉ có ở miền Nam sông Dương Tử
đã bị tuyệt chủng, nhưng hình tượng con rùa là phương tiện chuyển tải những giá
trị tinh thần là một hình ảnh truyền thống từ ngàn xưa của người Lạc Việt.Rùa đội biaTrong miếu Hà NộiTừ đó hình thành biểu tượng con rùa đội bia ở các đình đền mà
hình ảnh tập trung nhất chính là ở Văn Miếu Hà Nội. Nhưng những con rùa ở trước
điện thờ thì không đội bia mà đội trên lưng nó con chim hạc. Từ đó có thể suy
luận rằng: con chim hạc phải là một biểu tượng cô đọng thay thế cho những gì mà
loài rùa đã mang trên lưng nó. Xét hình dáng chim hạc có những nét đặc trưng giống
hệt hình tượng chim Lạc đã cách điệu trên trống đồng Lạc Việt. Bạn đọc cũng dễ
dàng nhận thấy điều này ở hai hình trình bày sau đây.
Từ sự giống hệt giữa hai hình tượng này, kết hợp với biểu tượng
con rùa đặc trưng cho sự chuyển tải những giá trị tinh thần của nền văn minh
Văn Lang, có thể kết luận rằng: chim hạc trong đình đền chính là chim Lạc trên
trống đồng – biểu tượng của nền văn minh Văn Lang mà con rùa từ ngàn xưa vốn là
phương tiện chuyển tải. Với nhận xét trên thì có thể cho rằng:
Tín ngưỡng thờ thần thánh ở đình đền thuộc về nền văn minh Lạc Việt, mà những
người có tín ngưỡng có thể tìm thấy nguồn gốc của nó ở hình ảnh con chim Lạc đứng
trên lưng con Rùa.
Luận điểm này bổ sung và chứng minh rõ nét hơn về Đạo giáo và Lão tử có xuất xứ
từ văn minh Lạc Việt, khi tục thờ Tiên, Thánh là nội dung của Đạo giáo.
Bùa chú và thuyết Âm Dương Ngũ HànhĐể minh họa quan điểm cho rằng: những tư tưởng tín ngưỡng
liên quan đến Đạo giáo có nguồn gốc từ thuyết Âm Dương Ngũ hành, xin bạn đọc
xem và so sánh những hình ảnh dưới đây.
Hình bên được chép lại từ cuốn “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”. Đó
là một lá bùa dân gian nhằm mục đích trừ tà, trị bệnh, trấn trạch, đem lại sự
bình an cho gia đình. Tất nhiên nó xuất phát từ một tín ngưỡng tin vào những khả
năng siêu nhiên mà con người có thể sử dụng để làm thay đổi số phận của mình.
Người ta tin rằng: để có những khả năng siêu nhiên này, người thực hiện nó phải
là những người đã tu tập theo một thứ tín ngưỡng liên quan đến Đạo giáo (phù thủy
hoặc đạo sĩ). Nhưng như phần trên đã trình bày, trong một xã hội như Văn Lang,
đã có một hệ thống tư tưởng chính thống là Âm Dương Ngũ hành, thì khó có thể có
một thứ tín ngưỡng vượt ra ngoài những giá trị của nó. Bạn đọc có thể so sánh
hình con cọp trong lá bùa nói trên với hình trong tranh dân gian dưới đây. Đó
là một bức tranh dân gian thuộc dòng tranh Hàng Trống vẽ một “Ông Ba
Mươi”. Tùy theo màu sắc mà ngài đại diện cho một hành thuộc Ngũ hành, mà
thuyết Âm Dương Ngũ hành là học thuyết chủ đạo trong xã hội Văn Lang. Bạn đọc sẽ
dễ dàng nhận thấy rằng “Ông Ba Mươi” này giống hệt con cọp trong lá bùa ở hình
bên. Sự giống nhau đến mức đáng kinh ngạc này, chứng tỏ sự liên quan giữa tín
ngưỡng của ngài Chử Đồng tử với một học thuyết vũ trụ quan chính thống của thời
Hùng Vương. Bạn đọc có thể thắc mắc về những chữ Hán trên lá bùa đã chứng tỏ có
thể nó xuất hiện từ thời Bắc thuộc hoặc từ thời nước Việt hưng quốc về sau. Điều
này có thể giải thích rằng: rất có thể trước đó lá bùa không có chữ Hán, nhưng
vào thời Bắc thuộc. CHƯƠNG VI - PHỤ CHƯƠNG - 1
Chú thích: (*) Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập I. Sách đã dẫn.
Trang 12 đến 27.
Lại bài tựa truyện pháp của tướng quốc Quyền Đức Dư (1) đời
Đường nói: “Sau khi Tào Khê (2) mất đi, thiền pháp thịnh hành, đều có thừa kế.
Chương Kính uẩn thiền sư (3) dùng tâm ấn của Mã Tổ hành hóa ở Ngô, Việt. Vô
Ngôn Thông đại sĩ, đem tôn chỉ của Bách Trượng khai ngộ tại Giao Châu”. Đó là
những chứng cứ vậy.
Cứ câu trả lời này, thì trước khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, Việt Nam đã
có một nền Phật giáo hoàn chỉnh, tức bao gồm chùa chiền, một đoàn thể Tăng sĩ
và kinh sách đầy đủ. Theo Thông Biện, thì ở nước ta lúc bấy giờ “có chùa hơn 20
ngôi, độ Tăng hơn 500 người, dịch kinh 15 quyển”. Điều đáng tiếc là Thông Biện
không cho ta biết nền Phật giáo hoàn chỉnh này, với số chùa chiền kinh sách và
tăng sĩ như vậy, xuất hiện vào lúc nào. Ông chỉ bằng lòng lập lại lời của Đàm
Thiên (4), bảo rằng đó là vào lúc “Giang Đông chưa có” Phật giáo. Giang Đông
chưa có Phật giáo, thì ngay cả bản tiểu sử của Khương Tăng Hội (?-280) trong
sách Xuất Tam Tạng Ký Tập, tập 13, Đại Tạng Kinh 2145, tờ 96a 29 - 97a17 và
trong Cao Tăng Truyện quyển 1, Đại Tạng Kinh 2059 tờ 325a 13 - 326b 13, cũng bảo
“bấy giờ Tôn Quyền (1) xưng đế Giang Tả (năm 222 sdl) mà Phật giáo chưa lưu
hành”. Thế cũng có nghĩa ngay vào những năm 220 sdl, Phật giáo chưa có mặt ở
Giang Đông. Vậy phải chăng nên Phật giáo hoàn chỉnh vừa nói chỉ tồn tại vào thế
kỷ thứ II - thứ III sdl?
Chú thích:
(1) Xem Lê Mạnh Thát, Thiền uyển tập anh. Tu thư Vạn Hạnh, 1976, chú thích 20,
tr.207. Quyền Đức Dư (757-818) làm tể tướng dưới thời Đường Hiến Tôn. Bài tựa
cho cuốn sách nhan đề truyền pháp này ngay nay đã thất lạc.
(2) Tức Lục tổ Huệ Năng.
(3) Tức thiền sư Hoài Uẩn (?-818) chùa Chương Kính ở Kinh Triệu. Xem Truyền
đăng lục 7 tờ 252b19-c23
(4) Tiểu sử Đàm Thiên đời Tùy được ghi trong Đàm Thiên pháp sư truyện, Tục Cao
Tăng truyện 18 tờ 571b 12 – 574b 6, sinh năm 542 mất năm 607, thọ 66 tuổi. Còn
một Đàm Thiên khác người Kinh sư, đời Tề, được ghi trong Cao Tăng truyện 13 tờ
413a 18 - 26, nhưng không phải Đàm Thiên đời Tùy vốn có nhiều quan hệ mật thiết
với Tùy Cao Tổ và đặc biệt về việc cúng dường Xá - lợi như kể trong tiểu sử
Thông Biện trên đây. Xem Lê Mạnh Thát, Thiền Uyển Tập Anh, ghi chú 15, 16 -
19, tr.204 - 207.
(1) Tức Ngô Tôn Quyền, lên ngôi năm 222 mất tháng 4 năm Thần Phượng thứ nhất
(262), thọ 70 tuổi.
(2) Đài Loan, Học sanh thư cục ấn hành, 1986, do Trần Khánh Hạo chủ biên, theo
Publications de l Ecole francaise d Extrême-Orient, gồm 7 tập.
(3) Viện Văn học, Thơ Văn Lý Trần III, Hà Nội: NXB Khoa học xã hội, 1978,
tr.657.
Sư Phật Quang và di tích đầu tiên của Phật giáo Việt Nam
Trả lời câu hỏi này, ta may mắn có một tài liệu viết gần cùng
thời với Thiền Uyển Tập Anh là Lĩnh Nam trích quái. Truyện Nhất Dạ Trạch của
Lĩnh Nam trích Quái ghi lại việc Chử Đồng Tử đã được nhà sư Phật Quang tại núi
Quỳnh Viên (cũng có bản viết Quỳnh Vi) truyền dạy giáo lý Phật giáo. Xưa nay
Lĩnh Nam trích quái thường được xếp vào loại truyện thần thoại hay huyền sử. Thậm
chí bộ Việt Nam Hán văn Tiểu thuyết Tùng san (2), tập I, mới xuất bản gần đây
cũng làm thế. Tuy nhiên, khi đi sâu vào nghiên cứu nội dung của Lĩnh Nam trích
quái, ta mới thấy rõ Lĩnh Nam trích quái không chỉ đơn thuần là tập hợp những
chuyện thần thoại, thậm chí những chuyện thần thoại hoang đường. Trái lại, nó
chứa đựng nhiều sự kiện có thực, mà trường hợp núi Quỳnh Viên của chúng ta đây
là một thí dụ cụ thể.
Núi Quỳnh Viên này, những người chủ biên Thơ văn Lý Trần đã chú thích là: “một
quả núi trong truyện thần thoại” (3). Dẫu thế, nếu chịu khó đọc Minh lương cẩm
tú do Lê Thánh Tông viết về 13 cửa biển của đất nước ta trong khi tiến quân
chinh phạt Chiêm Thành vào năm 1470, thì ta gặp bài thơ thứ 7, nói về “Nam giới
hải môn lữ thứ”, trong đó có 2 câu:
Di miếu man truyền kim Vũ Mục
Danh sơn do thuyết cổ Quỳnh Viên.
Dịch:
Di miếu còn truyền nay Vũ Mục
Danh sơn vẫn nhắc cổ Quỳnh Viên.
Vũ Mục đây tức là tướng Lê Khôi, cháu ruột của Lê Lợi. Năm
Thái Hòa thứ 2 (1444) đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm là Bí Cái, khi trở
về đến cửa biển Nam Giới thì mất. Dân thương nhớ, lập đền thờ tại cửa biển này.
Cửa biển này còn được gọi là cửa Sót. Còn núi Quỳnh Viên nằm ở phía Nam cửa bể
này và từ thời Lê Thánh Tôn đã được xác nhận là một danh sơn, tức một hòn núi
có tiếng tăm của đất nước. Và tiếng tăm này là có từ xưa, chứ không phải đợi đến
từ thời Lê Thánh Tôn, tức từ năm 1460 trở đi mới có. Ngay cả khi ta đồng ý với
Lê Quí Đôn trong Toàn Việt thi lục và Bùi Huy Ích trong Hoàng Việt thi tuyển và
xếp các bài thơ về 13 cửa biển này vào loại “vô danh thị”, thì việc nói “ông Vũ
Mục ngày nay” (kim Vũ Mục) và “núi Quỳnh Viên thuở xưa” (cổ Quỳnh Viên) vẫn
không đánh mất thời điểm của bài thơ. Lý do nằm ở chỗ nếu đã nói Lê Khôi là ông
Vũ Mục thời nay, và Lê Khôi mất vào năm 1444, thì rõ ràng tác giả nó cũng phải
sống vào thời Lê Khôi này, tức khoảng từ 1444 trở đi hay không lâu sau đó.
Nói thẳng ra, vào thế kỷ thứ XV, khi Kiều Phú và Vũ Quỳnh hiệu đính và cho ra đời
hai bản Lĩnh Nam trích quái khác nhau, Quỳnh Viên đã thật sự là một danh sơn, một
ngọn núi nổi tiếng đối với dân ta thời đó và trước kia. Nó dứt khoát không phải
là một ngọn núi thần thoại, càng không phải là một ngọn núi không có địa điểm cụ
thể tại đất nước ta. Nó quả là một ngọn núi nằm tại cửa Sót. Và trên núi Quỳnh
Viên này còn có ngôi chùa cổ. Bản Lĩnh Nam trích quái mà ta có ngày nay thì hoặc
do Kiều Phú kiểu chính lại vào năm 1490 hoặc do Vũ Quỳnh san định vài năm sau
đó, vào năm 1493, từ một bản Lĩnh Nam trích quái của Trần Thế Pháp đời Trần.
Như vậy nếu Lĩnh Nam trích quái mà ta có ngày nay nói tới núi Quỳnh Viên, thì dứt
khoát núi Quỳnh Viên này phải có một địa chỉ cụ thể. Vì thế, khi Chử Đồng
Tử đã được nhà sư Phật Quang truyền dạy đạo Phật tại núi Quỳnh Viên, ta có thể
chắc chắn sự việc này đã xảy ra tại cửa biển Nam Giới hay cửa Sót.
Ta có thể đặt vấn đề là nếu quả có ngọn núi Quỳnh Viên tại cửa Sót, thì việc
truyền dạy giáo lý của nhà sư Phật Quang cho Chử Đồng Tử chắc gì đã xảy ra ở
đó, bởi vì việc truyền dạy xảy ra quá xa cách thời điểm nó ghi lại trong Lĩnh
Nam trích quái. Nói cụ thể ra, Lĩnh Nam trích quái đã ghi lại một sự việc
xảy ra cách nó gần tới cả ngàn rưỡi năm. Tất nhiên, trừ phi ta thực hiện một
cuộc khai quật khảo cổ học tại núi Quỳnh Viên ở cửa Sót và tìm thấy di vật liên
hệ với Chử Đồng Tử, thì vấn đề mới được giải quyết một cách dứt điểm. Nhưng trước
mắt, nếu chưa làm được, song qua phân tích những truyện khác trong Lĩnh Nam
trích quái, ta thấy dù Lĩnh Nam trích quái có được Trần Thế Pháp biên tập lại
vào hậu bán thế kỷ 14, thì những dữ kiện trong đó vẫn có một tính cổ sơ đáng muốn.
Chẳng hạn, khi nghiên cứu về truyền thuyết Trăm trứng trong truyện họ Hồng Bàng,
ta thấy truyền thuyết này đã xuất hiện trong Lục độ tập kinh 3 ĐTK152 tờ 14a 26
- cl8 truyện 23 do Khương Tăng Hội dịch ra chữ Hán vào khoảng những năm 220 -
250 (*). Cũng một cách, truyện Tây Qua của Lĩnh Nam trích quái là một dị bản của
truyện 7 trong Cựu Tạp Thí Dụ Kinh, ĐTK206 tờ 512a 16 - b7, cũng do Khương Tăng
Hội phiên dịch, v.v... Nói khác đi, dù những truyện do Trần Thế Pháp tập hợp lại
trong Lĩnh Nam trích quái xảy ra tương đối muộn, nhưng có những dữ kiện đã được
chứng minh là xuất hiện rất sớm trong lịch sử văn học nước ta. Do thế, truyền
thuyết về Chử Đồng Tử được nhà sư Phật Quang dạy đạo Phật cũng có khả năng xảy
ra rất sớm trong lịch sử dân tộc, chứ không phải vì sự xuất hiện muộn màng
trong Lĩnh Nam trích quái mà mất đi tính trung thực và cổ sơ của nó.
(*) Lê Mạnh Thát, Khương Tăng Hội toàn tập, tập I, tr.
358-361.
Vậy nhà sư Phật Quang này xuất hiện ở cửa Sót vào thời nào?
Qua những chứng cớ ngoại tại, gián tiếp vừa kể trên, tối thiểu ta biết là những
gì Lĩnh Nam trích quái ghi lại chưa hẳn là không xảy ra, hay không có từ xưa. Cụ
thể là truyện về truyền thuyết Trăm Trứng. Không kể các dã sử hay những thông
tin bên ngoài, cứ theo chính sử Trung Quốc cũng đã ghi là có các chính quyền
phương nam đi thông qua nước ta để đến phương bắc, đó là chính quyền nước Hoàng
Chi. Bình Đế Kỷ trong Tiền Hán thư 12 tờ 4a 3 ghi: “Nguyên thủy thứ 2 (năm thứ
2 sdl), mùa xuân, nước Hoàng Chi dâng tê giác và bò”. Rồi đến quyển 28 hạ, Tiền
Hán thư tờ 32b 2 - 3, nơi chuyện Vương Mãng, cũng ghi: “Trong khoảng Nguyên thủy (1 - 6 sdl) của Bình đế, Vương Mãng phụ chính, muốn làm rạng rỡ uy đức của mình
đã gửi biếu hậu hỷ vua Hoàng Chi khiến cho gửi sứ cống tê giác và bò sống”. Nước
Hoàng Chi này, cứ Tiền Hán thư 28 hạ, tờ 32b 3 - 5, còn ghi tiếp: “Từ Hoàng Chi
đi thuyền có thể tám tháng đến Bì Tôn, rồi đi thuyền hai tháng có thể đến biên
giới Tượng Lâm của Nhật Nam. Phía nam Hoàng Chi có nước Dĩ Trình Phất. Dịch sứ
của Hán từ đó về”.
Thế rõ ràng Hoàng Chi là một nước rất xa nước Hán, đi thuyền đến mười tháng mới
đến. Ghi nhận đầu tiên của chính sử Trung Quốc về sự liên hệ giữa chính quyền
Trung Quốc và chính quyền Hoàng Chi là Hoàng Chi ở phía tây nước ta và phải đi
thông qua nước ta mới đến Trung Quốc được. Hoàng Chi là nước nào? Có khả năng
Hoàng Chi đây là một trong những nước ở Ấn Độ. Cho nên, nói cách khác, từ những
năm đầu Dương lịch, quan hệ chính thức giữa Ấn Độ và Trung Quốc đã có về đường
biển và đã được chính sử Trung Quốc ghi lại. Sau đó, từ thế kỷ thứ hai trở đi
thì quan hệ giữa An Độ và Trung Quốc đã được ghi rất rõ, cho nên khả năng trước
khi có quan hệ chính thức trên bình diện chính quyền thì phải có quan hệ nhân
dân; tức quan hệ giữa hai dân tộc phải đi với nhau rồi hai chính quyền mới đi
theo, hoặc để bảo trợ quyền lợi của dân tộc mình hoặc để thiết lập quan hệ ngoại
giao. Cho nên khả năng những thương thuyền buôn bán của người Ấn Độ đã đến
Trung Quốc trước thời Vương Mãng từ lâu là một sự thật.
Thực tế thì ngay trong Sử ký ta đã tìm thấy những từ tiếng Phạn được phiên âm
ra tiếng Trung Quốc, cụ thể là từ lưu ly, vaidurya. Tức là nước Trung Quốc đã
biết nước Ấn Độ từ lâu. Nói cách khác, từ những thế kỷ đầu dương lịch, quan hệ
giữa Ấn Độ và Trung Quốc đã thiết lập và có quan hệ buôn bán giữa thương nhân
hai nước (*). Tiền Hán thư 9, tờ 3a 3 – 6 (truyện Tây nam di lưỡng Việt Triều
Tiên đã nói việc thương nhân nước Thục đem vải và gậy trúc Thân độc về Trung Quốc
bán vào năm Nguyên thú thứ nhất (120 tdl). Và truyện Vương Mãng ghi vì “ muốn
làm rạng rỡ uy đức của mình, (ông) đã hậu hĩ vua nước Hoàng Chi và khiến dâng
tê giác và bò sống”, có nghĩa hai chính quyền đã có mối quan hệ bang giao từ
lâu. Mà trước khi Vương Mãng biết đến nước nay thì người nước này đã có quan hệ
với Trung Quốc rồi, cho nên Vương Mãng mới biết để khiến dâng vật cống với mục
đích làm cho hai nước quan hệ chính quyền với nhau. Nói cách khác vào những thế
kỷ trước và sau dương lịch, đã có những quan hệ giữa Trung Quốc và các nước
khác về đường biển thông qua Việt Nam. Cho nên giả thiết sự tồn tại của nhà sư
Phật Quang giữa thế kỷ thứ III hay thứ II tdl có thể chứng thực được.
Chú thích: (*) Sầm Trọng Miễn, Nha phiến chiến tranh dĩ
tiền Hán ngữ trung đích tá từ, Trung Sơn Đại học học báo 4 (1959) 146 - 154.
Về nhà Sư Phật Quang
Truyện Nhất Dạ Trạch trong Lĩnh Nam trích quái kể lại việc Chử
Đồng Tử họ được đạo Phật như sau:
“Thương nhân nước ngoài tới lui buôn bán kính thờ Tiên Dung (và) Đồng Tử làm
chúa. Có một khách buôn lớn đến bảo Tiên Dung rằng: “Quí nhân hãy bỏ ra một dật
vàng năm nay cùng thương nhân ra nước ngoài mua vật quí, đến sang năm được lãi
mười dật”. Tiên Dung vui mừng bảo Đồng Tử: “Vợ chồng ta là bởi Trời mà nên.
Nhưng cái ăn cái mặc là do người làm lấy. Nay nên đem một dật vàng cùng thương
nhân ra nước ngoài mua vật quí để sinh sống”. Đồng Tử bèn cùng thương nhân đi
buôn bán lênh đênh ra khắp nước ngoài. Có núi Quỳnh Viên trên núi có am nhỏ.
Thương nhân ghé thuyền vào lấy nước. Đồng Tử lên am dạo chơi. Trong am có một
tiểu Tăng tên Phật Quang truyền pháp cho Đồng Tử. Đồng Tử ở lại để nghe pháp,
đưa vàng cho thương nhân đi mua hàng. Đến lúc thương nhân trở về lại tới am đó
chở Đồng Tử trở về nhà. Nhà sư bèn tặng cho Đồng Tử một cây gậy và một cái nón,
vừa bảo: “Các việc linh thông đều ở đó rồi”. Đồng Tử trở về, đem đạo Phật nói hết
với Tiên Dung. Tiên Dung giác ngộ, bèn bỏ cả quán chợ nghề buôn để cùng Đồng Tử
du phương tìm thầy học đạo”.
Việc Chử Đồng Tử và Tiên Dung, những người Việt Nam đầu tiên mà ta biết tên tiếp
thu đạo Phật là như thế. Có hai đặc điểm mà ta cần lưu ý. Thứ nhất, việc tiếp
thu này đã xảy ra tại núi Quỳnh Viên. Núi Quỳnh Viên từ thời Lê Thánh Tôn ta đã
biết là nằm tại của Nam Giới, hay cửa Sót. Ngày nay, tại bờ nam của cửa Sót,
còn có một hòn núi gọi là Nam Giới sơn (1). Phải chăng đây là địa điểm cần tìm
hiểu khảo cổ học để khai quật xem có vết tích gì của Chử Đồng Tử và Phật Quang
chăng? Trước mắt, ít nhất ta đã xác định được là Quỳnh Viên không phải là một
ngọn núi thần thoại, mà thật sự là một hòn núi có tên tuổi tại cửa Sót. Do những
dấu vết của Chiêm Thành còn tồn tại đến ngày nay, ta cũng hiểu thêm từ cửa Sót
về nam là miền đất thuộc vương quốc Chiêm Thành. Như thế, đất nước Việt Nam thời
Hùng Vương phải chăng đã lấy cửa Sót làm một địa điểm của miền cực nam của tổ
quốc ta?
Cần lưu ý, từ vùng cửa Sót trở ra miền bắc, ta không tìm thấy có bất cứ di chỉ
nào liên hệ với nền văn hóa của Chiêm Thành. Ngược lại, từ cửa Sót trở về nam,
cụ thể là các vùng phía nam tỉnh Nghệ An, tức từ Vinh trở về nam và các tỉnh Hà
Tỉnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên, cho đến ngày nay, vẫn còn những vết
tích của nền văn hóa Chiêm Thành. Nói thế, tức là muốn nói Phật giáo truyền vào
nước ta căn cứ vào Lĩnh Nam trích quái là từ phía nam, qua trung gian nhà sư Phật
Quang ở núi Quỳnh Viên, tại Nam Giới hay cửa Sót, giáp với Chiêm Thành. Nhà sư
này chắc hẳn không phải là người Việt, vì rằng truyện Chử Đồng Tử nói “Đồng Tử
linh đinh ra khắp nước ngoài (phù du xuất hải ngoại)”. Vùng núi Quỳnh Viên này
có khả năng vào thời Chử Đồng Tử chưa thuộc bản đồ nước ta. Như nhà sư Phật
Quang này có thể là một người Chiêm Thành, hoặc là người Ấn Độ, đang tìm cách
truyền bá Phật giáo vào Việt Nam. Và Chử Đồng Tử là người Việt Nam đầu tiên đã
tiếp xúc với ông, để rồi sau đó, trở thành người Phật tử Việt Nam đầu tiên có
tên tuổi. Truyện Chử Đồng Tử này sau đó được Thiên Nam Vân Lục (2) của một tác
giả vô danh chép lại.
Thế thì Chử Đồng Tử đã tiếp thu đạo Phật như thế nào? Đây là đặc điểm thứ hai
mà ta cần lưu ý. Truyện Chử Đồng Tử chỉ nói khi Đồng Tử trở về quê “nhà sư bèn
tặng cho Đồng Tử một cây gậy và một cái nón, vừa bảo: “Mọi việc linh thông đều
đã ở đây cả”. Nói vậy, Lĩnh Nam trích quái báo ta biết là truyền thống Phật
giáo mà Chử Đồng Tử tiếp thu là một truyền thống Phật giáo quyền năng, đề cập đến
những vấn đề linh dị và thần thông (linh thông). Truyền thống Phật giáo này như
ta sẽ thấy, xuất hiện trong Mâu Tử cũng như trong Khương Tăng Hội, và tồn tại
cho đến một thời truyền thống Phật giáo mới ra đời, đó là truyền thống Phật
giáo Thiền của Pháp Vân. Cần nhấn mạnh Phật giáo quyền năng này cho đến thế kỷ
thứ VI được bổ sung bởi truyền thống Phật giáo Thiền, nhưng không vì thế mà mất
đi ảnh hưởng cơ bản của nó. Nó vẫn tồn tại như một lớp truyền thống Phật giáo đầu
tiên của Phật giáo Việt Nam, một lớp cơ bản để từ đó xây dựng nên những truyền
thống Phật giáo mới, bổ sung cho nó qua lịch sử phát triển của Phật giáo ở Việt
Nam. Nhận thức điều này, ta sẽ dễ dàng hiểu được những hiện tượng đặc thù của
những truyền thống khác nhau của Phật giáo Việt Nam trong lịch sử. Ta sẽ đi sâu
về vấn đề này dưới đây.
(1) Henri Le Breton, Le vieux An Tịnh trong Bulletin des Amis
du Vieux Hue, 22(1935)2.
(2) Nhất Dạ Trạch truyện, Việt Nam Hán văn Tiểu thuyết tùng san 2. Đài Loan: Học
sinh thư cục ấn hành, 1992. 202 - 204.
Chử Đồng Tử
Người Phật tử Việt Nam đầu tiên
Trước mắt, nếu Chử Đồng Tử là người Phật tử Việt Nam đầu
tiên, thì vấn đề người Phật tử đầu tiên này đã sống vào lúc nào? Truyện Nhất Dạ
Trạch chỉ viết một câu hết sức mơ hồ, là: “Vua Hùng truyền đến cháu đời thứ 3”
(Hùng Vương truyền chí tam thế tôn). Ta biết lịch sử nước ta, tên hiệu Hùng
Vương được dùng để gọi cho nhiều đời vua thời cổ đại.
Đại Việt sử ký toàn thư ngoại kỷ I, tờ 2b9 - 5b, ghi nhận
Hùng Vương là triệu đại đầu tiên của họ Hồng Bàng, và bảo: “Họ Hồng Bàng từ Kinh
Dương Vương năm Nhâm Tuất thụ phong cùng với Đế Nghi cùng thời, truyền đến đời
Hùng Vương cuối cùng gặp năm 257 tdl của Noãn Vương nhà Chu, là năm Quý Mão thì
chấm dứt, gồm 2622 năm”. Nhưng trong phần phàm lệ, tờ 2a1 - 2, Ngô Sĩ Liên đã
nhận xét: “hoặc có người nói (Hùng Vương) có 18 đời, sợ chưa phải là thế”.
Đi sâu vào vấn đề này, ta biết hiện có 3 bản ngọc phả khác nhau liên hệ đến triều
đại Hùng Vương. Bản thứ nhất là một bản chép của thời Lê Hồng Đức bắt đầu từ
năm 1470, rồi được chép lại vào thời Lê Kính Tôn (ở ngôi 1600 - 1618), niên đại
Hoằng Định. Bản thứ hai là bản chép tay đời Khải Định được bảo là chép lại từ một
bản thuộc niên đại Thiên Phúc (980 - 988) của Lê Đại Hành (ở ngôi 980 - 1005).
Cả hai bản này hiện tàng trữ tại đền Hùng ở Vĩnh Phú, Phú Thọ. Bản thứ ba hiện
tàng trự tại chùa Tây Thiên trên núi Tam Đảo, không có ghi ngày tháng. Vấn đề
văn bản học của các ngọc phả này ta chưa cần đề cập tới ở đây. Chỉ cứ vào
chúng, ta biết tối thiểu mỗi triều đại Hùng Vương có cùng mang một tên hiệu. Chẳng
hạn, đời Hùng Vương cuối cùng là Hùng Duệ Vương thì ta có Duệ Vương thứ nhất,
thứ hai, thứ ba, v.v… Vì thế, mười tám đời Hùng Vương trải dài trên hai ngàn
năm là có thể hiểu được. Riêng đối với vấn đề quan tâm của chúng ta ở đây là
cháu đời thứ ba của Hùng Vương là cháu của Hùng Vương đời nào?
Nếu Phật giáo xuất hiện vào năm 528 (hoặc 529?) tdl ở Ấn Độ và bắt đầu truyền
bá qua các nước xung quanh vào những năm 247 - 232 tdl vào thời của vua A Dục
khi vua này lịnh cho các phải đoàn Tăng lữ đi khắp nơi để truyền bá đạo Phật,
trong đó đặc biệt là phái đoàn của Sona đi về vùng Đất vàng (Suvanabhumi). Vùng
Đất này có phải là vùng Đông Nam Á hay không, có phải là vùng Đông Dương hay
không? Đây là một vấn đề đang còn tranh cãi. Tuy nhiên cứ vào những sử liệu cổ
sơ của Trung Quốc, cụ thể là Sử Ký và Tiền Hán thư cùng Hậu Hán thư cũng như
các di liệu khảo cổ học, như di liệu khảo cổ học Óc Eo, thì vào những thế kỷ đầu
dl, vùng biển phía nam nước ta đã rộn rịp những thương thuyền không những của
các quốc gia thuộc nền văn minh Ấn Độ, mà cả những quốc gia xa xôi của nền văn
minh La Mã. Cho nên, truyền bá Phật giáo vào những vùng đất này là một sự kiện
chắc chắn đã xảy ra.
Hơn nữa, vùng đất miền nam nước ta từ phía nam cửa Sót trở vào đã mang nặng những
vết tích của nền văn hóa Ấn Độ. Chiếc bia Võ cảnh tìm thấy tại làng Võ Cảnh ở
Nha Trang, thường được các nhà nghiên cứu xác định là xuất hiện vào thế kỷ II
sdl viết bằng Phạn văn. Để cho Phạn văn trở thành một ngôn ngữ được khắc trên
đá vào thế kỷ ấy, nền văn minh Ấn Độ vào thời điểm ấy chủ đạo là Phật giáo, phải
truyền bá tại vùng đất này qua một thơi gian tương đối dài, tối thiểu cũng phải
mất một vài ba trăm năm. Nói thẳng ra, văn minh Ấn Độ phải tồn tại ở phía nam
nước ta vào những thế kỷ trước và sau Dương lịch. Cho nên, vị Hùng Vương của thời
Chử Đồng Tử ta cũng có thể xác định vào những thế kỷ tdl, có khả năng là Hùng
Nghị Vương thứ nhất hoặc thứ hai, tức khoảng thế kỷ II - III tdl.
Đoán định này của ta về niên đại của việc Chử Đồng Tử tiếp thu Phật giáo là
hoàn toàn phù hợp với quan điểm của thiền sư Chân Nguyên (1647-1728) trong
Thiên Nam Ngữ Lục (1). Sau khi kể chuyện Lữ Gia bị quân của Hán Vũ Đế đánh bại,
Chân Nguyên viết:
(1) Lê Mạnh Thát, Chân Nguyên thiền sư toàn tập III, Thiên
Nam Ngữ Lục Tu thư Phật học Vạn Hạnh, 1983.
“Gia bỏ cửa mốc nhà rêu
Hang thần trật lối, hồn phiêu đường nào
Nước nên thấy những đồng dao
Cõi bờ tất đất vào chầu Hán gia
Non Sài tuyệt chẳng vào ra
Thấy còn một dấu vườn là Trúc Viên
Đìu hiu ngoài cảnh thiền thiên
Thuở trưa quyên khóc, thuở đêm hạc sầu”
Viết thế, Chân Nguyên muốn nói rằng ngôi chùa Trúc Viên đã có
từ\ thời Lữ Gia, tức khoảng năm 110 tdl tại núi Thầy (Sài Sơn), ở Sơn Tây. Điều
này cũng có nghĩa Phật giáo đã tồn tại ở nước ta vào thế kỷ thứ II tdl. Đây là
một điểm khá lôi cuốn. Bởi vì nó cho thấy đã từ lâu lưu hành quan điểm cho rằng
Phật giáo đã du nhập vào nước ta từ rất sớm. Đến thời An Thiền viết Đạo Giáo
Nguyên Lưu (1) vào năm 1845, ở quyển thượng, tờ 9a11 - b5 dưới mục Đại Nam thiền
học sơ khởi, ông đã kể lại truyện tích Chử Đồng Tử như đã ghi lại trong Lĩnh
Nam trích quái:
(1) Lê Mạnh Thát, An Thiền thiền sư toàn tập: Đạo giáo nguyên
lưu, 3 quyển. Cảo bản.
“Thời Hùng Vương, núi Quỳnh Vĩ, có Đồng Tử lên thảo am. Trong
am có nhà sư tên Phật Quang. Đó là người Thiên Trúc, tuổi hơn 40, truyền pháp
cho Đồng Tử một cái nón và một cây gậy, nói rằng: “Linh dị và thần không có đây
cả”. Đồng Tử đem đạo Phật truyền cho Tiên Dung. Vợ chồng Tiên Dung bèn học đạo.
Đến buổi chiều ngày trở về, giữa đường cần làm nơi tá túc, bèn dựng gậy che
nón, đến canh ba thì thành quách lâu đài, màn gấm màn the, kim đồng ngọc nữ, tướng
sĩ thị vệ đầy cả sân chầu…”.
An Thiền cũng đề ra mục Hùng Vương Phạn Tăng, tức các nhà sư Ấn Độ thời Hùng
Vương, ở tờ 9b6 - 9, và kể tên nhà sư Khâu Đà La đến thành Luy Lâu của Sĩ Nhiếp
vào thời cuối của Hán Linh đế (168 - 189 sdl). Xác định Khâu Đà La vào thời
Hán Linh đế, dĩ nhiên không thể xếp Khâu Đà La vào loại các nhà sư vào thời
Hùng Vương được.
Ngoài ra, trong các loai thần tích của các xã, ta biết trong số các tướng tá của
Hai Bà Trưng, sau khi bị Mã Viện đánh bại, một số đã mai danh ẩn tích trong các
giáo đoàn Phật giáo. Một trong những vị này được biết tên là Bát Nàn phu nhơn
đã xuất gia. Như sẽ thấy, chính những vị này cùng người kế nghiệp họ đã tập họp
những văn bản kinh điển Phật giáo lưu hành lúc ấy, những bộ kinh đầu tiên hiện
còn và được biết mà sau này Khương Tăng Hội đã dịch thành Hán văn dưới nhan đề
Lục độ tập kinh và Cựu Tạp Thí Dụ Kinh.
Uất Kim Hương, hoa cúng Phật
Như vậy, qua lịch sử nước ta đã tồn tại và lưu hành tương đối
phổ biến trong giới sử học Phật giáo Việt Nam một quan điểm cho rằng Phật giáo
đã truyền vào nước ta từ thời Hùng Vương. Vấn đề bây giờ là thử xem xét quan điểm
này có một giá trị hay không. Ta phải xem xét, bởi vì tất cả các sử liệu đề cập
đến vấn đề này đều xuất hiện khá muộn màng, cách xa sự việc được ghi lại tới cả
hàng nghìn năm, từ Thiền Uyển Tập Anh, Lĩnh Nam Trích Quái, Thiên Nam Vân Lục
cho đến Thiên Nam Ngữ Lục và Đạo Giáo Nguyên Lưu, những văn bản này đều ra đời
vào thế kỷ thứ XIV trở về sau. Vậy, ta có thể tìm ra những chứng cứ nào xuất hiện
trong những văn bản sớm hơn, gần gủi hơn, với những sự kiện đã xảy ra hay
không? Trả lời câu hỏi này, ta hiện có tối thiểu hai cứ liệu.
Thứ nhất, là một câu trích dẫn của Lý Thời Trân (1518-1593) trong Bản Thảo
Cương Mục 14, tờ 69b4-5 trước mục Uất kim xuất Quyết Tân quốc, nhân chủng chi,
tiên dĩ cúng Phất, sổ nhật nụy, nhiên hậu thủ chi, sắc chính hoàng, dự phù dung
hoa lý nộn liên giả tương tự, khả dĩ hương tửu”. (Nam Châu dị vật chí của Dương
Phùng nói: Uất kim đến từ nước Quyết Tân, người ta trồng trước để cúng Phật,
vài ngày thì héo, sau đó giữ lại, màu nó vàng rộm, cùng với nhụy hoa phù dung
và sen non tương tự, có thể dùng để ướp rượu).
Dương Phù, cứ Quảng châu tiên hiền chí, của Hoàng Tá (1490- 1560) và Bách việt
tiên hiền chí do Âu Đại Nhiệm viết năm 1554, ghi rằng: “(Dương Phù) tên tự Hiểu
Nguyên, người Nam Hải. Triều vua Chương đế tìm người tài giỏi, ông đối đáp
trúng cách, nên phong làm Nghị văn. Hòa Đế tức vị, dùng nhân đánh Hung Nô. Phù
tâu rằng: “Gầy dựng cơ nghiệp thì dùng võ, giữ lấy cơ nghiệp thì dùng văn, nên
khi nhà Châu thắng nhà Ân thì có việc ca ngợi sự chấm dứt chiến tranh (…), vậy
xin bệ hạ hãy noi theo nếp đẹp của tổ tông, đừng khinh dùng việc võ”. Năm Vĩnh
nguyên thứ 12 (100 sdl) có hạn, vua gọi Phù đến triều đình bàn việc được mất của
chính lịnh. (…). Lúc bấy giờ, Nam Hải thuộc Giao chỉ bộ. Thứ sử Hà Tắc đi tuần
bộ của mình. Mùa đông Tắc trở về, tâu rằng: Chính quyền trung ương chọn thứ sử
không đúng phép, nên họ sau đó đã tranh dành nhau tôn thờ việc người khác, dâng
tặng đồ trân quí. Phù bèn lựa những đặc tính của sự vật, chỉ cho hiểu tính khác
lạ của chúng; nhằm nói rõ ra, ông viết sách Nam Duệ dị vật chí (…). Sau đó ông
làm thái thú quận Lâm Hải, lại làm sách Lâm Hải thủy thổ ký. Người đời phục ông
cao thức và không khinh thường sự dạy dỗ.”
Bản tiểu sử vừa được dịch là lấy từ Bách việt tiên hiền chí, quyển 2, tờ
5b9-6b10. Nhưng tất cả các cuốn sử về nhà Hậu Hán như Hậu Hán ký của Viên Hoằng
(328-376) và Hậu Hán thư của Phạm Việp (398-445) đều không thấy nhắc tới tên
Dương Phù. Chỉ đến Lệ Đạo Nguyên viết Thủy kinh chú trước năm 529, quyển 36 tờ
30a6 và quyển 37 tờ 6a8 mới dẫn một Dương thị Nam duệ dị vật chí. Rồi đến Tùy thư kinh tịch chí 33 tờ 133a4-5 mới ghi tên “Dương Phù soạn Giao Châu dị vật
chí một quyển” và “Hán nghị lang Dương Phù soạn Dị vật chí một quyển”. Sau đó,
Nghệ văn loại tụ do Au Dương Tuần soạn năm 624, quyển 84 và quyển 95 và Sơ học
ký do Từ Kiên chủ biên năm 659, quyển 9, cũng như Thái bình ngự lãm quyển 395,
quyển 890, v.v… do Lý Phưởng (926-996) biên soạn, mới bắt đầu trích dẫn Nam
Châu dị vật chí hay Nam Duệ dị vật chí và Giao châu dị vật chí. Như vậy Nam
Châu, Nam Duệ hoặc Giao Châu đều chỉ chung cho một vùng đất thuộc miền bắc nước
ta hiện nay. Vì thế, nếu Nam Châu dị vật chí của Dương Phù bảo rằng “người ta”
trồng Uất kim hương để cúng Phật, thì “người ta” đây chính là người nước ta.
Đây là chứng cớ đầu tiên, xuất hiện tương đối sớm nhất, tức khoảng năm 100 sdl,
xác nhận có một bộ phận người Việt đã theo Phật giáo, đã biết trồng hoa Uất kim
hương để cúng Phật.
Qua phần trích dẫn trên, bạn đọc cũng nhận thấy rằng nhận định
của ông Lê Mạnh Thát khác với nhận định của người viết trong sách này cho rằng “ngài
Chử Đồng Tử người sáng lập Đạo giáo của nền văn minh Lạc Việt”. Còn ông Lê Mạnh
Thát cho rằng Chử Đồng Tử là người Phật tử đầu tiên ở Việt Nam. Đây là điều mà
bản văn của Lĩnh Nam trích quái đã ghi nhận. Vấn đề còn lại – theo nhận định của
ông Lê Mạnh Thát – chỉ là sự chứng minh tính thực tế của bản văn đó. Về việc
này, thì những luận cứ của ông Lê Mạnh Thát đều là những chứng cứ gián tiếp,
không có sự liên hệ chặt chẽ với vấn đề đặt ra. Điều này được thể hiện qua những
hiện tượng qua phần trích dẫn trên của chính ông, như sau:
CHƯƠNG VI - PHỤ CHƯƠNG - 2
Do đó, chỉ có thể núi Quỳnh Viên là một địa danh thần thoại;
hoặc là phải ở rất xa bờ biển Việt Nam, chứ không thể ở ngay cửa Sót được. Hơn
nữa, Quỳnh Viên nghĩa đen là vườn Quỳnh, một địa danh dễ liên hệ tới Quỳnh Dao
là nơi ở của bà Tây Vương Mẫu, hơn là một địa danh có thật. Vả lại, câu “Danh
sơn do tích cổ Quỳnh viên” chưa trực tiếp khẳng định hòn núi này có tên là
Quỳnh viên trước khi ngài Chử Đồng Tử đến tu tập. Cho dù, trên thực tế từ thời
Lê Thánh Tôn - sau thời điểm ngài Chử Đồng Tử thành đạo ngót 2000 năm - hoặc
trước đó đã có núi Quỳnh Viên và có một am nhỏ trên đó, thì điều đó cũng khó có
thể liên hệ với một hiện tượng đã xảy ra trước đó gần hai ngàn năm. Bởi vì, nếu
giả thiết Chử Đồng Tử đã từng tu ở đây thật và phổ biến Phật giáo vào thời của ngài
như một hiện tượng xã hội lớn, đến mức độ vua Hùng phải quan tâm đến. Như vậy,
sẽ dẫn tới sự liên hệ tiếp tục với những vấn đề sau đây:
* Ngôi chùa (hoặc am) trên núi Quỳnh Viên có thật đó sẽ là di
tích đầu tiên của lịch sử Phật giáo Việt Nam. Nhưng, không thể ngôi chùa đầu
tiên tu hành của vị đứng đầu Phật giáo Việt Nam là Chử Đồng Tử - đồng thời là một
danh nhân của dân Lạc Việt: Ngài là một trong bốn vị thần bất tử trong tín ngưỡng
dân gian - mãi mãi chỉ là một cái am nhỏ trải hàng ngàn năm sau đó, mà không được
chú ý đến. Trong khi Phật giáo là một tôn giáo lớn được hầu hết người Việt tôn
trọng, dù theo hay không theo tôn giáo này. Hơn nữa, câu trên cũng có thể hiểu
rằng: bắt đầu tự sự tích núi Quỳnh Viên mà đời sau lấy tên đó đặt cho hòn núi
này. Hay nói một cách khác: địa danh núi Quỳnh Viên có sau sự tích này. Do đó,
chỉ có thể nhận xét một cách hợp lý rằng: người đời sau đã sử dụng một hiện tượng
thực tế để minh chứng cho một truyền thuyết. Cũng như đầm Nhất Dạ ở Hải Dương,
được coi là di tích của ngài Chử Đồng Tử. Nhưng chưa chắc hẳn đã là nơi ngài Chử
Đồng Tử qui tiên ở đấy. Tức là, không phải ngài Chử Đồng Tử đã hóa phép để biến
một vùng đất thành một cái hồ ở Hải Dương bây giờ là một thực tế. Chỉ có thể
coi đây là một hiện tượng thực tế được sử dụng để bảo chứng cho sự tồn tại của
một truyền thuyết.
@ Về hiện tượng hoa Uất kim cương
Chính theo bản văn mà ông Lê Mạnh Thác dẫn chứng thì việc sử
dụng hoa Uất kim cương cúng Phật được Dương Phù ghi nhận vào thời điểm khoảng đầu
thế kỷ thứ II sau CN (120 s CN). Tức là sau thời điểm Văn Lang mất nước hơn 300
theo quan niệm mới; và gần 400 theo sử cũ. Chưa nói đến vấn đề theo đúng truyền
thuyết thì sự xuất hiện của ngài Chử Đồng Tử vào đầu thời Hùng Vương thứ 18 - tức
là khoảng 400 tr.CN theo Hùng triều Ngọc phả - thì khoảng cách này là hơn nửa
thiên niên kỷ. Đây cũng chỉ là một chứng cứ gián tiếp không có sự liên hệ gần
gũi.
@ Về thời điểm Phật giáo truyền vào Việt Nam
Chính trong đoạn trích dẫn trên đã nói rõ rằng:
“… Vào những năm 247 - 232 tdl vào thời của vua A Dục, khi vua
này lệnh cho các phái đoàn Tăng lữ đi khắp nơi để truyền bá đạo Phật, trong đó
đặc biệt là phái đoàn của Sona đi về vùng Đất vàng (Suvanabhumi). Vùng đất vàng
này có phải là vùng Đông Nam Á không, có phải vùng Đông Dương không? Đây là một
vấn đề còn đang tranh cãi…”
Người viết đặt một giả thiết thuận lợi nhất cho nhận định của
ông Lê Mạnh Thát là vùng đất vàng chính là Việt Nam. Và giả thiết thuận lợi nhất
cho niên đại chấm dứt thời đại Hùng Vương - theo quan điểm mới - là 208 tr.CN
thì nó chỉ cách thời điểm xa nhất của việc truyền bá đạo Phật của tăng đoàn
Sonna là 39 năm, gần nhất là 24 năm. Với những điều kiện trên và cho rằng ngài
Chử Đồng Tử đã tiếp xúc ngay được với giáo lý của Phật vào thời điểm này (thuận
lợi nhất là 39 năm trước khi kết thúc thời đại Hùng Vương) thì:
Theo như truyền thuyết thì ngài Chử Đồng Tử đã tạo được một khối lượng tín đồ
đông đảo và đứng đầu giáo hội này trở thành một hiện tượng xã hội, khiến vua
Hùng phải quan tâm tới. Nhưng chính tư liệu của ông Lê Mạnh Thác lại chứng tỏ: “Bấy
giờ Tôn Quyền xưng đế Giang Tả (năm 222 sdl) mà Phật giáo chưa lưu hành”. Điều
này một sự phủ định gián tiếp cho nhận định của ông Lê Mạnh Thác. Bởi vì:
Nếu Phật giáo được truyền vào Việt Nam qua ngài Chử Đồng Tử vào thời điểm cuối
cùng của thời Hùng Vương (208 tr.CN theo quan điểm lịch sử mới, tức là điều kiện
thuận lợi nhất cho nhận định trên), kéo dài đến 400 năm sau đó đến thời Tôn Quyền
nhà Ngô (tức Giang Đông); không lẽ Phật giáo không thể phát triển trong vòng
400 năm đó, trong phạm vi một quốc gia và sau này là chính Giang Đông? Hay nói
một cách khác: không lẽ trong vòng 400 năm không có sự giao lưu văn hóa trong một
quốc gia; để rồi đến đời Đường, Phật giáo lại từ Trung Quốc qua chính vùng
Giang Đông trở lại vào Giao Châu? Do đó, sự không phổ biến của Phật giáo ở
Giang Đông vào thời điểm 200 năm sau CN, đã chứng minh sự mâu thuẫn trong nhận
định của ông Lê Mạnh Thác.
Chưa nói đến việc theo quan điểm lịch sử cũ thì thời Hùng Vương kết thúc vào
năm 257 tr.CN; tức là trước khi phái đoàn của Sona xuất hành truyền bá đạo Phật
8 năm và vấn đề Đất Vàng có phải là Việt Nam không. Bởi vậy, có thể khẳng định
rằng: Phật giáo chưa thể truyền vào Việt Nam vào thời điểm ngài Chử Đồng Tử
hành đạo. Còn một vấn đề đặc biệt quan trọng nữa là: Thời điểm hành đạo của
ngài Chử Đồng tử vào đầu thời Hùng Vương thứ 18. Nếu theo quan niệm mới
thì đó là một đời vua và ngài Chử Đồng Tử chỉ hành đạo vào khoảng 230 năm
tr.CN. Nhưng với quan niệm cho rằng thời Hùng Vương tồn tại 2622 năm và căn cứ
vào Hùng triều Ngọc phả (trong sách đã dẫn, ông Lê Manh Thác cũng nói đến điều
này và không phản bác) thì đầu thời Hùng Vương thứ 18 sẽ vào thời điểm từ năm
408 tr.CN. Lúc này Phật giáo chưa thể truyền vào Việt Nam. Vấn đề này sẽ được
trình bầy ngay sau đây.
@ Thời điểm hành đạo của ngài Chử Đồng Tử
Với cách nói và cái nhìn quen thuộc về 18 “đời” Hùng Vương.
Đã dẫn đến cái nhìn cho là thời Hùng Vương chỉ có 18 vị vua. Và đời Hùng Vương
thứ 18 chỉ là một vị, đã dẫn đến nhiều mâu thuẫn không thể lý giải. Một trong
những mâu thuẫn khó hiểu nhất chính là việc chia 2622 năm tồn tại của thời Hùng
Vương cho 18 vị vua (theo quan niệm mới) ra con số khoảng gần 150 năm cho tuổi
thọ của một con người và khẳng định tính phi lý về niên đại gần 3000 văn hiến
Văn Lang. Bởi vì, truyền thuyết Con Rồng - Cháu Tiên mang nội dung huyền thoại:
Rồng lấy Tiên, đẻ ra một trăm trứng nở thành 100 người con … Do đó, con số 18
cũng chỉ mang tính biểu tượng. Cho nên không thể lấy một đại lượng cụ thể (2622
năm được ghi trong chính sử cũ) chia cho một đại lượng trừu tượng. Đây là một
sai lầm sơ đẳng về toán học. Nó giống như việc lấy tri thức trong một cuốn sách
chia cho số học sinh, để tìm xem trung bình một học sinh tiếp thu được bao
nhiêu phần của cuốn sách.
Nếu không căn cứ vào Hùng triều Ngọc phả, thì ngay truyền thuyết thời Hùng
Vương cũng đủ chứng tỏ “18 đời Hùng Vương” mà truyền thuyết nói tới
không thể là 18 vị vua, bởi vì:
Vào thời Hùng Vương thứ 18 có đến 3 truyền thuyết mà nội dung không liên quan đến
nhau. Đó là: truyền thuyết về ngài Chử Đồng Tử, vào đầu thời Hùng Vương thứ 18;
truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh, vào cuối thời Hùng Vương thứ 18; truyền
thuyết về ngài Tản viên Sơn Thánh cũng vào cuối thời Hùng Vương thứ 18. Trong
đó: Truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh khẳng định vua Hùng cuối đời thứ 18 chỉ
có một người con gái duy nhất là Mỵ Nương. Với truyền thuyết Đầm Nhất Dạ - vào
đầu thời Hùng Vương thứ 18 - lại có công chúa Tiên Dung? Rồi truyền thuyết về
ngài Tản Viên Sơn Thánh, cũng cuối đời Hùng Vương thứ 18 lại có công chúa Ngọc
Hoa. Để giải quyết mâu thuẫn này, với quan điểm mới chỉ còn cách ghép hai vị
công chúa này thành hai chị em ruột và bắt buộc phải sửa lại truyền thuyết Sơn
tinh - Thủy tinh là “Vua Hùng thứ 18 có hai công chúa, một người gả cho Chử
Đồng Tử, còn lại chỉ có một người là Mỵ Nương, tên là Ngọc Hoa”; cuối cùng
là ghép ngài Tản Viên Sơn Thánh - Nguyễn Tuấn - chính là Sơn Tinh? Sự gán ghép
này tất nhiên là rất phi lý! Trước hết là nội dung các truyền thuyết này không
liên quan đến nhau.
Nội dung trực tiếp của truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh đầy màu sắc huyền thoại
trong suốt nội dung của nó. Sự liên hệ duy nhất với các truyền thuyết khác chỉ
có ở câu mở đầu: “Vào cuối đời Hùng Vương thứ 18”.
Nội dung trực tiếp của “Sự tích Đầm Nhất Dạ” cũng mang màu sắc huyền
thoại về một con người là ngài Chử Đồng Tử. Sự liên hệ duy nhất với 3 truyền
thuyết cùng thời là câu: “Vào đầu đời Hùng Vương thứ 18”.
Nội dung trực tiếp của truyền thuyết về ngài Tản Viên Sơn Thánh cũng mang ít
nhiều màu sắc huyền thoại về một con người. Sự liên hệ với các truyền thuyết
khác là “Vào cuối đời Hùng Vương thứ 18” và cũng là con rể vua Hùng. Đây là một
truyền thuyết lịch sử về một danh nhân được khẳng định tính thực tế tồn tại vào
cuối thời Hùng Vương thứ 18, mặc dù có chất huyền thoại về con người được xưng
tụng.
Do đó, khi ghép ngài Tản Viên được khẳng định sự tồn tại trên thực tế theo nội
dung truyền thuyết với nhân vật Sơn Tinh huyền thoại mang tính hư cấu hoàn toàn
sẽ mang tính khiên cưỡng, phi lý hoàn toàn. Bởi vì nội dung hai truyền thuyết
này không hề liên quan với hau. Như vậy, sự phân tích với tính hợp lý nhất -
tính hợp lý là một yếu tố cần của một giả thuyết nhân danh khoa học - phải là sự
khẳng định tính độc lập giữa hai truyền thuyết này. Hệ quả của tính hợp lý tiếp
theo là: Khi giữa ngài Tản Viên Sơn Thánh với hình tượng Sơn inh không liên
quan đến nhau thì sẽ phải khẳng định rằng: truyền huyết này nhằm chuyển tải một
nội dung lịch sử khác (sẽ được trình bày ở chương VIII trong sách này). Khi khẳng
định tính độc lập của truyền thuyết này thì sự hợp lý tiếp theo là truyền thuyết
“Đầm Nhất Dạ” cũng độc lập với nội dung của nó. Tức là: Đầu thời Hùng Vương thứ
18 của “Sự tích đầm Nhất Dạ” và cuối đời Hùng Vương thứ 18 của truyền
thuyết ngài Tản Viên Sơn Thánh và Sơn tinh - Thủy tinh, không thể là khoảng thời
gian của một vị vua. Hay nói một cách khác: đầu thời Hùng Vương thứ 18 với công
chúa Tiên Dung và Chử Đồng Tử; cuối thời Hùng Vương thứ 18 với công chúa Ngọc
Hoa và ngài Tản Viên Sơn Thánh Nguyễn Tuấn ít nhất là hai đời vua trong thời
Hùng Vương thứ 18. Như vậy tính chặt chẽ nhất của lập luận tiếp theo sẽ là phải
coi cái nhìn quen thuộc về cụm từ “18 đời Hùng Vương” là sự sai lệch;
mà phải là “18 thời Hùng Vương”. Như vậy, việc tồn tại 2622 năm mà cổ
sử Đại Việt nhắc tới hoàn toàn có cơ sở. Còn nếu như coi các truyền thuyết về
thời Hùng Vương là mơ hồ, thì có thể khẳng định rằng: sẽ không thể có một lập
luận nào, nhân danh bất cứ một giá trị tri thức nào của nhân loại - từ tri thức
siêu hình nhất cho đến tri thức khoa học nhất - được toàn thể nhân loại tích lũy trong quá trình lịch sử của loài người, giải thích được hiện tượng ăn trầu phổ
biến hàng ngàn năm ở miền nam sông Dương Tử, cho đến tận ngày nay ở Đài Loan và
ở Việt Nam, cũng như sự hiện diện của chiếc bánh chưng, bánh dầy trong truyền
thống văn hóa của người Việt còn đến tận bây giờ.
Hơn nữa và cũng là điều quan trọng là: sự xuất hiện với danh xưng “sư Phật
Quang” trong truyền thuyết “Đầm Nhất Dạ” ở “Lĩnh Nam chích quái” chỉ
là một hiện tượng không có sự liên hệ nhất quán và hợp lý trong toàn bộ nội
dung câu truyện. Bạn đọc có thể nhận thấy điều này trong suốt cuộc đời hành đạo
của ngài Chử Đồng Tử. Ngài hoàn toàn sử dụng thần thông để tác động vào cuộc đời.
Hay nói một cách khác - theo ngôn ngữ Phật giáo - là Ngài vẫn tác nghiệp dưới một
hình thức khác và việc này không phải là mục đích tu tập theo giáo lý Phật là
không tác nghiệp dưới bất cứ hình thức nào, để tránh nghiệp quả và đạt đến sự
giải thoát hoàn toàn. Hình tượng thể hiện rõ nét nhất chính là khi đắc đạo,
ngài đã tạo dựng vương quốc riêng với lối sống của bậc đế vương nơi trần thế. Bạn
đọc xem lại đoạn trích dẫn sau đây, trong truyền thuyết Đầm Nhất Dạ thể hiện điều
này:
“Trên đường viễn hành, trời tối mà chưa thấy thôn xá, hai người
tạm nghỉ giữa đường, cắm trượng, che nón mà trú thân. Đến canh ba thấy hiện ra
thành quách, lầu ngọc, điện vàng, đền đài dinh thự, phủ kho miếu xã, vàng bạc
châu báu, giường chiếu chăn màn, tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ la liệt trước
mắt. Sáng hôm sau ai trông cũng kinh lạ, đem hương hoa, thức ăn quí tới mà xin
làm bầy tôi. Có văn võ bá quan chia quân túc vệ lập thành nước riêng.”
Cho dù đây chỉ là hình ảnh biểu tượng phản ánh một vương quốc
tâm linh của một tín ngưỡng được tạo dựng trong nền văn minh Lạc Việt, thì đó
cũng không phải là lối sống và sự tu tập theo Phật pháp. Điều này chứng tỏ rằng
ngài Chử Đồng Tử là một chân nhân - đẳng cấp cao nhất của sự tu tập theo Đạo
giáo - chứ không phải là một Phật tử theo đạo Phật; đồng thời cũng chứng tỏ rằng
ngài là người đã sáng lập ra Đạo giáo thuộc về nền văn minh Lạc Việt. Điều này
đã giải thích vì sao ngài là một trong bốn vị thần bất tử hộ quốc của người Lạc
Việt.
Từ những tiền đề phân tích ở trên về tính hợp lý và sự chặt chẽ trong cấu trúc
của hệ thống truyền thuyết và huyền thoại thời Hùng Vương - ngoài việc chứng
minh một trí tuệ siêu đẳng của tổ tiên người Lạc Việt - còn chứng tỏ thời điểm
hành đạo của ngài Chử Đồng Tử vào đầu thời Hùng Vương thứ 18 tức là khoảng 400
năm trước CN. Tất nhiên, vào thời điểm này Phật giáo mới vào giai đoạn kiết tập
để hoàn chỉnh kinh sách qua những lời giảng của Đức Thích Ca, chưa thể truyền đến
Việt Nam. Do đó, tôn giáo mà ngài Chử Đồng Tử sáng lập không thể là Phật giáo,
mà chính là Đạo giáo như đã trình bày ở trên.
Những lập luận trong sách này, nhằm chứng tỏ ngài Chử Đồng Tử là người sáng lập
Đạo giáo của nền văn minh Lạc Việt, không phủ nhận việc Phật giáo du nhập vào nền
văn minh này vào cuối thời Hùng Vương thứ 18, trên cơ sở thời Hùng Vương thứ 18
kéo dài gần 400 năm.
Tháng 1/1999
Nguyễn Vũ Tuấn Anh
Theo https://sites.google.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét