Tính thời sự và ý nghĩa nhân văn trong
"Hoa cúc xanh
trên đầm lầy" của Lưu Quang Vũ
Với số lượng hơn 50 vở kịch được sáng tác trong quãng thời
gian ngắn khoảng mười năm (từ 1979-1988), Lưu Quang Vũ đã cho thấy sức sáng tạo
dồi dào của một tài năng nghệ thuật lớn. Hàng chục năm qua, không ít kịch bản
của Lưu Quang Vũ vẫn được dàn dựng và nhận được tình cảm yêu mến của các thế hệ
khán giả nối tiếp. Mới đây nhất, vở Hoa cúc xanh trên đầm lầy do Nhà
hát Tuổi trẻ dàn dựng, Nguyễn Sĩ Tiến đạo diễn, đã giành được Huy chương Vàng
Liên hoan Sân khấu kịch nói chuyên nghiệp toàn quốc 2018. Khác với các vở kịch
lấy bối cảnh xã hội đương thời và giàu giá trị hiện thực, Hoa cúc xanh
trên đầm lầy có những yếu tố giả tưởng nhưng chính yếu tố giả tưởng ấy khiến
cho vở kịch mang tính thời sự, phù hợp với thời đại phát triển khoa học công
nghệ ngày nay, đồng thời vẫn thể hiện được quan niệm nhân sinh sâu sắc của nhà
văn, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ.
Yếu tố giả tưởng
Hoa cúc xanh trên đầm lầy là vở kịch độc đáo của Lưu Quang Vũ
bởi yếu tố giả tưởng chi phối cốt truyện. Tác phẩm được xây dựng trên nền hiện
thực nhưng có những nhân tố của truyện khoa học viễn tưởng như: phát minh ra loại
robot mới chưa từng có; câu chuyện tình yêu, cuộc sống và hành trình trốn chạy
của các robot đó khỏi thế giới loài người. Chuyện bắt đầu từ cảnh kỹ sư Lê
Hoàng gặp Thùy Liên - người bạn gái thuở nhỏ để bày tỏ tình yêu nhưng Liên từ
chối vì cô và Nguyễn Vân yêu nhau, họ đang chuẩn bị tổ chức đám cưới. Hoàng,
Liên, Vân vốn là những người bạn thân thiết từ thuở nhỏ. Hoàng đề nghị Vân rút
lui vì anh cho rằng mình yêu Liên và xứng đáng với Liên hơn nhưng Vân khẳng định
tình yêu của anh và Vân không gì thay đổi được. Quá thất vọng, Hoàng chế tạo ra
hai robot Liên B và Vân B giống y hệt Liên và Vân nhưng chỉ mang những phần tốt
đẹp nhất, để điều khiển họ theo ý mình: Vân B sẽ say mê vẽ và nhường Liên B cho
Hoàng, còn Liên B sẽ yêu Hoàng là người xứng đáng hơn. Nhưng các robot do Hoàng
tạo ra là những phiên bản trong sáng, tốt đẹp đã không chấp nhận con người thực
đầy khiếm khuyết của Hoàng, và không chịu sống trong cảnh bị Hoàng giam nhốt
trong bóng tối tầng hầm, họ cùng bỏ trốn để tìm về miền quê xưa, nơi có hoa cúc
xanh nở trên đầm lầy.
Vở kịch có sự chồng xếp nhiều tầng văn bản với kết cấu truyện
lồng truyện: Sau Cảnh I diễn ra cuộc gặp gỡ của ba người Liên, Vân, Hoàng, đến
cảnh II, Hoàng buồn bã thiếp ngủ ở cơ quan, và diễn biến chính của vở kịch vở kịch
kéo dài đến cảnh XII, Hoàng tỉnh giấc. Nhân vật trong giấc mơ của Hoàng gồm 2 tầng:
nhân vật đời thường và nhân vật robot (phiên bản). Khi giấc mơ kết thúc, nhân vật
Liên, Vân thật xuất hiện. Như vậy có 3 cặp Liên - Vân: Liên - Vân 1 (con người
- bạn của Lê Hoàng), Liên - Vân 2 (con người - xuất hiện trong giấc mơ của Lê
Hoàng) và Liên - Vân B (robot - trong giấc mơ của Lê Hoàng). Điểm chung của cả
3 cặp Liên - Vân là đều có cùng tuổi thơ êm đềm, ký ức về làng quê, ngôi trường,
và hoa cúc xanh trong đầm lầy. Họ đều yêu nhau và tìm đến với nhau mặc cho những
nỗ lực ngăn cản của Hoàng. Nhưng họ khác nhau ở chỗ: Liên - Vân 1 đang chuẩn bị
tổ chức đám cưới. Liên - Vân 2 sau khi kết hôn, sống với nhau trong một đời sống
hiện thực phũ phàng, nợ tiền, cãi cọ, Liên - Vân B chạy trốn khỏi vòng kiềm tỏa
của Lê Hoàng, tìm về quê cũ và bị lún ngập trong đầm lầy. Liên - Vân 2 là tưởng
tượng của Hoàng, một giả thiết nhưng cũng là một cảnh báo hữu lý cho bất cứ cặp
đôi nào, hôn nhân là một thực tế khác xa với mong đợi của con người. Liên - Vân
B là khát vọng, ước mơ của Lê Hoàng, khát vọng có những sáng chế, phát minh vĩ
đại, khát vọng tình yêu được đáp lại, và khát vọng về thế giới của những tâm hồn
đẹp đẽ, thánh thiện. Dường như ba cặp Liên - Vân cũng tương ứng với cái nhìn của
Hoàng về hiện tại, quá khứ và tương lai. Số lượng nhân vật không nhiều nhưng kết
cấu đa tầng và sự đa dạng ở các nhân vật có cùng vẻ bề ngoài mà khác xa về tính
cách tạo cho vở kịch sự hấp dẫn và triết lý nhân sinh sâu sắc.
Với kịch bản vừa xen lẫn bi và hài, Lưu Quang Vũ tưởng tượng
ra một phát minh khoa học độc đáo: chế tạo loại robot giống y như người thật,
có ký ức, suy nghĩ, cảm xúc và tình yêu như con người thật, là phiên bản của
hai con người cụ thể - bạn thời thơ ấu của kỹ sư Hoàng. Câu chuyện giả tưởng được
đẩy xa thêm khi hai robot phiên bản trốn thoát ra khỏi phòng thí nghiệm và gặp
những tình huống bi hài: họ hoàn toàn không hiểu một chút nào về cuộc sống thực
tế như phải trả tiền xe, vé tàu, họ buồn trước cảnh con người chen lấn, xô đẩy,
bon chen ở những không gian công cộng, họ thất vọng khi gặp và trò chuyện với
“bản gốc” Thùy Liên và Nguyễn Vân thực trong cuộc sống bộn bề lo toan, tính
toán của đời thường,... Khả năng tưởng tượng và vốn văn hóa phong phú đã giúp
nhà viết kịch tạo nên hai robot Liên B và Vân B được thổi hồn người, được “cài
đặt” khả năng cảm thụ văn chương, sáng tạo nghệ thuật, và tâm hồn mơ mộng, lãng
mạn. Cũng vì thế, hành trình lưu lạc giữa cuộc đời thực và trở về tìm hoa cúc
xanh của các robot trở nên hấp dẫn, đầy kịch tính khi họ bị tay lái xe “cải thiện
ngoài giờ” làm ầm lên bắt vạ bởi họ không có tiền trả cuốc xe “đi nhờ”, cuộc gặp
gỡ giữa Liên B và Vân, Vân B và Liên khiến cho cặp vợ chồng “phiên bản gốc” hiểu
lầm, nghi ngờ nhau, và nhận ra chính họ đã sống tầm thường, nhạt nhẽo, không
còn như xưa nữa. Các robot còn bị đám đông ở nhà ga la ó vì lên tàu không có vé
nhưng lại dám triết lý với người soát vé và hành khách về sự lầm lạc của họ, về
tâm hồn thơ trẻ, tình yêu thương của con người. Sự hài hước thâm thúy của Lưu
Quang Vũ ở chỗ robot thì có tâm hồn, lý tưởng cao đẹp, còn con người thực lại tầm
thường, tồi tệ, trái ngược với hình dung về robot như thông thường là những cái
máy vô hồn, không cảm xúc, chỉ biết hành động theo mệnh lệnh. Sự xuất hiện của
những robot hoàn toàn ngây thơ, trong sáng, tốt đẹp ấy giữa cuộc đời thực như một
cuộc phiêu lưu thú vị, cho thấy nghịch lý của đời sống và sự mâu thuẫn giữa con
người phàm tục - lý tưởng cao đẹp.
Câu chuyện về các robot hiện đại, có cảm xúc và tình yêu, chống
lại áp đặt của con người mang dáng vẻ của truyện khoa học viễn tưởng (science
fiction) - thể loại dựa trên sự phát triển yếu tố khoa học công nghệ và vũ trụ
với những ý tưởng sáng chế, đã rất thành công qua tác phẩm của những tên tuổi
như Jules Verne, Robert A. Heinlein, H.G.Wells, Alexander Romanovich Belyaev,…
Các tác phẩm văn học giả tưởng không chỉ là câu chuyện của khoa học công nghệ
nhằm đưa ra những dự đoán, giả thuyết về tương lai mà còn là cách lý giải đời sống
thực tại và con người. Ý tưởng trong Hoa cúc xanh trên đầm lầy tương
đồng vớivở kịch R.U.R.(Các Robot toàn năng của Rossum) của Karel
Čapek ([1]) qua sự
kiện chế tạo robot và sự nổi dậy của các robot. Mặc dù được biết đến là một
trong những nhà văn hàng đầu về truyện khoa học viễn tưởng nhưng Čapek quan niệm:
“Đây không phải là viễn tưởng, mà là hiện thực. Đây không phải là suy đoán về
những gì trong tương lai, mà là tấm gương phản chiếu cái đang tồn tại và chúng
ta đang sống chung với nó” ([2]). Cũng đồng
quan điểm với Čapek, trong Hoa cúc xanh trên đầm lầy, dưới lớp vỏ giả tưởng,
Lưu Quang Vũ xây dựng một cốt truyện đầy tính ẩn dụ về hiện thực. Hành trình chạy
trốn khỏi tầng hầm bị giam nhốt đi tìm hoa cúc xanh là mơ ước trở về tuổi thơ,
là khát vọng tự do sáng tạo và tình yêu trong sáng của mỗi người. Trong lịch sử
văn học viễn tưởng, đã có không ít dự đoán của các nhà văn đã trở thành hiện thực
và gợi ý tưởng sáng chế cho các nhà khoa học sau này. Với sự tiến bộ khoa học kỹ
thuật hiện nay, thế giới đã tạo ra được rất nhiều robot hiện đại với các tính
năng thông minh, giúp giải phóng sức lao động con người. Gần đây nhất sự kiện
robot Sophia là robot đầu tiên được công nhận quyền công dân trên thế giới đã
thu hút sự chú ý của toàn thế giới ([3]). Vở kịch của
Lưu Quang Vũ với ý tưởng về robot cảm xúc có tính dự báo và cho đến nay vẫn hấp
dẫn những công chúng hiện đại, năng động, yêu thích khoa học, khám phá.
Bên cạnh đó, dù yếu tố giả tưởng chi phối cốt truyện nhưng
Lưu Quang Vũ luôn lồng ghép các vấn đề của xã hội hiện đại như sự tha hóa, sự mất
lòng tin của con người và lối sống thực dụng làm tha hóa con người. Tại phòng đợi
của nhà ga xe lửa nhân vật “Bà sợ sệt” luôn nâng cao cảnh giác, ôm chặt cái túi
đựng toàn mì nhìn “Ông gầy” đầy nghi ngờ, “Ông gầy” trốn vợ đi nghỉ mát cùng
“Chị béo” nhưng thấy chị ăn nhiều “như cái máy” thì đã báo nhà chức trách bắt
chị vì nghi chị là người máy. Còn Liên và Vân, sau tuần trăng mật ở quê trở lại
thành phố với nỗi thất vọng vì mọi thứ quá thay đổi khác xa với ký ức của họ về
thung lũng kỳ diệu nở đầy hoa cúc xanh, đã trách móc nhau vì bỏ phí quãng thời
gian về quê. Cuộc sống đời thường của cặp vợ chồng trẻ đầy ước mơ, lý tưởng
cũng không tránh khỏi những tính toán tủn mủn: Vân sau khi có triển lãm tranh
nhỏ cũng tự bằng lòng với bản thân vì nhận được những lời tán tụng, còn Liên
thì giục nhắc Vân vẽ để kiếm tiền trả nợ đám cưới, nới rộng căn nhà. Cùng với
câu chuyện chế tạo robot, Lưu Quang Vũ khai thác triệt để những vấn đề đạo đức,
văn hóa đương thời, từ sự ganh đua, giả tạo, thói háo danh, xu nịnh của những
người làm nghiên cứu khoa học, hoạt động nghệ thuật và cán bộ nhà nước đến lối
sống ích kỷ, thực dụng, vô cảm trong cả xã hội. Đối với số đông những người ở
ga tàu, sự trong sáng, lý tưởng của Vân B và Liên B bị coi là điên, không bình
thường, “ngộ chữ” nên toàn nói những lời “sách vở”, dở hơi. Đó cũng là nỗi lo
âu cho xã hội hiện đại khi con người đang dần bỏ quên những điều tốt đẹp trong
chính bản thân mình.
Dẫu lên tiếng cảnh báo cho những gì tốt đẹp đang dần bị mai một,
nhưng Lưu Quang Vũ vẫn đầy nhân văn khi bày tỏ sự cảm thông cho con người bằng
xương bằng thịt với tất cả những điều chưa hoàn thiện, với cái hắt hơi, sôi bụng,
cái nông nổi, tầm thường, tốt xấu đan xen. Đó mới chính là con người thực, sống
trong cuộc đời thực. Bởi cái cuộc đời toàn những người tốt đẹp, “vô trùng”, là
không thể có được, một xã hội không có thật như vậy “nếu có cũng chẳng thú vị
gì”, như lời của nhân vật trong tác phẩm đã nhận định. Rốt cuộc, sau khi Liên B
bỏ đi, Hoàng nhận ra một sự thật là anh vẫn yêu Liên - con người bình thường,
hay tính toán và yếu đuối. Vân và Liên cũng không cần đến Liên, Vân nào khác dù
họ đã có lúc vô cùng khắc khoải: tại sao lại cần có một Liên và Vân khác? Sự xuất
hiện của hai robot Liên B và Vân B đã khiến các nhân vật ý thức về chính
bản thân họ, về cái phần tốt đẹp mà mỗi người phải đạt tới, phải giữ lấy. Vở kịch
mang màu sắc lãng mạn khi hướng tới vẻ đẹp lý tưởng, sự trong sáng của tâm hồn
đồng thời thể hiện quan niệm nhân sinh sâu sắc của tác giả khi đi đến nhận thức
rõ hơn về sự “bất toàn” của con người và của thực tại.
Quay trở lại với cấu trúc vở kịch, thực ra đây không hoàn
toàn là kịch giả tưởng mà chỉ có yếu tố giả tưởng. Kết thúc truyện, hai nhân vật
robot bị nhấn chìm ở đầm lầy, nhưng toàn bộ diễn biến câu chuyện lại hóa
ra là giấc mơ của nhân vật Hoàng. Nếu kết thúc ở cái chết của hai nhân vật
robot, vở kịch sẽ là một vở bi kịch thực sự. Đồng thời cũng là một vở kịch giả
tưởng theo đúng nghĩa. Nhưng Lưu Quang Vũ, trong giới hạn của bản thân và thời
đại, đã chuyển toàn bộ thành giấc mơ của Lê Hoàng và dẫn đến một cái kết có phần
khuôn sáo: Hoàng tỉnh giấc, Liên và Vân đến mời dự đám cưới, họ vẫn là những
người bạn thân thiết của nhau, và trong đám cưới của Liên - Vân, Hoàng nói với
hai bạn, cũng là nói với khán giả như đưa ra phát ngôn của tác giả: Tự các bạn
sẽ làm ra hạnh phúc, không phải tạo ra một ai khác cả, không phải tìm về đâu cả.
Chỉ có chúng ta, chỉ có cuộc đời thực này thôi (…) Trong mỗi các bạn đều có một
con người kỳ diệu, đừng để chúng đi, hãy để chính ta được sống ở trong ta…” ([4]). Kết thúc vở
kịch không đi đến chủ nghĩa bi quan cực đoan (sự ra đi, cái chết của cái tốt đẹp,
và sự mất mát tuổi thơ) mà chuyển sang hướng lãng mạn, lạc quan. Mặc dù đây là
cái kết thúc tươi sáng và gửi thông điệp của vở kịch đến công chúng một cách
sáng rõ, nhưng tôi cho rằng cái kết đó có phần diễn giải ý tưởng tác giả khá lộ
và thu hẹp ý nghĩa câu chuyện cũng như hạn chế sức tưởng tượng của thể loại kịch
giả tưởng ([5]). Tuy nhiên,
nó cũng hướng đến sự phù hợp với công chúng Việt Nam trong bối cảnh lịch sử cụ
thể những năm đầu Đổi mới, khi công chúng tiếp nhận mới trải qua một giai đoạn
dài quen với mô hình phản ánh hiện thực.
Motif tạo ra con người
Tạo ra loại robot có tâm hồn cao đẹp, để trở thành người yêu
của mình là một ý tưởng độc đáo của Lưu Quang Vũ. Motif tạo ra robot nói riêng
và tạo ra con người nói chung vốn xuất hiện khá sớm trong đời sống văn hóa tinh
thần nhân loại. Có thể thấy mạch ngầm của dòng chảy này xuyên qua nhiều tác phẩm
văn chương thế giới: trong thần thoại Hy Lạp, nhân vật Pygmalion tạc nên bức tượng
người phụ nữ tuyệt đẹp và yêu say đắm bức tượng đến mức cầu xin nữ thần
Aphrodite ban phép cho tượng trở thành người. Không chỉ trong thần thoại Hy Lạp,
các tác phẩm sử dụng motif tạo ra con người thường gắn với sự hiện diện của
tình yêu, chẳng hạn như vở kịch R.U.R của Čapek có motif tạo ra robot
- con người, với các người máy được chế tạo giống hệt con người để phục vụ con
người, thay thế sức lao động của con người. Các robot ban đầu được chế tạo
“không có ý chí, không có hy vọng, không có tâm hồn” nhưng những phiên bản đời
sau càng được tiến hóa khiến cho robot nhận thức được sự bất công đã nổi dậy
tiêu diệt loài người. Người thợ xây dựng Aquist duy nhất còn sống sót dù cố gắng
hết sức cũng không thể tìm được công thức chế tạo robot đã bị đốt mất, nhưng cuối
cùng lóe lên một tia hy vọng cho thế giới khi hai người máy thuộc thế hệ mới nhất
biết yêu nhau, sẵn sàng hy sinh cho nhau. Tình yêu đó đã cứu rỗi thế giới mang
lại hy vọng sự sống của thế giới được tiếp diễn. Hoa cúc xanh trên đầm lầy của
Lưu Quang Vũ, xuất phát từ chỗ tình yêu không được hồi đáp nên mới có chuyện chế
tạo người yêu robot. Kỹ sư Hoàng không chỉ tạo ra robot người yêu (Liên B) mà đồng
thời còn tạo ra robot người bạn (Vân B) - phiên bản của người bạn thuở ấu thơ
và đồng thời cũng là tình địch của mình. Hoàng hoàn toàn có thể chỉ tạo ra một
mình robot Liên, nhưng tham vọng của anh ta lớn hơn, muốn chứng tỏ đây là “phát
minh táo bạo nhất, tạo ra những con người khác, mới thực sự, những con người
cao quý, đầy yêu thương, cao thượng nhân từ” và “khác xa những con người quen
thuộc nhàm chán, tầm thường, lũ nô lệ của hoàn cảnh nhỏ nhen”. Bởi vậy câu chuyện
đã trở nên phức tạp hơn sự sáng tạo bức tượng người nữ của Pygmalion trong thần
thoại Hy Lạp và có diễn biến khác với chế tạo robot nổi loạn trong R.U.R. Mối tình tay ba của ba con người thực vốn là những người bạn thời thơ ấu lại một
lần nữa diễn ra đối với kỹ sư Hoàng và các robot do anh chế tạo. Ta biết rằng,
dựa theo các motif truyền thống, nhà viết kịch có thể sáng tạo những câu chuyện
mang thông điệp khác nhau, chẳng hạn cũng với motif “tạo nên con người khác”,
Bernard Shaw tái sử dụng hình mẫu Pygmalion trong vở kịch cùng tên của mình gửi
đến thông điệp về giá trị con người và quyền lực xã hội. Trong Hoa cúc
xanh trên đầm lầy, Lưu Quang Vũ kể một câu chuyện mới với những tình huống kịch
và xung đột kịch giàu sáng tạo và có tính “đối thoại” với các văn bản trước. Kịch
tích được tạo nên từ những xung đột, những đối lập và mâu thuẫn: con người -
robot, quá khứ - hiện tại, thực tế - ước mơ. Lê Hoàng và Nguyễn Vân cùng yêu
Liên nhưng Liên yêu Vân và kết hôn cùng Vân; Hoàng tạo ra robot Vân B chỉ yêu
nghệ thuật, màu vẽ và ánh sáng nhưng bị Hoàng giam trong gian hầm tối tăm nên
đã cùng Liên B thoát ra ngoài để được tự do; Liên B được Hoàng tạo ra thánh thiện,
trong sáng nên cô không chấp nhận được con người thực của Hoàng - một nhà khoa
học sớm thỏa mãn với những gì mình có, mang đầy thói hư tật xấu của con người;
Liên và Vân đi qua những năm tháng mơ mộng, khát khao nhưng sau kết hôn là những
thất vọng và trách móc chuyện tiền nong, công việc. Mâu thuẫn cũng xảy ra trong
chính bản thân Hoàng: tạo ra những con người tốt đẹp, để yêu thương, nhưng rốt
cuộc chính anh ta lại vẫn chỉ yêu cô Liên thật bình thường, hay tính toán, cũng
yếu đuối như anh ta. Kịch của Lưu Quang Vũ đã đề cập đến những xung đột tất yếu,
không thể giải quyết, đó là mâu thuẫn giữa hiện thực và lý tưởng, giữa quá khứ
và hiện tại. Robot Vân B và Liên B khi gặp mẫu gốc Nguyễn Vân và Thùy
Liên sống tầm thường, yếu ớt, buồn bã thì cho rằng “chúng ta mới là người thực.
Họ chỉ là những cái bóng mờ nhạt” nhưng rốt cuộc những băn khoăn về lẽ sống, về
bản gốc của con người vẫn là những câu hỏi không lời đáp: Đâu mới là phần có thực
của con người: cái phần cao quý đẹp đẽ hay cái sự thực tầm thường?. Hai người
máy là phần đẹp đẽ nhất của con người Vân và Liên, là cái phần tốt đẹp của con
người được kết tinh, nâng lên: Liên B trong sáng, mơ mộng và nhạy cảm… Vân B là
họa sĩ tài năng với những bức vẽ tuyệt tác nhưng phải chăng “Họ là sản phẩm của
mơ ước chứ không phải của thực tại”. Kết thúc tác phẩm, cảnh hai người máy
phiên bản chới với trong đầm lầy, cất tiếng gọi vang để tìm hoa cúc xanh gây
tác động mạnh mẽ đến cảm xúc của người tiếp nhận, như tiếng vọng về xa xăm của
quá khứ tươi đẹp, như lời kêu cứu của cái đẹp, cái thiện trong cuộc sống thực đầy
nghiệt ngã. Lưu Quang Vũ đã tạo nên những xung đột kịch đặc sắc bằng sự nhạy
bén và khả năng bao quát những mâu thuẫn của đời sống. Đó cũng là lý do vì sao
nhiều vở kịch của ông chạm đến ngưỡng bi kịch như Nguồn sáng trong đời, Hồn
Trương Ba, da hàng thịt,...
Trong vở kịch này, tạo ra con người không chỉ là sáng chế,
phát minh khoa học mà còn là sáng tạo nghệ thuật khi các robot được kết tinh từ
những gì tốt đẹp nhất của con người, hoàn toàn chỉ có tình yêu và tâm hồn trong
sáng và thánh thiện, biết yêu cái đẹp và nghệ thuật. Câu chuyện tạo ra robot của
Lưu Quang Vũ cũng chính là những trăn trở của ông về sáng tạo nghệ thuật. Con
người được tạo nên với vẻ đẹp nguyên sơ ấy mang ước mơ cháy bỏng vươn tới con
người tuyệt mỹ. Vân B được tạo ra để thành một họa sĩ chỉ đam mê vẽ, nhưng chưa
đủ, sáng tạo nghệ thuật cần có tự do, ánh sáng và tình yêu. Cũng như họa sĩ
Nguyễn Vân, khao khát sáng tạo nhưng lại sớm bằng lòng với những lời ca ngợi, tự
đánh mất chính mình với cuộc sống tầm thường, tù túng. Thông qua những chi tiết
và hình tượng nghệ thuật, Lưu Quang Vũ đã cho thấy người nghệ sĩ cần ý thức rất
rõ về sáng tạo, hướng đến những tác phẩm nghệ thuật đích thực chứ không phải chỉ
nhằm mục đích mưu sinh.
Toàn bộ câu chuyện sáng tạo robot là giấc mơ, là mong muốn của
Hoàng khi yêu Liên mà không đạt được. Trong giấc mơ, những ẩn ức của
Hoàng đã được giải tỏa. Hoàng là một kỹ sư tài năng, say mê khoa học, giấc mơ
đã thỏa mãn Hoàng ở cả hai phương diện: chế tạo robot và được một cô Liên trong
sáng, tốt đẹp yêu Hoàng bởi anh là người yêu Liên nhất và xứng đáng với Liên
hơn. Bản thân Hoàng là người đầy mâu thuẫn: anh nhận thấy Liên đã khác Liên của
thời thơ ấu và nói toàn chuyện tầm thường, thực dụng nhưng Hoàng lại không thể
quên Liên. Giấc mơ chế tạo robot chính là kết quả của sự dồn nén cảm xúc đó và
khiến cho Hoàng nhận rõ hơn những khiếm khuyết của bản thân và những người xung
quanh. Cuộc đối thoại giữa Vân và Liên B, giữa Liên và Vân B cũng có thể được
ngầm hiểu chính là sự phân thân của mỗi con người, phần người thực đời thường
và phần tốt đẹp nhất trong mỗi người. Vân B và Liên B cũng là những con người
lý tưởng mà loài người hướng tới, g là phần tốt đẹp bị lãng quên trong đời sống
sẽ luôn nhắc gọi, đối thoại với phần trần tục của mỗi chúng ta. Chính cái phần
tốt đẹp ấy đã đánh thức Liên, Vân và cả Hoàng nữa. Từ motif tạo ra con người của
Lưu Quang Vũ cũng có thể thấy mỗi người đều cần vươn tới phần cao quý đẹp đẽ,
nhưng cũng vẫn có cả một con người thực trần tục đời thường, đó mới là con người
theo đúng nghĩa.
Tái sử dụng motif tạo ra con người nhưng kịch bản của Lưu
Quang Vũ không hề mất đi tính thời sự bởi sự gắn kết với thời đại. Cũng giống
như vở kịch R.U.R cách đây gần một thế kỷ đã nhận thấy con người với
trí tuệ tuyệt vời đã tạo nên những bước tiến vượt bậc trong sự phát triển khoa
học kỹ thuật và những phát minh vĩ đại để phục vụ chính mình. Nhưng sự vị kỷ,
tham lam và tha hóa của con người cũng sẽ khiến cho nó bị hủy diệt bởi chính những
phát minh ấy. Chỉ có tình yêu, lòng cao thượng, và cái đẹp mới cứu rỗi thế giới.
Đó cũng là triết lý mà Lưu Quang Vũ gửi gắm trong vở kịch Hoa cúc xanh
trên đầm lầy.
Biểu tượng hoa cúc xanh
Từ tên của vở kịch đến hình ảnh hoa cúc xanh trong đầm lầy
xuyên suốt tác phẩm đã tạo nên một biểu tượng nổi bật: hoa cúc xanh. Trong cảnh
đầu, khi Hoàng đợi gặp Liên để ngỏ lời, anh đã nhắc nhớ cô về tuổi thơ êm đềm
có hoa cúc xanh của họ, hồi đó anh từng hẹn sau này lớn lên sẽ cưới cô làm vợ.
Hoa cúc xanh gắn với quê hương, với tình bạn trong sáng, và những giấc mơ tuổi
thơ. Nhân vật Liên B được Hoàng “tạo ra bằng cái phần đẹp đẽ nhất của con người:
tuổi thơ, và tình yêu, quá khứ và ước mơ”, chính vì vậy khi Hoàng hỏi Liên B:
“em nhớ tuổi thơ của em chứ” thì cô trả lời: “Sao lại nhớ? Em luôn sống trong
tuổi thơ của em đây… Những bông cúc xanh, em, anh…”. Hoa cúc xanh là hiện tại của
Liên B và có sự đồng nhất Liên B - tuổi thơ hoa cúc xanh.
Hoa cúc vốn là hình ảnh xuất hiện khá nhiều trong thơ của
Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ, cả hai nhà thơ dường như có sự đồng cảm lớn với
loài hoa nhỏ bé giản dị này. Thơ Lưu Quang Vũ đầy những cung bậc cảm xúc với
hoa cúc: “Biết ơn em, em từ miền gió cát/Về với anh bông cúc nhỏ hoa vàng” (Và
anh tồn tại); “Những cánh đồng hoa cúc mọc rưng rưng/ Chùm nắng lạ tươi vàng
trên cỏ dại” (Những đêm hoa vàng); “Mai em đi mùa hạ cũng qua rồi/ Tôi ở lại một
mình trên phố vắng/ Hoa cúc rối chiều xuân nào tôi đến/ Chẳng gặp em – chỉ màu
hoa vàng rực/ Đêm nay về đốt lửa giữ hồn tôi” (Lá thu). Với Xuân Quỳnh cũng vậy,
hoa cúc vàng nở cùng mùa thu, nở cùng tình yêu nồng nàn, lặng lẽ mà cháy bỏng:
“Mùa thu vào hoa cúc/ Chỉ còn anh và em/ Cùng mùa thu ở lại” (Thơ tình cuối mùa
thu); “Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế/ Chỉ em là đã khác với em thôi (…)
Nhưng màu hoa đâu dễ quên nguôi/ Thành phố ngợp ngày nao chiều gió dậy/ Gương mặt
ấy lời yêu thuở ấy/ Màu hoa vàng vẫn cháy ở trong em” (Hoa cúc). Có một sự đồng
cảm giữa Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ trong hình ảnh hoa cúc vàng buồn da diết và
ám ảnh khôn nguôi về một thời đã qua, khiến con người ý thức sâu hơn về sự chảy
trôi của thời gian. Hoa cúc xanh đã từng xuất hiện trong thơ của Lưu Quang Vũ với
nỗi xót xa của tình yêu mất mát: hoa cúc xanh tuổi nhỏ chết từ lâu/ những hòm
xiểng chất đầy khu phố chật/ những bãi rác những thùng xe cũ hỏng/ những bạn bè
thơ trẻ đã già nua… (Em - tình yêu những năm đau xót và hy vọng). Cũng như Xuân
Quỳnh, Lưu Quang Vũ có nhiều cảm xúc với những loài hoa, thậm chí, hoa thường
mang ý nghĩa của sự bất diệt không thể lụi tàn: “Những bạn bè đã chết/ Cũng sẽ
trở về như những bông hoa/ Cắt xuân trước, tháng giêng sau lại mọc/ Những bông
hoa không chết bao giờ” (Những bông hoa không chết); “Nhưng nếu bông hoa của
tôi đã chết/ Tôi làm sao sống được/ Trước đầm lầy mù mịt khói bay/ Cuốn sách tuổi
thơ những hình vẽ rợn người…” (Hoa cẩm chướng trong mưa). Nhưng hoa cúc xanh,
khác với cúc vàng và khác với các loài hoa khác, là biểu tượng của tuổi thơ
trong trắng và khát vọng, mộng ước buổi nguyên sơ. Hoa cúc xanh làm cho tuổi
thơ của họ trở nên lung linh kỳ diệu bởi sắc xanh hiếm thấy của loài hoa và bởi
không phải ai cũng dễ dàng nhìn thấy hoa cúc, chỉ lũ trẻ mới có thể đi qua cỏ
gianh trên đầm lầy mà không sợ bị lún chìm. Hoa cúc xanh cũng mang biểu tượng của
sức sống mạnh mẽ khi vươn lên giữa đầm lầy, là những gì tinh túy đẹp đẽ mà con
người phải lội qua bùn lầy mới có thể hái được ([6]). Hoa cúc xanh
trong ký ức của các nhân vật đẹp diệu kỳ nhưng như một ảo ảnh, vừa như thực mà
vừa như mơ. Nhân vật Liên khi được Hoàng nhắc về loài hoa cúc xanh đã phải thú
thật: “Không nhớ rõ nhưng anh nhắc lại thì nhớ hết. Ừ, chẳng ở đâu mình thấy thứ
cúc xanh như thế”. Liên và Vân dành thời gian của tuần trăng mật trở về quê tìm
hoa cúc xanh, nhưng họ không vào đầm lầy được vì mưa ngập nước, họ tiếc nuối;
“Hoa cúc xanh, bây giờ đâu rồi”. Hai robot Liên B và Vân B khi nhận ra họ bị Lê
Hoàng giam giữ đã cùng nhau bỏ trốn để trở về miền quê xưa, và bị lún trong đầm
lầy khi tìm kiếm những bông hoa cúc xanh. Hoa cúc xanh, dù tồn tại trong ký ức
của cả ba người nhưng luôn thấp thoáng ẩn hiện như một giấc mơ, như không có thật
khiến bản thân họ cũng tự hỏi nó có thực hay không. Đây cũng là tứ thơ trong
bài Hoa cúc xanh mà Xuân Quỳnh ấp ủ từ năm 1964 nhưng mãi đến khi vở
kịch Hoa cúc xanh trên đầm lầy được Đoàn kịch Hải Phòng dàn dựng và
biểu diễn năm 1987 mới hoàn thành để gửi tặng Lưu Quang Vũ ([7]). Trong Thư gửi
Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh viết: “Em đã sửa bài thơ Hoa cúc xanh, em chép lại
tặng anh ngày sinh nhật. Anh xem có cần sửa thì sửa cho em…” ([8]). Hoa cúc
xanh của Xuân Quỳnh là niềm tiếc nuối tuổi thơ và câu hỏi về sự tồn tại của
loài hoa ấy được lặp đi lặp lại nhiều lần trong bài thơ: “Hoa cúc xanh có hay
là không có/ Trong đầm lầy tuổi nhỏ của anh xưa/ Một dòng sông lặng chảy từ xa/
Thung lũng vắng sương bay đầy cửa sổ/ (…) Hoa cúc xanh có hay là không có/
Tháng năm nào ấp ủ thuở thơ ngây/ Có hay không thung lũng của ngày xưa/ Anh đã ở
và em thường tới đó/ (…) Anh đã nghĩ chắc là hoa đã có/ Mọc xanh đầy thung
lũng của ta xưa”. Trong vở kịch, hoa cúc xanh từ ký ức tuổi thơ đã đi theo cuộc
đời nhân vật ở những khoảnh khắc quan trọng của cuộc đời. Không chỉ là biểu tượng
của tuổi thơ, hoa cúc xanh còn mang ý nghĩa biểu trưng cho cái đẹp, tình yêu và
nghệ thuật. Cái đẹp ấy không có sẵn trong cuộc đời, không dễ kiếm mà ở trong tự
nhiên, trong ký ức tuổi thơ, và để có được, phải băng qua đầm lầy tìm kiếm bằng
tình cảm vô tư, trong sáng chứ không phải bằng sự mưu toan, tính toán, cưỡng đoạt.
Bởi vậy, hoa cúc xanh là cái đẹp vừa thực mà vừa ảo, nhưng đã tồn tại và sẽ mãi
tồn tại với những ai biết trân trọng, tìm kiếm. Biểu tượng hoa cúc xanh – tuổi
thơ, hoa cúc xanh – giấc mơ trong cả kịch Lưu Quang Vũ và thơ Xuân Quỳnh đều có
sự gặp gỡ với hoa cúc xanh trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Karel Čapek ([9]). Biểu tượng
hoa cúc xanh tạo nên chất thơ của vở kịch và bài thơ của Xuân Quỳnh như một sự
hồi đáp, lời đồng vọng về loài hoa mà để tìm nó phải vượt qua đầm lầy bùn nhão
kiếm tìm và chỉ trẻ nhỏ - những đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ không bị vật chất
trì níu mới tìm được. Hoa cúc xanh là tuổi thơ đẹp đẽ đã qua, không trở lại. Từ
biểu tượng hoa cúc xanh, Lưu Quang Vũ cũng nhìn thấy mối quan hệ nghệ sĩ và
sáng tạo: sáng tạo cần có tự do như hít thở khí trời. Robot Vân B có màu, bút,
giấy vẽ nhưng chỉ khi được tự do, có ánh sáng, và có gương mặt thánh thiện của
Liên mới thắp lên những ước vọng vẽ được những tác phẩm nghệ thuật. Còn con người
lý tưởng, như lời Liên B nói với Hoàng, “phải cao thượng, phong phú hoàn hảo
như các nhà thơ đã viết”. “Phải đẹp từ quần áo đến tâm hồn, Sekhov đã nói như vậy”.
Chính vì vậy, Hoa cúc xanh trên đầm lầy là một trong những vở kịch đậm
chất thơ và giàu sức gợi nhất của Lưu Quang Vũ. Không chỉ có tính “liên văn bản”
với thơ Xuân Quỳnh, với tác phẩm của Karel Čapek, vở kịch còn cho thấy những kết
nối với những sáng tác của chính Lưu Quang Vũ ở các thể loại khác nhau. Truyện
ngắn và thơ Lưu Quang Vũ đều có những trăn trở về sự tồn tại, tình yêu, hạnh
phúc, và sáng tạo nghệ thuật. Dù ở thể loại nào (thơ, kịch, hay truyện ngắn)
Lưu Quang Vũ cũng không ngừng phản tư như một sự tự ý thức của người nghệ sĩ có
tầm vóc tư tưởng lớn.
Thay lời kết
Những kịch bản của Lưu Quang Vũ đã tạo nên hiệu ứng mạnh mẽ
trong lòng công chúng ở những năm 80 của thế kỷ trước nhưng cho đến nay vẫn còn
nguyên giá trị nghệ thuật và tính thời sự. Cùng với những vở kịch nhìn trực diện
vào đời sống xã hội đương thời, Hoa cúc xanh trên đầm lầy là sự kết hợp
giữa yếu tố giả tưởng và lãng mạn, thể hiện cảm quan nhạy bén, tinh tế và chiều
sâu văn hóa của chủ thể sáng tạo Lưu Quang Vũ. Chính vì vậy, những vấn đề đặt
ra từ vở kịch không chỉ là những đối thoại với xã hội đương thời mà còn đối thoại
với những tư tưởng trước và sau đó, trong cả văn chương nghệ thuật Việt Nam và
thế giới. Sự tái tạo và sáng tạo yếu tố giả tưởng, motif tạo ra con người cũng
như biểu tượng hoa cúc xanh với những thông điệp giàu ý nghĩa nhân văn cho thấy
tài năng và tư duy nghệ thuật vượt tầm thời đại của Lưu Quang Vũ khiến cho tác
phẩm còn lại mãi với thời gian.
Chú thích:
[1] Đây cũng là tác giả đầu tiên sử dụng thuật ngữ robot trong tác phẩm văn
chương.
[2] Karel Čapek: R.U.R. Các Robot toàn năng của Rossum (Phạm Công Tú dịch),
Tao Đàn và Nxb. Hội Nhà văn, H., 2017, trang bìa gấp.
[3] Robot Sophia là một trong những robot được thiết kế cử động giống con người
và có trí tuệ thông minh nhân tạo, Sophia có thể nhận ra con người và học hỏi từ
những gì cô nhìn thấy và có khả năng tương tác trực tiếp với nét mặt và ánh mắt
biểu cảm. Mới đây, ngày 13/7, Sophia đã có mặt tại Hà Nội để chia sẻ những nhận
định cá nhân liên quan đến cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với Việt Nam.
[4] Lưu Quang Vũ: Tác phẩm chọn lọc, Nxb. Sân khấu, H,, 2017, tr 479.
Các trích dẫn khác trong kịch bản Hoa cúc xanh trên đầm lầy đều lấy từ
sách này.
[5] Để phù hợp với bối cảnh hiện nay, khi dàn dựng lại vở diễn Hoa cúc
xanh trên đầm lầy, đạo diễn Nguyễn Sĩ Tiến đã cắt bỏ chi tiết “giấc mơ” này.
[6] Có lẽ đó là lý do Lưu Quang Vũ đặt tên vở kịch là Hoa cúc xanh trên đầm
lầy chứ không phải Hoa cúc xanh trong đầm lầy, như một khẳng
định về sự “ngoi lên”, “vượt lên” trên đầm lầy bùn nhão bí ẩn và đầy
hiểm họa.
[7] Theo tác giả Vũ Hà (xem Vũ Hà - Ngô Thảo: Lưu Quang Vũ một tài năng,
một đời người. Nxb. Thông tin, H., 1988, tr.40).
[8] Thư gửi Lưu Quang Vũ ngày 14/4/1987 [Di cảo], đã in trong Xuân Quỳnh
- Cuộc đời và tác phẩm, Nxb. Phụ nữ, H., 2003
[9] Tập truyện Hoa cúc xanh của Karel Čapek được dịch ở Việt Nam
năm 1962, và rất có khả năng cả Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh đều được đọc tác phẩm
này. Truyện ngắn Hoa cúc xanh kể về hành trình đi tìm hoa cúc xanh của
ông Fulinus để làm đẹp cho công viên của một vị Công tước, những bông cúc xanh
mà cô bé Klára “dở người, câm điếc”, luôn “nhảy nhót vui vẻ” thường mang về mỗi
buổi tối. Cho dù lùng sục khắp vùng vẫn không thấy nơi trồng cây hoa cúc xanh,
ông Fulinus đành bỏ cuộc, nhưng đúng lúc con tàu chuyển bánh rời ga và
ông bật khóc thì lại nhìn thấy hoa cúc xanh mọc ở góc vườn của người coi ga vốn
chỉ có thể vào được bằng cách đi dọc đường tàu đề biển cấm. Ông đã đào trộm
khóm khoa cúc xanh đó về chăm sóc mười lăm năm và vẫn mong đợi ngày nó nở hoa.
Trong truyện ngắn này, chỉ cô bé Klára hồn nhiên, không biết chữ mới tìm được
hoa cúc xanh, và kể cả khi ông già Fulinus đã sở hữu được cả cụm hoa cúc xanh
nhưng hoa vẫn chẳng nở.
11/10/2018 Đỗ Hải Ninh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét