Đà Lạt năm 1908
Tháng 3 năm 1899, bác sĩ Alexandre Yersin - người có công
phát hiện ra Đà Lạt vào năm 1893 tháp tùng Toàn quyền Paul Doumer cưỡi ngựa từ
Phan Rang lên cao nguyên Lang Biang để thị sát cao nguyên, dự định thành lập một
nơi nghỉ dưỡng (sanatorium) hiện đại nằm trên đoạn đường xe lửa từ Sài Gòn,
xuyên qua rừng núi đến Đà Lạt rồi xuống Quy Nhơn.
Ngày 1-11-1899, Paul Doumer ký nghị định thành lập tỉnh Đồng
Nai Thượng và hai trạm hành chính ở Tánh Linh (nay thuộc tỉnh Bình Thuận) và
trên cao nguyên Lang Biang.
Năm 1902, Paul Doumer về Pháp. Mặc dầu nhiều phái đoàn tiếp tục
lên cao nguyên Lang Biang khảo sát, lập dự án nhưng do đường lên cao nguyên quá
khó khăn, thiếu kinh phí, Đà Lạt chưa phát triển trong hơn 10 năm.
Năm 1908, P. Duclaux đi ngựa từ Hà Nội vào Sài Gòn. Từ Vinh đến
Sài Gòn ông đi mất 42 ngày. Trên đường đi, ông rẽ từ Phan Rang lên Đà Lạt.
Sau đây, Báo Lâm Đồng Cuối tuần trân trọng giới thiệu ghi
chép “Đà Lạt năm 1908” do nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Tranh biên dịch về hành
trình của Yersin từ Đá Bàn (nay thuộc huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận) lên Đà Lạt,
xuống Djiring (nay là Di Linh), Gia Bắc (nay thuộc huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng).
Ngôi mộ Yersin bình dị ở Suối Dầu (Cam Ranh, Khánh Hòa) - Ảnh: TĐĐá Bàn, 27 tháng 3
Thế là tôi đang ở dưới chân núi, chỉ còn leo lên núi.
Ở Đá Bàn, tôi gặp một cánh rừng thưa lớn, một kiểu rừng dưới
chân những ngọn núi ngày càng cao bao quanh thung lũng. Đêm dần buông, tôi vừa
lòng đã đến nơi, hoàng hôn rất nguy hiểm trong xứ sở đầy cọp này. Ngựa và những
người phục vụ đã đến đây trước tôi một giờ. Nhà khách là một kiểu nhà sàn ẩn
mình dưới tán cây to đại úy pháo binh Troadec dùng để dựng trại khi khảo sát đường
bộ. Từ 10 năm qua, nhiều phái đoàn tiếp tục khảo sát vùng đất này nhưng kế hoạch
bị bỏ quên trong tủ hồ sơ.
Troadec về nhà sau một ngày làm việc, chúng tôi làm quen với
nhau. Trong vùng đất hoang vu này, sự giao tiếp thật đơn giản. Sau khi tôi tắm
xong, một bữa ăn đơn sơ được dọn ra. Chúng tôi trò chuyện rất lâu về vùng đất
này và nhiều chuyện khác. Tình cờ cả hai chúng tôi cùng đọc những tác phẩm vừa
mới xuất bản, chẳng hạn quyển Con rắn đen của Paul Adam và giây phút đàm luận
văn chương trong túp lều gỗ ở một vùng hoang dã, dưới ánh sáng lờ mờ, giữa tiếng
ngựa hoảng sợ thật là huyền diệu. Chúng tôi đi ngủ, giường ngủ chỉ là một tấm ván
cưa thô sơ, đồ đạc duy nhất trong trạm, nhưng chúng tôi ngủ rất ngon, không cần
mùng.
Tuy nhiên, đêm tối thường bị tiếng cọp gầm trong khu vực những
người phục vụ và chuồng ngựa khuấy động. Lửa được đốt suốt đêm để đuổi cọp vì
vùng đất này cũng như cả Nam Trung Kỳ có rất nhiều cọp. Vừa qua, ở Cù Mông, gần
Quy Nhơn, tôi không thể nào bảo những người phục vụ ở trong vòng rào cao đi cắt
cỏ ngựa vì đêm xuống, tôi chỉ cho ngựa ăn một ít mía.
Đồng bào dân tộc thiểu số trên dãy Trường Sơn (Ảnh do Yersin chụp vào những năm đầu thế kỷ XX)Đà Lạt, 28 tháng 3
Đường đi gần 50 ki-lô-mét rất vất vả để đến được độ cao 1.500
mét. Thông thường hành trình gồm hai chặng, với những con ngựa tốt tôi chỉ thực
hiện dễ dàng trong một ngày. Chúng tôi khởi hành từ sáng sớm sau khi uống cà
phê và ăn cơm buổi sáng. Qua khỏi khu rừng thưa ở Đá Bàn, đường mòn ngoằn ngoèo
leo lên khu rừng già hiểm trở. Ngựa chúng tôi tìm thấy lại những con đường mòn
vùng Mường hay Mán chúng đã sinh ra vì ngựa chúng tôi đến từ vùng thượng du.
Đoàn người kiên nhẫn leo lên núi. Con đường mòn uốn lượn giữa
những thân cây và tảng đá. Thỉnh thoảng từ một khoảng trống nhỏ chúng tôi nhìn
thấy khu rừng phía dưới đoàn người vừa mới chậm chạp đi ra, và xa xa những dãy
núi màu xanh hòa lẫn với màu xanh của biển cả không nhìn thấy được. Từ mười năm
qua, đoàn người khuân vác đã tiếp tục đi trên con đường tiếp tế này, đi trên những
chiếc cầu nhỏ và ngang qua những doanh trại bỏ hoang. Đoàn người không ngừng
leo núi trong gần bốn giờ đến độ cao khoảng 1.000 mét, rừng cây thưa dần, thông
xanh xuất hiện, chân trời quang đãng lộ ra. Những dãy núi tầng tầng lớp lớp trải
dài đến vô tận.
Cuối cùng, đoàn người thình lình đến bờ cao nguyên. Con đường
dẫn xuống một dòng sông vài nơi rộng đến hàng trăm mét đổ xuống thành thác nước,
chảy xa dần về hướng tây và Sài Gòn, quanh co trong thung lũng không sâu trên
cao nguyên. Dưới thung lũng nhỏ là Dran, nơi nhân viên công chính dựng trại.
Schneider ngạc nhiên nhìn thấy sáu con ngựa lạ diễn qua trước nhà vội chạy theo
tôi và giữ tôi lại. Đã đến giờ ăn trưa, tôi vui lòng dừng chân. Những người đơn
độc này tiếp chúng tôi với tấm lòng hiếu khách thật chân thành, thân thiện và rộng
mở mặc dầu thực phẩm chỉ là những sản phẩm thu được từ săn bắn. Hơn cả đối với
người, đây còn là dịp may đối với ngựa được đến một nơi có những con ngựa khác,
có thóc, ngô và cỏ để ăn đầy bụng.
Sau trận chiến năm 1901 ở Trung Quốc, pháo binh Pháp trở về
nước đã để lại 150 hay 200 con la, đây là thời kỳ nhiều tham vọng chinh phục
cao nguyên Lang Biang, khảo sát, tiếp tế,… Nhưng phần lớn con la bị chết vì
chăm sóc, nuôi dưỡng kém. Đây là một trong những thất bại làm chậm trễ rất lâu
quyết định cuối cùng.
Ăn xong, tôi siết chặt tay Schneider và tiếp tục lên đường,
còn 35 cây số và phải đến trước khi trời tối. Con đò ở ngay cửa doanh trại.
Đoàn người tiếp tục leo núi, nhẹ nhàng, thoải mái hơn sáng nay và không khí mát
mẻ hơn. Còn 500 mét phải leo núi, không còn rừng rậm nhưng những đồi cỏ khô hay
giữa rừng thông, phía dưới là thung lũng, những ngọn đồi nhấp nhô và dãy núi
xa.
… Một làn khói đơn độc vươn lên trước mắt chúng tôi. Khi đến
một con đèo nhỏ, chân trời bất chợt mở ra về hướng Đà Lạt, những ngọn đồi đang
bốc cháy! Ngọn lửa vừa vượt qua con đường chúng tôi đi và chuyển dần về hướng
phải, để lại đằng sau những đám cháy, một vùng đầy tro và thân gỗ đen. Không
còn nguy hiểm nữa, tất cả đã bị đốt cháy. Chúng tôi tiếp tục đi, lũ ngựa sợ sức
nóng và mùi cây cỏ vì những bụi cây còn bốc cháy ven đường và hơi nóng vẫn còn
thổi về hướng chúng tôi. Những người phục vụ đùa giỡn trước cảnh tượng kỳ lạ, mới
mẻ này, bù lại cho những cánh đồng cỏ hoang vắng vừa trải qua. Tôi rất buồn
nghĩ đến tất cả cỏ cây bị phá hoại, những cây non sắp vươn lên, đất đai giảm
phì nhiêu mỗi khi ngọn lửa đi qua, động vật hoang dã bị thiêu rụi.
Sau những khu rừng dài hai hay ba cây số bị đốt thành tro,
thân gỗ bốc cháy hay thành than, những đám cháy tiếp tục như những đảo nhỏ,
đoàn người đi ngang qua một vùng hơi ẩm ướt đã ngăn chặn được tai họa và tìm lại
được những đồi cỏ khô lượn sóng trên cao nguyên, xa xa là bóng dáng những đỉnh
núi cao. Thỉnh thoảng đoàn người đi ngang qua những khu rừng thông màu xanh đậm
giữa một đại dương cỏ khô vàng mênh mông. Tôi ngạc nhiên nhìn thấy về phía trái
một tấm bảng đóng trên một thân cây mang dòng chữ “Đường đi Djiring”. Sau đó
vài cây số là Đà Lạt.
Đà Lạt! Tám hay mười mái nhà tranh của người Việt, một nhà
sàn bằng ván thô sơ dành cho lữ khách, một vòi nước, quảng trường chợ, một nhà
bưu điện đơn sơ. Trên một ngọn đồi, sau hàng rào và giữa rặng thông xanh, vài
căn nhà gạch của trung tâm hành chánh Đà Lạt, vì chế độ cai trị ở đây thật đặc
biệt: có một hội đồng và cả một viên thị trưởng. Ông Champoudry - Thị trưởng Đà
Lạt - nguyên Cố vấn Hội đồng thành phố Paris bị thất cử được Doumer đem sang
đây và coi như người sáng lập Đà Lạt. Còn cư dân? Vài chục người Việt bị đày,
vài khách người Âu đi công tác hay trắc địa, những người thợ săn hay lữ khách
hiếm hoi cùng đoàn tùy tùng. Tài nguyên? Gần như không có gì hết; không có một
khoản ngân sách đáng kể, không có một sự trợ giúp nào cả. Vốn là dược sĩ chuyên
trách về vấn đề vệ sinh thành phố Paris, ông thích thú thiết kế hệ thống thoát
nước trong thành phố tương lai dựng lên trên sa mạc này và chờ đợi...
Nguyên Cố vấn Hội đồng thành phố Paris bị thất cử được Doumer
đem sang đây và coi như người sáng lập Đà Lạt.
Vốn là dược sĩ chuyên trách về vấn đề vệ sinh thành phố
Paris, ông thích thú thiết kế hệ thống thoát nước trong thành phố tương lai dựng
lên trên sa mạc này và chờ đợi...
Trung tâm hành chánh của Đà Lạt không được nới rộng thêm chút
nào, vẫn thuộc về tỉnh Phan Rang. Để tránh những sự tranh chấp về quyền hạn,
ông Canivey - Đại diện của Công sứ - sống với gia đình và thuộc hạ cách xa 3km,
ngoài phạm vi của Champoudry. Nơi đây, ông đích thực là chủ nhân, cai quản một
vùng Thượng rộng lớn, để lại cho đối thủ bất hạnh của ông vài chục người Việt
thường ra vào trong một làng nhỏ chật hẹp mà họ không dám bước chân ra ngoài.
Một phái đoàn công chánh cũng hiện diện tạm thời ở Đà Lạt gồm
có đại úy Lavit - một người thợ săn, các ông Barbot và Vissac. Cả ba người đều
đi vắng, tôi không gặp được ai.
Tôi mang đến cho ông Canivey một lá thư gửi từ Phan Rang và
ông giữ tôi ở lại ăn cơm tối. Ông là một người ở lâu trên xứ Thượng, đã làm hết
trách nhiệm, lúc hòa bình lúc chiến tranh, cố gắng khai hóa người dân bản địa,
thỉnh thoảng buộc phải đánh nhau, bị thương nhiều lần trong những cuộc đụng độ
nguy hiểm với những mũi tên tẩm thuốc độc, những chiếc cung tự động cài trong
đám cỏ phóng ra những mũi dao khi người lạ tìm lối đi, những hầm chông cài trên
đường, những trò ma thuật không thể dự kiến được.
Không những là một người am hiểu miền Thượng, ông còn là một
tay thiện xạ có lẽ một phần vì ham thích nhưng chắc chắn vì hoàn cảnh bắt buộc.
Ở đây không có thịt nào khác ngoài thịt rừng; về rau, chỉ có
vài loại rau do người Thượng mang đến hay những người lính tự trồng trọt. Phải
thường xuyên chống lại cọp và beo rất nhiều trong khắp vùng. Chuyện cọp là chuyện
thường ngày, không phải là chuyện vui đùa bịa đặt mà là một thực tế đáng lo ngại.
Chó, ngựa, nhiều người giúp việc, nhiều người bưu trạm đã bị cọp vồ; nhiều người
Âu cũng cùng chung số phận.
Sau khi ăn tối ở đồn cảnh binh, ông Canivey cho bốn người cầm
đuốc đưa tôi về vì đường đi rất nguy hiểm từ khi mặt trời lặn. Ông nói với tôi
rằng tôi đã lầm khi đến đây một mình.
Những con chó rừng còn nguy hiểm hơn nữa. Đây là một loại chó
cao gần bằng cái bàn, ốm nhom nhưng cực kỳ hung dữ. Chúng kéo đi hàng đàn và đuổi
theo con mồi không biết mệt. Chúng tấn công cả cọp và thường chiến đấu đến
cùng, dù phải bỏ thây vài mạng. Một lần, con chó của đại úy Lavit - một người
thợ săn dũng cảm - bị một đàn chó rừng đuổi theo đến tận trại. Chúng chỉ chịu bỏ
đi khi tất cả mọi người trong trại vội vàng chạy ra xua đuổi chúng. Tôi đã từng
nghe nói về những con chó rừng ở Quy Nhơn, nhưng những con chó rừng ở đây còn dễ
sợ hơn.
Tất nhiên, Đà Lạt thiếu những trò giải trí quyến rũ. Ở trong
nhà gỗ và ngủ trên giường gỗ không hấp dẫn du khách chút nào! Không có cỏ cho
ngựa và cám bán với giá cắt cổ.
Những người phục vụ không quen với khí hậu, tôi lo ngại có
người bị bệnh sẽ rất phiền phức vì tôi phải rời Sài Gòn vào ngày 6 hay ngày 8
tháng 4. Tốt nhất là khởi hành vào sáng ngày mai.
Đà Lạt, 29 tháng 3
Sáng hôm nay, chúng tôi lên đường, trở lại vài cây số để đi
trên con đường đến Djiring như tấm bảng nhỏ đã ghi tôi thấy hôm qua.
Đường bắt đầu trên vùng đất đỏ, chạy giữa rừng thông thường
phủ một màu xanh lên các ngọn đồi rồi xuống thấp dần, ít người đi lại, đường bị
hư hại, ít được hay không được sửa chữa, cỏ mọc lấn lên đường. Đường chạy ven
sườn đồi một thung lũng dài, hoàn toàn hoang vắng. Vài đàn nai đi ngang qua.
Phía dưới thung lũng, khắp trên cao nguyên, nai là động vật duy nhất có thể thấy.
Chúng tự do đi dạo theo từng đàn nhỏ và trong mùa này tìm cỏ xanh trên những
vùng hơi ẩm ướt.
Đường càng ngày càng bị hư hỏng, hướng xuống thung lũng, vượt
qua vài hố sâu. Đất đào đắp vẫn còn nhưng tất cả cây cầu không còn nguyên vẹn,
đã gãy, chúng tôi phải đi vòng và vượt qua những dòng suối cạn. Lẽ nào đường đi
đến Djiring mãi như thế này?
Trong thung lũng chúng tôi dần dần đến gần dòng sông. Tình
hình càng ngày càng đáng lo ngại. Đường đã vắng vẻ, dòng sông càng vắng vẻ và
hình như hoàn toàn hoang phế. Từ khi rời khỏi Đà Lạt đến đây, tôi chưa gặp một
bóng người. Chúng tôi còn nhìn thấy vài cọc gỗ, thỉnh thoảng một hai tấm ván.
Chúng tôi phải lội qua vùng sình lầy và đầm nước nhỏ. Trong cảnh hoang vắng tuyệt
đối này, tôi nhớ đến vùng đầm lầy ở Sông Cầu, chúng tôi phải qua một vùng sình
lầy dài khoảng 700 đến 800 mét, bùn ngập đến tận yên ngựa, chung quanh là những
người Kinh chèo thuyền tam bản hay thuyền thúng.
Cuối cùng, con đường mòn hình như mất hút. Nhìn thấy một chiếc
cầu xa xa, tôi cưỡi con ngựa tốt nhất mang dòng máu Ả-rập tiến ra phía trước để
khám phá.
Đà Lạt hấp dẫn du khách vì khí hậu thiên nhiên mát mẻ.
Trong ảnh: Du thuyền trên hồ Xuân Hương
(Đà Lạt). Ảnh: Thanh Toàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét