Thời Hùng Vương
qua truyền thuyết và huyền thoại 3
CHƯƠNG 7
Một chiều xưa, trăng nước chưa thành thơ
Trầm trầm không gian, mới rung đường tơ
Vương vấn heo may, hoa yến mong chờ
Ôi! Tiếng cầm ca, thu đến bao giờ… (*)
TRƯƠNG CHI - Văn Cao
- Thái Thanh
Chú thích:
(*) Lời trong nhạc phẩm Trương Chi của Văn Cao.
Thơ và nhạc là những rung cảm vi diệu của tâm hồn. Nếu bạn được
nghe những giai điệu mở đầu của nhạc phẩm “Trương Chi” với lời ca diễn cảm
trong một trạng thái hoàn toàn thư giãn, bạn sẽ thấy sự huyền ảo của thơ nhạc
như hòa quyện vào nhau, nâng hồn người ra khỏi mọi sự vướng bận của trần gian.
Nhạc phẩm nổi tiếng này của Văn Cao đã lấy cảm hứng từ “Chuyện tình Trương
Chi” - một tác phẩm văn học vượt thời gian của người Lạc Việt thời Hùng
Vương.
Thời đại Hùng Vương có thời gian tồn tại lâu nhất trong lịch sử các quốc gia của
nhân loại kể từ khi có loài người, bằng một nửa thời gian lịch sử hình thành
các dân tộc trên thế giới. Những giá trị của nền văn minh lâu đời đo, dù tan
nát theo những diễn biến lịch sử. Nhưng những mảnh vụn còn lại, mặc dù chưa được
phục chế hoàn hảo cũng đủ làm cho trí tuệ hiện đại của nhân loại phải kinh ngạc.
Trong lịch sử văn minh nhân loại, có lẽ ít thấy một quốc gia nào sử dụng khái
niệm văn hiến để nói về đất nước 5000 năm, kể từ vua Hùng Vương thứ I. Bởi vì,
bắt đầu từ thời Hùng Vương, nền văn hóa của đất nước này đã hướng con người tới
sự hòa nhập trong tình yêu của con người đầy nhân bản. Những truyền thuyết, huyền
thoại của nền văn học nghệ thuật thời Hùng dù còn lại rất ít, đều chứng tỏ điều
đó. Đó là: Mỵ Châu - Trọng Thủy, Thạch Sanh, chuyện tình Trương Chi và rải rác
trong những truyền thuyết lịch sử khác.
Bắt đầu từ chuyện tình Trương Chi, nguồn cảm hứng cho nhạc phẩm Trương Chi của
nhạc sĩ Văn Cao.
Vì là một tác phẩm văn học, nên chuyện tình Trương Chi khác với truyền thuyết lịch
sử là không có sự hiện diện của vua Hùng. Nhưng người Việt gốc Văn Lang vẫn nhận
ra dấu ấn của tổ tiên qua người con gái diễm hằng với thiên thu: đó là Mỵ Nương
con quan tể tướng. May thay! Nếu không phải là Mỵ Nương, mà là một thiên thần
thì câu chuyện đã nhạt nhòa với thời gian, còn đâu chất lãng mạn của tình yêu
con người trong áng văn chương trác tuyệt, vượt thời gian đến tận bây giờ và
mãi mãi về sau...
Câu chuyện kể rằng:
Ngày xưa, có một chàng trai đánh cá nghèo, mồ côi cha mẹ tên
là Trương Chi. Anh rất xấu xí, nhưng thổi sáo rất hay. Đêm đêm anh thường đem
sáo ra thổi. Bến sông anh đậu thuyền ngay gần dinh quan tể tướng, nên tiếng sáo
của anh vang vọng đến dinh của ngài. Quan tể tướng có một người con gái tên là
Mỵ Nương đã đến tuổi lấy chồng rất xinh đẹp. Mỗi khi Trương Chi thổi sáo, nàng
lại ra cửa sổ phòng mình hướng về phía sông để được nghe tiếng sáo của chàng và
nàng đã say mê tiếng sáo ấy.
Rồi có một thời gian, Trương Chi ốm bệnh, Mỵ Nương không còn được nghe tiếng
sáo của chàng. Nàng buồn bã tưởng nhớ tiếng sáo đến tương tư, rồi phát bệnh.
Quan tể tướng hỏi nguyên nhân, biết chuyện, ông cho mời Trương Chi đến để thổi
sáo cho nàng nghe.
Được nghe lại tiếng sáo, Mỵ Nương khỏi bệnh. Nhưng vừa nhìn thấy Trương Chi,
nàng đã quay mặt đi vì chàng quá xấu. Còn Trương Chi lại đem lòng yêu Mỵ Nương,
sau khi được gặp nàng.
Biết không thể gần nhau, Trương Chi buồn bã bệnh chết.
Trải bao năm tháng chôn vùi dưới đất, thân xác đã tiêu tan. Nhưng trái tim
Trương Chi kết thành một khối ngọc đỏ thắm như thách thức với thiên thu, thủy
chung chờ đợi. Về sau có người tình cờ tìm được khối ngọc này, tiện thành một bộ
đồ trà và đem dâng quan tể tướng.
Trong một tiệc yến có Mỵ Nương cùng dự, quan tể tướng sai lấy bình trà quí ra
dùng. Nhưng khi rót nước vào, Mỵ Nương chợt thấy trong chén trà của mình hình
bóng con thuyền của Trương Chi và tiếng sáo ngày xưa vọng về. Công chúa khóc,
nước mắt nhỏ vào trong chén và chén trà tan đi trong tay nàng.
Giọt lệ của Mỵ Nương không phải chỉ nhỏ vào chén trà khiến mối
tình u uẩn của Trương Chi tan đi trong tình yêu của thiên thần. Cùng với trái
tim ngọc đá của Trương Chi, giọt lệ từ cảm xúc trong tâm hồn Mỵ Nương đã rơi
vào tận cõi thiên thu, đưa tình yêu đôi lứa đến đỉnh cao nhất của sự hòa nhập
tâm hồn.
Mỵ Nương - nàng công chúa diễm hằng - bước vào không gian của tuổi buồn trinh nữ.
Tâm hồn trong trắng của nàng chưa một lần rung lên với nhạc khúc tình yêu.
Nhưng nàng lại tìm được sự đồng cảm trong tiếng sáo chơi vơi, đong đầy chất u
buồn nhân thế của Trương Chi... đã đến trong nàng không biết tự bao giờ...
Qua hơn 2000 năm thăng trầm của lịch sử, bao lời thơ nét nhạc đã rung động vì cảm
xúc với câu chuyện tình Trương Chi. Nhưng, có lẽ không ai miêu tả tâm hồn trinh
trắng như cả một trời thơ với những rung cảm đầu đời của nàng công chúa diễm hằng,
hay hơn nhạc khúc của Văn Cao.
Một chiều xưa, trăng nước chưa thành thơ
Trầm trầm không gian, mới rung đường tơ
Vương vấn heo may, hoa yến mong chờ
Ôi! Tiếng cầm ca, thu đến bao giờ... (*)
Chú thích:
(*) Lời trong nhạc phẩm Trương Chi của Văn Cao
Tiếng sáo Trương Chi trầm buồn theo sóng nước, chơi vơi như
cuộc đời bất hạnh của chàng. Chàng mồ côi cả cha lẫn mẹ, lại có một ngoại hình
xấu xí bọc một kiếp nghèo. Nhưng thiên nhiên lại ban cho chàng cây sáo với tài
năng tuyệt kỹ. Tiếng sáo của chàng an ủi cho chính lòng chàng.
Trương Chi biết đâu trong lầu son gác tía bên sông lại có một tuyệt thế giai
nhân, đang say đắm thả hồn theo tiếng sáo của chàng.
Ngay từ những đoạn mở đầu của câu chuyện tình, chất lãng mạn đã ngập tràn trong
âm thanh vi diệu của tiếng sáo Trương Chi. Tiếng sáo ấy chơi vơi, xao xuyến rồi
lắng chìm trong tâm hồn trinh nữ của Mỵ Nương. Giá trị nghệ thuật là dung môi để
hai tâm hồn đồng cảm tìm đến nhau, rồi tan trong đó. Thời gian trôi đi, đã bao
lần Mỵ Nương đến bên “song thu hé đợi đàn” (*) của chàng đánh cá
nghèo? Tiếng sáo từ đâu vọng tới làm say đắm tâm hồn trinh nữ, Mỵ Nương có biết
hay chăng? Đó là anh chàng si tình, hàng đêm đến bên lầu buông tiếng sáo tỏ
tình với nàng, hay vọng lại từ chiếc thuyền lẻ loi bên sông của chàng Trương
Chi nghèo khó? Nàng quay mặt đi khi gặp Trương Chi, phải chăng khi gặp người
nghệ sĩ tài hoa mới vỡ lẽ chỉ là một chàng đánh cá nghèo rớt mồng tơi, nên đã
phũ phàng?
Chú thích: (*) Lời trong nhạc phẩm Trương Chi của Văn Cao
Nét buồn trong nhạc phẩm Trương Chi của Văn Cao “Trách
ai khinh nghèo quên nhau”. Phải chăng đó là nỗi lòng của riêng ông với tình yêu
thông tục của thế nhân đã đến rồi đi trong cuộc đời, hơn là một nhận xét thực về
sự từ hôn của Mỵ Nương?
Mỵ Nương - con gái quan tể tướng - mà phải sợ lấy một người nghèo ư? May thay!
Công chúa Tiên Dung, người con gái ở tột đỉnh giàu sang lấy một anh chàng nghèo
rớt mùng tơi, “cái khố không có mà mang” đã thanh minh cho nàng. Từ
chân trời góc biển bên kia lục địa Á - Âu sau đó 2000 năm, đại văn hào Victor
Hugo cũng không nỡ gán ghép khiên cưỡng mà cho cô gái Bôhêmiêng xinh đẹp lấy
chàng Cadimodo gù, đã viết nên tác phẩm lãng mạn nổi tiếng thế giới và là niềm
tự hào của nền văn học Pháp; đó là tác phẩm “Nhà thờ Đức Bà ở Paris”. Từ
chối hợp hôn với một người đàn ông xấu xí tật nguyền, đó là quyền thiêng liêng
của người phụ nữ; quyền của thiên chức làm mẹ mà thượng đế ban cho mỗi người nữ
ở trần gian; để đảm bảo sự di truyền của giống nòi. Dù cho Mỵ Nương tìm thấy ở
Trương Chi một sự hòa nhập tâm hồn, nhưng chàng quá xấu... không ai có thể
trách nàng!
Tình yêu nam nữ không có sự hòa nhập xác thân nơi trần thế thì không có chất lứa
đôi. Nhưng tác gia thời Hùng cũng như đại văn hào Victor Hugo đã tài tình tạo
ra một hình tượng xấu xí của chàng trai, để khéo léo từ chối một sự hòa nhập
thân xác đầy nhân tính; tình yêu đôi lứa trong tác phẩm chỉ còn lại phần tâm hồn.
Đó là điều kiện để những thiên tài đưa chất lãng mạn đến sự rung cảm tế vi nhất
trong tình yêu của con người. Với cõi tâm linh, ước mơ và sáng tạo là không giới
hạn.
Trong “Nhà thờ Đức Bà ở Paris”, trái tim cô gái Bôhêmiêng chưa hề
rung cảm trước mối tình của Cadimodo – đã đến với nàng bằng tình yêu tự nhiên đẹp
nhất ở con người. Kết thúc câu chuyện, Cadimodo ôm xác người yêu cùng chết
trong hầm mộ.
Nhưng trong câu chuyện tình Trương Chi, sự lãng mạn đã thăng hoa đến mức tận
cùng của tình yêu đôi lứa. Tiếng sáo của Trương Chi đâu phải chỉ có mình Mỵ
Nương nghe được. Nhưng ai rung cảm được tiếng nhạc lòng của Trương Chi bằng Mỵ
Nương? Phải chi Trương Chi là Bá Nha, Mỵ Nương là Tử Kỳ thì chỉ đập cây đàn là
xong. Nhưng Trương Chi không thể đập cây sáo rồi ra đi như Bá Nha. Vì ở Bá Nha
chỉ là sự đồng điệu về nghệ thuật, không có người thưởng thức thì đàn ai nghe.
Còn Trương Chi, thanh âm tiếng sáo chính là thanh âm của tâm hồn chàng; khi ngoại
hình xấu xí trong con mắt thế nhân, không phải là con người đích thực trong
chàng. Rung động với tiếng sáo của Trương Chi, chính là sự hòa nhập với tâm hồn
Trương Chi. Nhưng oái oăm thay, người hiểu được lòng chàng và hòa nhập với tâm
hồn chàng qua tiếng sáo lại là một giai nhân. Cho dù quyền quý cao sang, cha
nàng với quyền uy tể tướng, có thừa khả năng để đưa chàng đánh cá nghèo thành một
người có đầy thế lực. Nhưng quyền uy tể tướng, làm sao vượt được quyền năng của
tạo hóa đã ghi dấu ấn trên thân hình xấu xí của chàng?
Nàng từ chối hòa nhập xác thân với nụ hôn trần thế. Đó là quyền của đời con
gái, đây chính là một trong những tình tiết giàu chất nhân tính của chuyện tình
Trương Chi, có nét tương ứng trong “Nhà thờ Đức Bà ở Paris” của
Victor Huygo. Nhưng trong “Nhà thờ Đức Bà ở Paris” thì cô gái xinh đẹp
người Bôhêmiêng đã chết, để hai người cùng chết bên nhau với tình yêu say đắm của
Cadimodo. Còn ở chuyện tình Trương Chi thì chàng nghệ sĩ tài hoa bạc mệnh đã chết.
Chàng chết, vì đã mất đi một nửa linh hồn khi chợt thấy ở trong sự rung cảm của
Mỵ Nương với cõi lòng chàng. Chàng chết, vì không thể đem lại hạnh phúc cho
nàng với một ngoại hình xấu xí. Câu chuyện tình đến đây cũng đủ chất lãng mạn
và cao thượng, hơn hẳn so với nhiều câu chuyện tình nổi tiếng cổ kim. Nhưng nếu
chỉ có thế thì vẫn chưa thể xứng đáng với tầm vóc của một thời đại có nền văn
hiến lâu nhất, so với các quốc gia trong lịch sử văn minh nhân loại.
Ở chuyện tình Trương Chi, chất lãng mạn đã được thăng hoa đến tận cùng, để ngàn
đời sau - cho đến ngày tận thế - nhân loại sẽ không còn tạo dựng được một hình
tượng hay hơn thế nữa. Cũng như tượng thần vệ nữ ở Milo, những điêu khắc gia đầy
tài năng của nhân loại hiện nay, chưa ai lắp nổi cánh tay cho nàng. Đôi cánh
tay trần thế, không thuộc về vẻ đẹp của thiên thần.
Chất lãng mạn trác tuyệt đưa chuyện tình Trương Chi vào cõi bất tử chính là ở
đoạn cuối của câu chuyện.
Trương Chi đã chết, chàng không thể ở lại bến sông xưa để tiếp tục hòa nỗi cô
đơn trong tiếng sáo, khi nửa mảnh hồn của chàng không thể hòa nhập ở cõi trần
gian. Tình yêu Trương Chi đã dành cho Mỵ Nương, không phải để tìm sự hòa nhập
xác thân với nụ hôn trần thế, mà là sự đồng cảm của tâm hồn. Cho nên dù thân
xác tiêu tan, linh hồn Trương Chi - con người đích thực của chàng - đã kết
thành khối ngọc đá bằng chính trái tim, như sẵn sàng thách thức với thiên thu,
chờ đợi một sự khẳng định của nàng. Chàng nghệ sĩ tài hoa bạc mệnh, từ lâu đã
chỉ sống với chính nội tâm, con người đích thực cao khiết trong chàng. Lòng
chàng không oán trách Mỵ Nương, như thế nhân không ít người lầm tưởng.
Nàng khóc; khi tiếng sáo của “một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ” (*) lại
đến với cõi lòng nàng.
Nàng khóc; khi hình bóng con thuyền Trương Chi của ngày xưa, đã chở cả một mùa
thu cùng với tiếng thu đến làm rung động tâm hồn trinh nữ trong nàng.
Vũ trụ như quay cuồng chao đảo. Trăng sao tàn úa.
“Trầm vút tiếng gió mưa…”
Cùng với tiếng gió vương
Nhìn thấy ngấn nước lấp lánh in bóng đò xưa
Đò ơi! …” (*)
Chú thích:
(*) Lời trong nhạc phẩm Trương Chi của Văn Cao
Một cảm xúc mãnh liệt, dâng tràn từ cõi mênh mang trong tâm hồn
trinh nữ, kết tinh thành giọt lệ nhỏ xuống trái tim ngọc đá như muốn vĩnh hằng
với thời gian. Hai tâm hồn hòa nhập. Trái tim Trương Chi tan đi, để lại cho thế
nhân thiên bi diễm tình trác tuyệt, đưa tình yêu đôi lứa đến tận cõi bất tử của
các thiên thần.
Đoạn cuối của câu chuyện tình đầy huyền ảo trong sự hư cấu nghệ thuật, đạt đến
đỉnh cao nhất của thiên bi diễm tình trác tuyệt và rất giàu chất nhân bản.
Chính chất huyễn hoặc, lãng mạn đạt đến tuyệt đỉnh trong chuyện tình Trương
Chi, đã hóa giải được mâu thuẫn giữa những hình thái ý thức xã hội - dù biến
thiên theo lịch sử - liên quan đến quan hệ nam nữ với tình yêu, mà trong “Nhà
thờ Đức Bà ở Paris” một điển hình được ca ngợi về thể loại chuyện tình
lãng mạn, đã không giải quyết được. Trong “Nhà Thờ Đức Bà ở Paris” Cadimodo đã
chết theo người yêu, tuy giàu chất lãng mạn, nhưng không thể là một mẫu tình
yêu của đời thường. Ngược lại, chính sự huyền ảo phi thực trong chuyện tình
Trương Chi - thể hiện ở trái tim ngọc đá và giọt lệ thiên thu - đã đưa con người
hướng tới một giá trị đích thực của tình yêu là sự hy sinh và hòa nhập tâm hồn,
nhưng lại không thể chứng tỏ được bằng cái chết. Đây chính là chất nhân bản
trác tuyệt của câu chuyện tình này. Bằng những hình tượng nghệ thuật, tác gia Lạc
Việt đã chứng tỏ được chất lãng mạn tuyệt đỉnh và mơ ước trong tình yêu đôi lứa:
sự hòa nhập của tâm hồn, chính là cõi huyền diệu trong “Mùa xuân vĩnh viễn“ (*) của
nhân loại.
Chú thích:
(*) Tên một tác phẩm điêu khắc về đề tài tình yêu nổi
tiếng của Rodin, nhà điêu khắc Pháp.
Chuyện tình Trương Chi, một chuyện tình lãng mạn cổ kim chưa
từng có, vĩnh viễn đứng ở đỉnh cao của Kim Tự Tháp những chuyện tình lãng mạn của
nhân loại, đã chứng tỏ trí tuệ bậc thầy của các tác gia đời Hùng để lại cho thế
nhân qua hàng thiên niên kỷ…
Mai ta chết dưới cội đào.
Khóc ta xin nhỏ lệ vào thiên thu
Phạm Thiên Thư
Thời gian trôi đi... thế nhân ai hiểu được cho cõi lòng
Trương Chi và tâm hồn trinh nữ trong nàng Mỵ Nương vĩnh hằng?
“Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?” (*)
Chú thích:
(*) Lời trong bài thơ “Ông đồ già “ của nhà thơ Vũ
Đình Liên.
Đâu đây... từ quán cà phê cóc trên vỉa hè, có tiếng hát não nề
vọng ra từ chiếc cassette cũ với cuộn băng đã nhão, đang ca bản “Giọt lệ đài
trang”:
Ngày xưa ai lá ngọc cành vàng?
Ngày xưa ai quyền quý cao sang?
Em, chính em ngày xưa đó, đã xây đời lên tột đỉnh nhân gian.
Ngày xưa ai mến nhạc yêu đàn?
Ngày xưa ai nghệ sĩ lang thang?
Tôi, chính tôi ngày xưa đó, cũng đèo bòng mơ người đẹp lầu quan…Không! Không phải đó là mối tình Trương Chi - Mỵ Nương. Đôi lứa
đã thuộc về cõi bất tử, đâu còn ở trần gian để so sánh với tình yêu vượt biên
giới của những nàng Bôhêmiêng thời đại đi theo chàng Cadimodo ra ngoại quốc.
Trương Chi - Mỵ Nương không màng đến hòa nhập xác thân, của cải nào có ý nghĩa
gì. Văn Cao, một nghệ sĩ tài năng tuyệt thế mà nhạc khúc Thiên Thai đã đưa linh
hồn ông vào chốn vĩnh hằng ở cõi Bồng Lai. Ông không hề trách Mỵ Nương như
chàng nghệ sĩ trách người đẹp đài trang. Ông trách thế nhân còn có mảnh đời phụ
bạc, khi ông tìm thấy cảm hứng tuyệt vời ở “Chuyện tình Trương Chi”.
Đêm nay,
Dòng sông Thương dâng cao,
Mà ai hát dưới trăng ngà
Ngồi đây ta gõ ván thuyền,
Ta ca trái đất còn riêng ta,
Đàn đêm thâu.
Trách ai khinh nghèo quên nhau
Đôi lứa bên giang đầu
Người ra đi với cuộc phân ly
Đâu bóng thuyền Trương Chi? (*).
Chú thích:
(*). Lời trong nhạc phẩm Trương Chi của Văn Cao
CHƯƠNG VII - 1
Những hình ảnh này đã đẩy không gian hình thành câu chuyện
vào giai đoạn tối cổ khi thiên nhiên vừa là cuộc sống, vừa là sự sợ hãi của con
người.
Ngoài những hình ảnh tương đồng dễ đi đến ngộ nhận nguồn gốc từ nước ngoài, thì
truyện Thạch Sanh có những nét đặc thù của người Lạc Việt về nội dung lẫn hình ảnh
nhân vật. Trước hết, đó là hình ảnh rất ấn tượng của Thạch Sanh: ở trần đóng khố
với cái rìu, vừa là công cụ sinh nhai vừa là vũ khí chiến đấu của chàng. May mắn
thay! Với bao thăng trầm của lịch sử, câu chuyện cổ tích đầy nhân bản của dân Lạc
Việt vẫn không mất đi hình ảnh độc đáo của nó, đó chính là cái rìu. Có một số
truyện cổ tích thần thoại khác trên thế giới - xuất hiện vào thời kỳ mà con người
không còn chỉ đấu tranh với thiên nhiên mà là với chính con người - thì cũng có
hình ảnh chiếc búa, người em được sinh ra từ bà dì ghẻ của cái rìu. Nhưng cái
búa trong những truyện thần thoại khác, thuần túy chỉ là vũ khí chiến đấu, chứ
không kiêm một công cụ sinh hoạt như Thạch Sanh (thí dụ như truyện “Phá núi cứu
mẹ” của Trung Quốc, hoặc hình ảnh cái búa của ông Thiên Lôi trong thần thoại Việt
Nam và Trung Quốc). Về hình tượng cái rìu của Thạch Sanh - liên quan đến thời kỳ
lập quốc - là hình ảnh lúc khai sơn phá thạch của người Lạc Việt. Xin bạn đọc
xem một đoạn trích dẫn sau đây của các nhà nghiên cứu Việt Nam hiện đại, được
trích dẫn trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam (sách đã dẫn).
Về ý nghĩa của tộc danh Việt lâu nay một số người thường dựa
trên dạng Hán tự hiện đại có chứa bộ “tẩu” của chữ này để giải thích rằng Việt nghĩa là chạy,
vượt. Thực ra chữ Việt trong Hán tự đã trải qua nhiều cách viết rất khác nhau -
đây là một tên gọi có từ lâu đời (họ Việt Thường, chủng Bách Việt được nhắc tới
trong sử Bắc từ rất sớm).
Theo Bình Nguyên Lộc (1971: 154-157, 784-787), Việt vốn là tên gọi một loại
công cụ kiêm vũ khí rất đặc thù của người (tiền) Việt cổ: cái rìu. Khảo cổ học
đã tìm được ở khắp nơi trong địa bàn cư trú của người tiền Việt cổ rất nhiều loại
rìu với các chất liệu khác nhau (đá, đồng, sắt); ở khu vực của người Indonesia
là rìu đá có tay cầm (= có vai, xem hình 3.2a); ở khu vực của người Nam Á (Bách
Việt) là các loại rìu đồng hình tứ giác (hình 3.2b), rìu đồng lưỡi xéo (hình
3.2c). Trong ngôn ngữ Nam Á cổ đại, rìu có lẽ đã được phát âm là yịt hoặc một
âm gì đó tương tự (3) (các truyền thuyết Mường vẫn gọi vua Việt là vua Yịt (Dịt)
hay Yịt Yàng (Dịt Dàng). Khi tiếp xúc với người phương Nam, tổ tiên người Hán với
tính cách du mục vốn có đã rất chú ý đến loại công cụ có thể dùng như vũ khí
này, coi nó là đặc trưng quan trọng của người phương Nam nên đã gọi họ là bọn
Rìu; Yịt được phiên âm theo tiếng Hán cổ, rồi tiếng Hán lại phiên trở lại theo
cách đọc Hán - Việt thành Việt. Chính cái vật thật là cái rìu lưỡi xéo có cán
(hình 3.2d-e) đã là nguyên mẫu để tổ tiên người Trung Hoa khi tiếp xúc với
phương Nam, đã mô phỏng theo đó mà tạo nên chữ “Việt” nguyên thủy (hình 3.2f).
Còn trong tiếng Việt, chữ Yịt nguyên thủy đã trải qua nhiều biến đổi ngữ âm để
có được bộ mặt của chữ “rìu” hiện nay cùng với cả một họ các từ gần nghĩa: rìu,
rèn, rào, dao, rựa... bên cạnh đó cho đến gần đây vẫn có một chữ “Việt” với tư
cách danh từ chung có nghĩa là rìu; nó xuất hiện trong kết hợp phủ việt (phủ =
búa, việt = rìu).
Đến thời Khổng tử, chữ “Việt”vẫn còn giữ được ký hiệu tượng hình cho cái rìu; ngoài ra nó còn được bổ
sung thêm một nét đặc trưng quan trọng nữa là bộ mễ để chỉ dân trồng lúa (Kim Định 1970: 60-61, 82).
Ngay cả chữ “Việt” hiện thời cũng còn giữ được dấu vết của “cái rìu” đó qua sự
hiện diện của bộ thích. Theo Vệ Tụ Hiền trong “Ngô Việt thích danh thuyết” thì
chữ (Việt, tên dân tộc) chính là chữ (Việt) chỉ cái rìu búa. Ở lưu vực sông Hoàng Hà,
ngay trong các di chỉ thời đồ đá mới cũng chưa phát hiện được búa rìu... Nó là
do dân tộc xưa ở Triết Giang phát minh ra... Chữ (Việt) thời cổ là tượng hình
cái búa. Nước Việt vì sản xuất ra búa (rìu) nên lấy làm tên gọi” (dẫn theo Trần
Quốc Vượng - Hà Văn Tấn 1960:193).
Chú thích trong sách đã dẫn: Ở đây không đi vào những chi tiết
kỹ thuật vốn phụ thuộc về bộ môn ngữ học gọi là ngữ âm học lịch sử.Qua đoạn trích dẫn trên, bạn đọc dễ dàng liên hệ với xuất xứ
của truyện Thạch Sanh; không thể bắt đầu từ thời hưng quốc (Đinh, Lê, Lý, Trần),
càng không thể bắt đầu từ thời Bắc thuộc. Hình ảnh cái rìu của Thạch Sanh chứng
tỏ: câu chuyện có xuất xứ ngay từ buổi đầu lập quốc. Tính huyền thoại cổ tích
trong truyện Thạch Sanh, chứng tỏ người Lạc Việt đã xuất hiện từ thời xa xưa,
tương tự hoặc hơn hẳn các quốc gia cổ đại thuộc các nền văn minh khác thể hiện
qua các truyện cổ tích của họ.
Cây đàn Thạch Sanh
Một hình tượng giàu chất đạo lý và nhân bản
Nếu cái rìu và cái khố là những nét đặc trưng của y phục và
công cụ trong lúc làm việc của người Lạc Việt buổi đầu lập quốc, thì niêu cơm
nhỏ bé và cây đàn thần là biểu tượng sinh động nhất của một cuộc sống vật chất
khiêm tốn và tâm hồn phong phú của người Lạc Việt, trong giai đoạn phát triển
toàn diện của xã hội Văn Lang. Một thông điệp đầy đạo lý của ông cha cho đời
sau - qua hình tượng của niêu cơm bé nhỏ - đã khuyến cáo một sự tiết độ cần có,
mặc dù khả năng của nó là không giới hạn. Đây là một hình tượng mang tính minh
triết của nền văn minh Lạc Việt: Tính tiết độ làm nên sự phú túc cho cuộc đời.
Nhưng chính hình tượng cây đàn thần với thanh âm huyền diệu của Thạch Sanh, mới
thực sự thể hiện chất lãng mạn độc đáo giàu chất nhân bản và sự kỳ diệu đạt đến
tuyệt đỉnh của câu chuyện này.
Trong tất cả những truyền thuyết, huyền thoại của các dân tộc trên thế giới hầu
như không thiếu những hình ảnh những thanh âm huyền diệu. Từ tiếng sáo của Lộng
Ngọc - Tiêu Sử trong Đông Chu liệt quốc, hay như tiếng đàn tài tử của Tư Mã
Tương Như với khúc Phượng Cầu Hoàng làm xiêu lòng Trác Văn Quân. Có thể giới
thiệu với bạn đọc những thanh âm huyền thoại đã đi vào lịch sử, như: tiếng địch
u hoài của Trương Lương trên dòng Ô Giang, khiến lòng quân Sở phải tan nát, người
đẹp Ngu Cơ tự sát, anh hùng Hạng Võ phải rơi đầu; hay cung đàn đầy khí phách của
Khổng Minh, khiến Tư Mã Ý phải quay đầu chạy trốn trong trận Nhai Đình; hoặc tiếng
sáo bi phẫn của Cao Tiệm Ly bên dòng Dịch Thủy làm cho những anh hùng Yên quốc
phải rơi lệ, uất khí vương trắng trời xanh... Tiếc thay, tất cả những thanh âm
huyền thoại đó, đều là những giai điệu hòa chất lãng mạn, nhưng đầy bi tráng
trong cuộc đấu tranh sắt máu của con người với chính con người trong lịch sử.
Nhưng trong tiếng đàn của Thạch Sanh - thuộc về nền văn minh Lạc Việt - là tiếng
đàn duy nhất trong những huyền thoại về tiếng đàn, thể hiện tình yêu bao la của
con người với chính con người. Những thanh âm huyền diệu của cây đàn thần qua
tâm hồn thánh thiện của Thạch Sanh, chan hòa niềm ước mơ về một cuộc sống mà
trong đó con người đồng cảm với nhau trong tình nhân ái. Cung bậc của những
thanh âm vi diệu này đã bày tỏ được nỗi oan khiên, chứng minh cho công lý.
Chất lãng mạn trác tuyệt đạt đến tuyệt đỉnh ở câu truyện cổ tích thần thoại Lạc
Việt, chính là hình tượng thanh âm chứa đầy tình nhân ái đã hóa giải được chiến
tranh với 18 nước chư hầu. Thanh âm thiên thần ấy là của niềm mơ ước vươn tới sự
tuyệt mỹ của những giá trị nghệ thuật - sự tột cùng của vẻ đẹp cuộc sống - sẽ đạt
tới những rung cảm vi diệu trong cõi tâm linh sâu lắng nhất của con người. Tiếng
đàn đã khơi dậy từ nguồn cội tâm linh tình yêu cuộc sống và con người - hành
trang mà tạo hóa đã ban cho mỗi con người từ thuở hồng hoang của nhân loại. Những
chiến binh kiêu hùng, đã buông vũ khí để trở về với giá trị đích thực của cuộc
sống; đó là sự sống trong thanh bình và lòng nhân ái. Đây cũng là chân giá trị
của nền văn hiến Văn Lang. Hình tượng sáng tạo độc đáo của tác gia Lạc Việt
trong chuyện Thạch Sanh, đã làm nên sự khác biệt và không hề có dị bản gần gũi
trong các truyện cổ tích khác trên thế giới.
Một giá trị độc đáo nữa của câu chuyện thần thoại từ nền văn minh Lạc Việt là
đã đặt trong tâm hồn con người - một cách tự nhiên như hơi thở - chất lãng mạn
của thiên thần khi mơ ước: những giá trị nghệ thuật - đỉnh cao của văn hóa nhân
loại - sẽ hóa giải được nỗi đau khổ lớn nhất mà con người tự gây ra cho mình,
đó là chiến tranh. Đây cũng là bức thông điệp của tiếng đàn Thạch Sanh chuyển tải
cho mai sau. Và đó cũng là giá trị của nền văn hiến Văn Lang - nhà nước đầu
tiên được hình thành gần 5000 năm về trước, kể từ thời Hùng Vương thứ I. Ngoài
giá trị nghệ thuật, tiếng đàn Thạch Sanh - qua hình tượng lãng mạn trong câu
truyện đầy huyền thoại này - còn mang một giá trị minh triết về thanh âm chính
là cội nguồn của tư duy và tình cảm con người. Nền khoa học hiện đại ngày càng
nhận ra rằng: chính thanh âm có tác động đến tư duy và tình cảm con người. Những
thông tin đầu tiên mà con người chuyển tải cho nhau trước khi có chữ viết,
chính là âm thanh.
Phải chăng, xã hội Văn Lang đã đạt tới một đỉnh cao về nghệ thuật và giá trị của
thanh âm, để làm nền tảng cho ước mơ lãng mạn đầy chất thiên thần trong câu
chuyện Thạch Sanh?.
CHƯƠNG VII - 2
Qua những bức tranh dân gian của làng Đông Hồ, bạn đọc lại thấy
hình ảnh đặc thù quen thuộc từ thời Hùng Vương. Đó là con Cóc, một biểu tượng
cho nền văn minh chữ viết của Văn Lang; con Rùa biểu tượng cho phương tiện chuyển
tải chữ viết ở thời kỳ đầu lập quốc (“giống rùa lớn thường chỉ thấy ở sông
Dương Tử”, như học giả Nguyễn Hiến Lê đã viết trong tác phẩm “Sử Trung Quốc” của
ông). Hình ảnh trong tranh chú bé ôm Rùa, ôm Cóc là những hình tượng rất đặc
thù trong văn hóa Việt Nam. Có thể nói rằng: khó có thể chứng minh được những
hình ảnh này đã xuất hiện đâu dó từ một nền văn hóa khác; hoặc có thể chứng
minh được rằng: những hình tượng này xuất hiện từ thời Việt Nam hưng quốc. Hay
nói một cách khác: nội dung và những hình tượng này đã có từ một thời rất xa
xưa: Thời Hùng Vương, cội nguồn của văn hóa Việt Nam. Nội dung của những bức
tranh Lạc Việt này, ngoài việc thể hiện những giá trị đạo lý và mơ ước của con
người, còn thể hiện sự hòa nhập giữa con người và thiên nhiên qua hình ảnh những
đứa trẻ bụ bẫm - thể hiện sự phú túc và tính thơ ngây thiên thần - với những
sinh vật gần gũi trong cuộc sống.
Chăn Trâu Trời xanh trong tiếng sáo
Tranh dân gian làng Đông HồChúng ta cũng có thể tìm thấy ý tưởng đầy trí tuệ và nhân bản
này qua bức tranh “Chăn trâu”, cũng của làng tranh Đông Hồ. Qua hình ảnh:
chú bé vô tư, ngồi đè lên những bông sen trên lưng trâu, say sưa thả hồn theo
tiếng sáo; con trâu (không hề có sự ràng buộc của dây vàm) ngóc đầu lên như muốn
đồng cảm với con người. Bạn đọc có thể tìm thấy trong bức tranh này một nội
dung mang tính minh triết của Phật giáo: tính phá chấp (ngồi đè lên bông sen),
sự chế ngự bản ngã (cưỡi trâu) và sự hòa nhập chân tính của con người với thiên
nhiên. Nhưng từ một góc độ khác, người viết cho rằng bức tranh “Chăn trâu” không
xuất phát từ ý tưởng Phật giáo, mà mang một giá trị minh triết từ nền văn minh
Lạc Việt. Hình tượng chiếc lá sen che trên đầu chú bé giống hình tượng của cây
nêu: sự vươn lên dẫn tới hòa nhập hoàn toàn với thiên nhiên; tức là đạt tới bản
thể của Tạo hóa. Lời chú thích trong tranh minh họa cho ý tưởng này: “Thiên
thanh lộng suy địch“; tức là “Trời xanh trong tiếng sáo“. Phải chăng tính
minh triết Phật học có sự gần gũi với tính minh triết trong xã hội Lạc Việt cổ,
nên có thể có sự giải thích riêng cho cùng một hình tượng nghệ thuật?
Những bức tranh dân gian của trẻ em Lạc Việt mua về dán đầy
tường chơi trong những ngày Tết. Với màu sắc sặc sỡ vui mắt, hình ảnh và nội
dung trực tiếp của những bức tranh dân gian Việt Nam mang tính giáo dục những
giá trị nhân bản, đạo lý và khuyến khích vươn tới những mục đích của con người
trong xã hội đương thời: lễ trí, nhân nghĩa, phú quí, vinh hoa; hoặc tính vui sống
trong lao động và sự yên bình. Nhưng hàm nghĩa sâu xa của những bức tranh dân
gian Việt Nam lại mang đầy tính minh triết của văn hóa Đông phương về những ước
mơ thánh thiện của con người.Lễ Trí Tranh dân gian Đông HồTrong tranh “Lễ trí”, qua hình tượng con rùa -
phương tiện chuyển tải tri thức dưới thời Hùng Vương vào thời kỳ đầu lập quốc -
chính là biểu tượng của sách học. Phải chăng, ý tưởng “Tiên học lễ” bắt
đầu từ nền văn minh Lạc Việt?Nhân nghĩa Tranh dân gian Đông HồTrong tranh “Nhân nghĩa”, hình tượng con cóc chính
là biểu tượng của người thày của chú bé (“Thầy đồ Cóc”, vì chỉ có Cóc mới có chữ
Khoa đẩu - nòng nọc - để dạy cho đời). Phải chăng những ý niệm về “Tôn sư
trọng đạo”, “Tiên học lễ, hậu học văn” của Nho giáo, chính là những ý
tưởng đã có từ lâu trong thời Hùng Vương? Bởi vì hình tượng con Cóc và con Rùa
bắt đầu và thuộc về nền văn minh Văn Lang. Những dấu ấn của nền văn minh Văn
Lang còn đâu đó trong những trò chơi trẻ em lưu truyền trong dân gian, như: Ô
ăn quan, Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ… như là một sự giáo dục, đào tạo những thế hệ tiếp
nối nền văn minh đã một thời kỳ vĩ. Chính từ nền giáo dục nhân bản ấy, đã tạo
nên những thế hệ tiếp nối duy trì nền văn hiến Văn Lang với một bề dầy thời
gian gần 3000 năm trong lịch sử loài người.Ông Khiết và chòm sao Tiểu Hung Tinh Biểu tượng của nền văn minh Khoa Đẩu và tri kiến vũ trụ quan
kỳ vĩCHƯƠNG VII - 3
Đây là lúc Âu Lạc thay thế thời Hùng Vương thứ XVIII - chi tộc cuối cùng lãnh đạo
một nước Văn Lang tôn trọng những giá trị nhân bản. Sự thay thế trong hòa bình
này, đã tạo ra một sự tiếp nối văn hóa và để lại một tác phẩm văn học bất hủ
còn truyền lại đến tận bây giờ. Đó là chuyện tình “Mỵ Châu - Trọng Thủy”. Đây
là một tác phẩm văn học được hư cấu dựa trên bối cảnh lịch sử về cuộc chiến Nam
Việt - Âu Lạc.
Từ trước đến nay, chuyện tình Mỵ Châu - Trọng Thủy vẫn được
coi là truyền thuyết lịch sử đã thần thoại hóa. Vì vậy, câu chuyện này vẫn được
các sử gia quan tâm khai thác về những đề tài lịch sử liên quan đến thời kỳ An
Dương Vương - Nam Việt. Đó là nguyên nhân dẫn đến một số sai lầm lịch sử thời kỳ
này. Xin thí dụ như sau: trong Đại Việt sử lược (tức Việt sử lược, dịch giả
Nguyễn Gia Tường, hiệu đính Nguyễn Khắc Thuần - sách đã dẫn) trong phần chú
thích 37 được ghi như sau:
Triệu Văn Vương: con của Trọng Thủy lên ngôi năm Ất Tỵ (136
trước Công nguyên), ở ngôi 12 năm, hưởng thọ 52 tuổi.
Nhưng cũng trong cuốn sách này phần chú thích 26 lại ghi:
“Đại Việt sử ký toàn thư” cùng nhiều tư liệu khác chép rằng
Thục An Dương Vương lên ngôi năm Giáp Thìn và đến năm Quý Tỵ thì dứt (257-208
trước Công nguyên) ở ngôi 50 năm. Nhưng có nhiều chuyên gia sử học hiện đại cho
rằng Thục An Dương Vương chỉ trị vì từ năm 208 đến năm 179 trước Công nguyên.
Như vậy chỉ ở ngôi được 30 năm.
So sánh tuổi thọ của Triệu Văn Vương lên ngôi từ năm 136 trước
Công nguyên, ở ngôi 12 năm, thọ 52 tuổi tức là ngài sinh vào năm 176 trước Công
nguyên. Trong khi đó nếu cho rằng các chuyên gia sử học hiện đại đã đúng về
niên đại Âu Lạc mất nước, tức là vào năm 179, thì Mỵ Châu và Trọng Thủy không
thể sống để sinh Triệu Văn Vương (theo truyền thuyết thì đã chết khi kết thúc
trận chiến, tức là chết trước khi sanh Triệu Văn Vương 3 năm?). Chưa nói đến thời
điểm của sử cũ thì Mỵ Châu - Trọng Thủy chết trước khi sinh Triệu Văn Vương là
32 năm (?). Sai lầm này không phải chỉ ở phần chú thích trong sách nói trên, mà
còn được lặp lại ở một số sách khác. Đương nhiên không thể coi đây là sự nhầm lẫn
vì lỗi chính tả.
Hoặc cũng trong cuốn Đại Việt sử lược này, tác giả khuyết danh đã viết:
Lúc bấy giờ An Dương Vương có thần nhân là Cao Lỗ chế tạo
được cái nỏ liễu bắn một phát ra mười mũi tên, dạy quân lính muôn người.
Võ Hoàng biết vậy bèn sai con là Thủy xin sang làm con tin để thông hiếu.
Sau nhà vua đãi Cao Lỗ hơi bạc bẽo.
Cao Lỗ bỏ đi, con gái là Mỵ Châu lại cùng với Thủy tư thông. Thủy phỉnh Mỵ
Châu mong được xem cái nỏ thần, nhân phá hư cái lẫy nỏ rồi sai người trình báo
với Võ Hoàng. Võ Hoàng lại cất binh sang đánh. Quân kéo đến, vua An Dương Vương
lại như xưa là dùng nỏ thần
thì nó đã hư gãy, quân lính đều tan rã. Võ Hoàng nhân đó mà đánh phá, nhà vua
ngậm cái sừng tê đi xuống nước. Mặt nước cũng vì ngài mà rẽ ra.
Đất nước vì thế mà thuộc nhà Triệu.
Điều này đã chứng tỏ rằng tác giả Đại Việt sử lược (Việt
sử lược) cũng đã coi chuyện tình “Mỵ Châu - Trọng Thủy” như là một
truyền thuyết lịch sử, thể hiện ở yếu tố nỏ thần. Nhưng rất tiếc câu chuyện này
đã bị tác giả Việt sử lược cắt xén thô bạo, có tính hạ thấp giá trị của
Mỵ Châu, nên cố tình bỏ đi đoạn đầu và đoạn cuối của truyền thuyết: đó là việc
cầu hôn của Triệu Đà cho Trọng Thủy lấy Mỵ Châu và hình ảnh Trọng Thủy ôm xác Mỵ
Châu tự tử.
May mắn thay, tri kiến của tác giả Việt sử lược không qua được sự hiểu
biết bậc thầy của tác gia Lạc Việt khi kiến tạo câu chuyện. Cho nên sự cắt xén
thô bạo và xuyên tạc sự thật đã tạo nên một sự gán ghép khiên cưỡng, trong việc
đưa hình ảnh nỏ thần bên cạnh sự ngây thơ của công chúa Mỵ Châu (bởi vì làm gì
có nỏ thần trên thực tế). Nếu bạn đọc chú ý một chút thì ở trên: Thần nhân
Cao Lỗ chế tạo được cái nỏ liễu bắn một phát ra mười mũi tên; ở dưới thì đã biến
thành cái “nỏ thần”.
Nhưng từ một cách nhìn với thời gian hình thành tính bằng thiên niên kỷ, cho rằng:
Chuyện tình “Mỵ Châu - Trọng Thủy” là một truyền thuyết lịch sử, đã tạo ra những
mâu thuẫn không thể lý giải. Đây cũng là nguyên nhân gây ra sự tam sao thất bản
cho một tác phẩm văn học nổi tiếng, do những mâu thuẫn giữa tính hư cấu trong
văn học và thực tế lịch sử. Do đó, trước khi phân tích chuyện tình “Mỵ Châu -
Trọng Thủy” với tư cách là tác phẩm văn học, việc đầu tiên là phải minh chứng
truyền thuyết “Mỵ Châu - Trọng Thủy” không phải là truyền thuyết lịch sử.
Tính hư cấu đầu tiên tất cả mọi người đều nhận thấy là chiếc nỏ thần không thể
có thật. Hay nói một cách khác, hình tượng trọng tâm trong cấu trúc của câu
chuyện là “nỏ thần” vốn không có thật. Do đó, cũng không thể có móng rùa thần để
Trọng Thủy lấy cắp. Nhưng vì coi là một truyền thuyết lịch sử, cho nên đã có sử
gia cho rằng: việc Trọng Thủy ăn cắp nỏ thần là một hình tượng của việc ăn cắp
bí mật quốc phòng của Âu Lạc; qua cấu tạo của cái nỏ bắn được một lúc nhiều
phát tên, nên Nam Việt đã biết cách hạn chế tác dụng của nó. Đây chỉ là một
cách suy diễn khiên cưỡng cho một tình tiết trong nội dung so với kết cấu toàn
bộ câu chuyện. Vì để làm được việc này không cần phải có thái tử đi làm con
tin, mà chỉ cần một toán quân phục kích cảm tử cũng đủ thực hiện. Do đó, cũng
không thể có việc Mỵ Nương rắc lông ngỗng rải đường cho Trọng Thủy trên thực tế.
Công chúa Mỵ Châu - người phụ nữ có địa vị tôn quý nhất của Âu Lạc - đâu có thể
ngớ ngẩn đến mức độ: quân Nam Việt do chính Trọng Thủy cầm đầu đang tấn công
tàn phá Âu lạc (theo cách hiểu từ trước đến nay), thì lại rắc lông ngỗng chỉ đường
cho quân giặc đuổi theo tàn quân của cha mình. Hoặc Trọng Thủy - vị thái tử si
tình đi tìm người yêu - được gán cho là người cầm đầu đạo quân Nam Việt tấn
công Âu Lạc, lại tin vào sự chỉ đường của công chúa một quốc gia đối địch để
hành quân truy kích (xin lưu ý độc giả là thời điểm lịch sử của cuộc chiến Nam
Việt - Âu Lạc xảy ra sau khi binh pháp Tôn Tử ra đời hơn 400 năm, và kinh nghiệm
chiến trường đẫm máu kéo dài hơn 600 năm của thời Xuân Thu Chiến quốc trước
đó).
Sự mâu thuẫn nói trên, chỉ mới so sánh về khả năng thực tế với nội dung câu
chuyện. Nhưng cũng chính vì sự sai lầm từ căn bản cho rằng “Mỵ Châu - Trọng Thủy”
là một truyền thuyết lịch sử, làm cho những nội dung văn học tạo nên diễn biến
câu chuyện bị thất thoát. Điều này đã khiến cho tính cách Trọng Thủy trong câu
chuyện, đoạn đầu và đoạn cuối không thống nhất. Ở đoạn đầu, Trọng Thủy như một
kẻ lừa tình bỉ ổi. Nhưng ở đoạn cuối thì vị thái tử đầy quyền uy, võ công hiển
hách, người kế vị ngai vàng thống trị hai vương quốc, lại nhảy xuống giếng tự tử
chết theo người yêu - một hành động của người giàu tình cảm và chung thủy. Do
đó, dựa vào một tác phẩm văn học đầy tính hư cấu - ngay từ hình tượng trọng tâm
của tác phẩm - để tìm hiểu về tính cách lịch sử của những nhân vật không thật,
quả là gặp nhiều khó khăn. Điều này cũng tương tự như việc phân tích tâm lý của
vợ chồng thần Dớt trong thần thoại Hy Lạp, gây ảnh hưởng đến cuộc chiến của
thành Troa.
Tính hư cấu - một đặc trưng của tác phẩm văn học - rất rõ nét và cũng là tình
tiết phủ nhận việc coi “Mỵ Châu - Trọng Thủy” là một truyền thuyết lịch sử, được
chứng tỏ ở đoạn cuối của câu chuyện. Đó là: với lời nguyền của Mỵ Châu, nên sau
khi chết nàng đã hóa thân vào ngọc trai ở biển Nam Hải. Vì vậy, sau này khi lấy
nước giếng thành Cổ Loa, rửa ngọc trai Nam Hải thì viên ngọc lại sáng lên rực rỡ.
Linh hồn nàng công chúa Âu Lạc - quốc gia kế tiếp triều đại Hùng Vương - đã
minh chứng cho chính câu chuyện tình bi tráng là một tác phẩm văn học của nền
văn học truyền thống, kế tục nền văn hiến nhân bản của Văn Lang.
Giả thuyết về sự thật lịch sử của cuộc chiến Nam Việt - Âu Lạc
Việc Triệu Đà cho Trọng Thủy làm con tin rất có khả năng thực
tế. Đây là hiện tượng thường xuyên xảy ra ở những quốc gia đối kháng ở phần lục
địa của Trung Quốc và Việt Nam vào thời kỳ này. Theo truyền thuyết Trung Hoa,
chính Tần Thủy Hoàng cũng là một kết quả của mối tình con tin nổi tiếng. Hoặc
sau đó, chính Triệu Văn Vương - người kế vị Triệu Vũ Vương (Triệu Đà) - cũng phải
cho con mình đi làm con tin ở nhà Hán.
Như vậy, sự thực lịch sử của cuộc chiến này có thể giải thích theo một giả thuyết
như sau:
Nam Việt bị sức ép từ hai phía là nhà Hán ở phương Bắc và Âu Lạc ở phương Nam.
Khi mới lập quốc thế nước còn yếu, buộc Triệu Vũ Vương phải hòa hoãn với Âu Lạc
để củng cố quốc gia. Ngài chứng tỏ thiện chí của mình bằng cách đưa thái tử làm
con tin. An Dương Vương - người kế tục Hùng Vương - về nguyên tắc không thể
công nhận vương quốc của Triệu Đà xây dựng trên vùng đất cũ của Văn Lang. Nhưng
ngài cũng chưa đủ sức để phục hồi lãnh thổ, nên đã chấp nhận hòa hoãn. Đây cũng
là lý do khiến một số triều thần của ngài phản đối cuộc hòa hoãn này và bỏ đi;
như trường hợp của tướng quân Cao Lỗ. Khi Triệu Vũ Vương (Triệu Đà) củng cố quốc
gia vững mạnh, đã cất quân đánh úp Âu lạc. An Dương Vương vì thiếu cảnh giác nên
bị mất nước. Trọng Thủy đã bị chết trong cuộc chiến, do đang làm con tin ở Âu Lạc.
Việc ngọc trai sáng lên khi được rửa trong nước giếng Cổ Loa, chỉ là một yếu tố
thực đã được phát hiện từ lâu trong một xứ sở giàu ngọc trai như Văn Lang. Đây
là một thực tế được đưa vào để tăng yếu tố lãng mạn của câu chuyện, ca ngợi
tình yêu, phủ nhận chiến tranh.
CHƯƠNG VII - 4
Chuyện tình Mỵ Châu - Trọng Thủy là một bức tranh hoành tráng ca ngợi tình yêu
con người, phủ nhận chiến tranh. Nếu bạn đọc tìm thấy ý tưởng nhân bản này ở
Romeo - Juliette, thì bạn cũng nhận thấy ngay giá trị nhân bản sâu sắc này ở
chuyện tình “Mỵ Châu - Trọng Thủy”.
Câu chuyện miêu tả một mối tình thủy chung son sắt
của công chúa Mỵ Châu và thái tử Trọng Thủy. Một tình yêu được hình thành trong
nền hòa bình của hai quốc gia láng giềng.
Trọng Thủy là người ủng hộ sự liên minh giữa hai quốc gia, đã
trở về nước để tham gia cuộc chiến chống lại sự xâm lược nhà Hán theo lời cha
chàng. Mỵ Châu đã đưa nỏ thần cho Trọng Thủy để giúp quân đội Nam Việt chống
xâm lược. Nhưng Trọng Thủy đã bị chính cha chàng lừa dối. Khi lấy được nỏ thần,
Triệu Đà đem quân tấn công Âu Lạc. Trọng Thủy đuổi theo quân viễn chinh để cứu
người yêu. Nhưng khi chàng đến nơi thì tất cả đã tan hoang.
(Đoạn văn trên do người viết phục chế lại, xin được các bậc
trí giả bổ khuyết).
Trọng Thủy đem quân bản bộ đi tìm Mỵ Châu theo đường lông ngỗng
trắng ước hẹn. Đến nơi thì người yêu đã chết. Thất vọng và đau khổ vì đã góp phần
gây nên cái chết của nàng và sự tàn phá đối với quốc gia mà chàng yêu mến. Trọng
Thủy đã ôm xác Mỵ Châu tự tử trong giếng nước Cổ Loa đầy kỷ niệm của mối tình.
Cái chết của thái tử Trọng Thủy vì tình yêu, để lại đằng sau chàng một ngai
vàng - biểu tượng của quyền lực tối cao và phú quý tột đỉnh - đã khẳng định:
tình yêu con người vượt lên mọi sự phù hoa và phủ nhận chiến tranh, nguyên nhân
của sự đau khổ mà loài người tự gây ra cho mình.
Nếu như chuyện tình Romeo - Juliette của đại văn hào Shakespeare cùng với đề
tài này, chỉ giới hạn hận thù của hai dòng tộc. Bằng những thủ pháp nghệ thuật,
Shakespeare đã chứng minh công lý và luật pháp có thể ngăn chặn, nhưng không thể
xóa bỏ được hận thù (hình ảnh của quân triều đình can thiệp vào những cuộc trả
thù của hai dòng tộc) và chỉ có tình yêu đích thực của con người mới là nguyên
nhân của một cuộc sống thanh bình, được minh chứng sau cái chết kết thúc thiên
bi diễm tình của Romeo - Juliette. Nhưng ở chuyện tình “Mỵ Châu - Trọng Thủy”
có nội dung sâu sắc hơn nhiều. Ở đây, cuộc chiến giữa Nam Việt và Âu Lạc đã vượt
ra ngoài phạm vi công lý của một quốc gia. Ngoài quyền năng của thượng đế thì
chính tình yêu con người - qua thiên bi diễm tình “Mỵ Châu - Trọng Thủy“ -
đã chứng minh chỉ có tình yêu là vĩnh cửu.
Khi cả Nam Việt - Triệu Đà lẫn Âu Lạc đều thuộc về tay nhà Hán... Hàng ngàn năm
đã trôi qua, thành Cổ Loa - bãi chiến trường xưa - nay chỉ còn là những doi đất
ngổn ngang. Thời hoàng kim của Nam Việt với những võ công và những âm mưu đen tối,
đã chìm vào quá khứ. Nước Nam Việt chỉ còn là một hiện tượng trong lịch sử của
cả Việt Nam và Trung Quốc. Nhưng viên ngọc miền Nam Hải hóa thân của Mỵ Châu vẫn
rực sáng khi gặp nước giếng Cổ Loa pha hồn Trọng Thủy. Hình tượng viên ngọc
trai rực sáng như muốn minh chứng cho tình yêu bất diệt của con người, phủ nhận
những cuộc chiến tranh vô nghĩa.
Cùng với đề tài về tình yêu và chiến tranh đạt đến đỉnh cao văn học nghệ thuật,
còn có Iliad & Odissey của Homer. Nhưng tiếc thay, đây lại là một thiên anh
hùng ca bi tráng của con người. Tình yêu trong Iliad & Odissey lại chính là
nguyên nhân bi thảm của cuộc chiến, khi nữ thần tình yêu Aphorodite cho nàng
Helen xinh đẹp làm vợ hoàng tử si tình Panis của thành Troa.
Có thể khẳng định rằng: ngay cả vào thời kỳ suy tàn của nền văn minh Văn Lang;
nền văn minh này cũng còn để lại một tác phẩm văn học với đề tài tình yêu và
chiến tranh, rất giàu chất nhân bản hay nhất trong thể loại chuyện này của nền
văn minh nhân loại; kể từ thời cổ đại cho đến tận bây giờ.
Giả thuyết về thời điểm xuất xứ của chuyện tình “Mỵ Châu - Trọng
Thủy“
Với nội dung câu chuyện đã phục chế và trình bày với bạn đọc
như trên, thì chuyện tình “Mỵ Châu - Trọng Thủy” không thể hình thành
trong thời đại của Nam Việt. Như vậy, chỉ có khả năng thời điểm xuất hiện câu
chuyện này vào đầu thời Bắc thuộc đến cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Đây là
một thời kỳ chưa có chủ trương hủy diệt văn hóa và sự đồng hóa khốc liệt. Có thể
chuyện tình “Mỵ Châu - Trọng Thủy” xuất hiện vào thời kỳ chuẩn bị khởi
nghĩa của Hai Bà, hoặc khi Hai Bà lên trị vì vương quốc Văn Lang cũ. Theo sử cũ
thì cuộc khởi nghĩa của Hai Bà được sự ủng hộ của nhân dân ở các vùng Nam Việt
cũ. Cho nên nội dung câu chuyện có tác dụng đoàn kết các lực lượng ủng hộ Hai
Bà thuộc những miền đất này, vốn gốc xưa là của Văn Lang. Mỵ Châu rải lông ngỗng
trắng - hay xuất xứ nguyên thủy của câu chuyện là rải lông chim Lạc (Hạc)? Một
hình tượng kêu gọi người Lạc Việt tìm về nguồn cội, giành lại đất nước của tổ
tiên, vốn đầy tình yêu thương của con người.
Nhưng cũng chính vì vậy mà các triều đại phong kiến Bắc thuộc không thể chấp nhận
mối tình “Mỵ Châu - Trọng Thủy” và góp phần làm sai lệch nội dung tác
phẩm văn học này (có thể ngoại trừ nhà Nam Tống khi sắp mất nước với Mông Cổ).
Những tác phẩm văn học thuộc nền văn minh Văn Lang, dù dưới mọi
hình thức với nội dung khác nhau: truyền thuyết lịch sử, truyền thuyết văn học
hoặc thần thoại cổ tích, đều có nét tương đồng ở tính nhân bản và đề cao sự hòa
nhập tình yêu con người. Đây là một nét đặc thù, khó có thể tìm thấy ở nội dung
những câu chuyện dị bản khác. Giá trị nhân bản được thể hiện trong những tác phẩm
văn học của các tác giả Lạc Việt là một trong những yếu tố chứng tỏ rằng:
Để có được những tác phẩm trác tuyệt đó, thì nền tảng xã hội của nó phải có một
nền văn hiến đạt tới đỉnh cao của giá trị nhân bản và một tổ chức xã hội với một
nền văn minh tương xứng, tạo ra sự ổn định cho cuộc sống và con người.
Những giá trị nhân bản đầy tình yêu thương con người của thời Văn Lang không tạo
cho đất nước này những võ công hiển hách của Alexander đại đế hoặc vinh quang của
Thành Cát Tư Hãn. Nền văn minh Lạc Việt cũng không hề để lại những kỳ quan đồ sộ
đầy máu, mồ hôi và nước mắt như Kim Tự Tháp, Vạn Lý Trường Thành... Nhưng chính
những giá trị nhân bản và tình yêu con người trong nền văn hiến Văn Lang là
nguyên nhân cho sự tồn tại gần 3000 năm của đất nước này. Lòng nhân ái và tình
yêu con người, tuy không phải là nguyên nhân thắng lợi của một cuộc chiến,
nhưng là mơ ước của con người. Những võ công hiển hách của cha ông - quốc gia
duy nhất chiến thắng quân Mông Cổ - ngoài sự lãnh đạo sáng suốt đã góp phần làm
nên chiến thắng đó, phải chăng chính là sự hy sinh vì tình yêu cuộc sống, vốn
là một truyền thống có tự ngàn xưa?
Hàng ngàn năm sau, nước Việt hưng quốc, truyền thống nhân nghĩa đó đã được tiếp
nối trong lời mở đầu của “Bình Ngô đại cáo” - bản tuyên ngôn độc lập thuộc vào
hàng thiên cổ hùng văn của dân Lạc Việt.
Từng nghe,
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt vì nhân trừ bạo.
Cho đến tận ngày nay, hùng khí của người Lạc Việt hòa chất
lãng mạn, chan chứa tình yêu con người với những truyền thống nhân bản được tiếp
nối từ thời Hùng Vương, vẫn còn thể hiện trong thi ca Việt Nam với những vần
thơ trác tuyệt:
Ai Bắc quân thù kinh vó ngựa.
Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi.
Chàng ơi! Điện ngọc bơ vơ quá.
Trăng chếch, ngôi trời bóng lẻ soi.
Trích bài thơ “Trưng Nữ Vương”
Nữ sĩ Ngân Giang
Linh hồn của đoạn thơ trác tuyệt của nữ sĩ Ngân Giang, như
hòa nhập với sự diễm lệ bi tráng và đầy nhân bản của truyện tình Mỵ Châu Trọng
Thủy và những câu truyện từ thời lập quốc. Có rất nhiều liệt nữ anh hùng trong
lịch sử nhân loại. Nhưng chỉ có Hai Bà mới có nét đặc trưng, được miêu tả tài
tình, đầy hình tượng trong ngôn từ, cô đọng tất cả sự bi phẫn và hùng khí Lạc
Việt chỉ trong một câu thơ: “Giáp vàng, khăn trở lạnh đầu voi”. Với 4
câu thơ trong khổ thơ cuối của bài thơ bất hủ, nữ sĩ đã miêu tả một cách thiên
tài bằng hình tượng gián tiếp, thể hiện sự bi tráng và tình yêu con người của vị
nữ Vương đầu tiên của người Lạc Việt. Như tất cả câu truyện có từ thời Hùng
Vương, mà chất nhân bản và tình người đã tạo nên sự linh diệu đến mức huyền vi
của nội dung. Trong thơ của nữ sĩ Ngân Giang, sự sáng tạo nghệ thuật đạt đến sự
vi diệu sâu lắng của tâm linh, cũng từ chất nhân bản và tình yêu con người.
Trong bi phẫn với nỗi đau nhân thế vì sự tham bạo của kẻ đô hộ, Hai Bà đã lập
bao võ công hiển hách và đạt tới tột đỉnh vinh quang. Ở nơi lầu son, gác tía đầy
phú quí vinh hoa; nhưng ở đấy tình người và những giá trị nhân bản vẫn vượt lên
trên tất cả. Hai câu thơ cuối đầy chất lãng mạn với hình tượng nghệ thuật tương
phản đạt đến tuyệt kỹ - giữa trạng thái nội tâm cô đơn tận cùng và sự phù hoa
cao nhất. Chính từ sự tương phản này đã khẳng định những giá trị của tình yêu
con người vượt lên trên tất cả. Hồn thơ mang tình người như vút lên không gian
vô tận, tràn ngập trong nỗi cô đơn tận cùng, bỏ lại đằng sau đỉnh cao những mơ
ước phù vân của thế nhân. Cả bài thơ, cả hồn thơ, cả cõi tâm linh con người như
đã hòa vào vũ trụ, đi tìm trong hư vô, trong thời gian vô tận với sự khao khát
một tình yêu con người.
Chàng ơi! Điện ngọc bơ vơ quá.
Trăng chếch, ngôi trời bóng lẻ soi.
Câu thơ cuối như chỉ còn đọng lại trong thế nhân một nỗi buồn
sâu lắng, khi hồn người cô đơn trong ảo ảnh vàng son. Cả một không gian bơ vơ với
ánh trăng buồn chếch, soi bóng một hình tượng của sự tột đỉnh vinh quang, nhưng
đang khao khát một tình yêu con người đã khẳng định chỉ có tình yêu con người
vượt lên trên tất cả.
Trải qua bao nỗi đau thương, thăng trầm theo dòng lịch sử của giống nòi Lạc Việt.
Những áng văn chương tiếp nối nền văn hiến Văn Lang không chỉ còn chất lãng mạn
trữ tình, mà còn pha chất bi tráng - dấu ấn của những cuộc chiến giữ nước đầy
gian khổ. Nhưng từ trong sâu thẳm của tâm linh, người Lạc Việt vẫn khẳng định
chất nhân bản và tình yêu con người, chống lại những cuộc chiến tranh phi
nghĩa. Một trong những bài thơ hay nhất có nội dung bi tráng, ca ngợi tình yêu
con người, phủ nhận chiến tranh trong văn học Việt Nam hiện đại, phải kể đến
bài “Màu tím hoa sim” của nhà thơ Hữu Loan.
Thời đại Hùng Vương - một thời đại đã được minh chứng về tầm
vóc đồ sộ của một nền văn hiến - trong đó có những tác phẩm văn xuôi còn lại đã
được trình bày ở trên. Một giá trị tự nhiên của tư duy và rung cảm nghệ thuật
khác, đó là: âm nhạc, thi ca và hội họa của thời đại này phải được chứng tỏ. Những
thanh âm trác tuyệt của tiếng sáo Trương Chi, tiếng đàn Thạch Sanh đã hòa vào hồn
sông núi. Nhưng những vần thơ, phải chăng còn lại đâu đó trong ca dao dân gian
Việt Nam. Và còn ở những truyện Nôm khuyết danh còn lưu truyền cách đây vài thập
kỷ, khi thể thơ lục bát là thể thơ duy nhất có ở Việt Nam (*); hoặc còn ẩn mình
dưới cái tên khác trong những cổ thư tìm thấy ở những vùng đất thuộc Văn Lang
cũ. Về vấn đề nghệ thuật thời Hùng Vương còn khoảng trống lớn là âm nhạc, hội họa,
kiến trúc, điêu khắc... Nhưng do khả năng có hạn và điều kiện thời gian hiện
nay chưa thể tìm hiểu sâu hơn, nên xin đặt vấn đề để các bậc trí giả quan tâm
xem xét.
CHƯƠNG 8
Mở đầu cho truyền thuyết “Sơn Tinh Thủy Tinh” là một câu chuyện quen
thuộc, đặt ra một mệnh đề lịch sử tiếp theo đó: ”Vào thời Hùng Vương thứ
XVIII...”. Đó chính là dấu ấn khẳng định giá trị lịch sử của câu chuyện,
phủ nhận cái nhìn hình thức quen thuộc. Hoàn toàn vô lý khi hiện tượng lũ lụt
thường niên, kéo dài hơn 2000 năm chỉ bắt đầu vào thời Hùng Vương thứ XVIII,
trước đó lại không có? Từ đó có thể khẳng định rằng: Hiện tượng lũ lụt đã có từ
lâu ở vùng châu thổ sông Hồng Hà, đã được sử dụng làm bằng cớ cho câu chuyện được
lưu truyền với thời gian.
Theo kết cấu của câu chuyện thì nguyên nhân để dẫn đến diễn
biến toàn bộ nội dung sau đó là: Vua Hùng Vương chỉ có một người con gái duy nhất
cực kỳ xinh đẹp, đã đến tuổi lấy chồng là Mỵ Nương. Chi tiết này chứng tỏ ai là
rể vua Hùng thì đồng thời sẽ là người kế vị vua Hùng. (Thực tế theo những tư liệu
sưu tầm được thì vị vua cuối cùng của thời Hùng Vương thứ XVIII có 20 quan lang
và 6 Mỵ Nương - Truyền thuyết Hùng Vương - Thần thoại Vĩnh Phú, sách đã dẫn).
Có hai chàng trai đến cầu hôn là Sơn Tinh và Thủy Tinh, hoàn toàn đối lập nhau
về tính cách và khả năng: Thủy Tinh có tài dâng nước, làm mưa làm gió gây bão tố;
Sơn Tinh thì ngược lại. Hình ảnh hai vị thần đối lập nhau là hình tượng của Âm
Dương, thể hiện trong những vấn đề xã hội (tức Âm Dương xung khắc).
Thuyết Âm Dương ứng dụng trong việc điều hòa mâu thuẫn xã hội
- tất nhiên thuộc về nền văn minh của thời Hùng Vương - lần đầu tiên được nhắc
tới trong bộ sử tương đối xác tín của Trung Quốc là Sử Ký của Tư Mã Thiên
- Trần Thừa tướng thế gia, có nội dung như sau:
... Hiếu Văn Hoàng đế sau khi đã quen việc nước, triều hội hỏi
hữu thừa tướng Lưu Bột:
- Trong thiên hạ, một năm xét xử ngục hình bao nhiêu người?
Bột tạ lỗi nói:
- Thần không biết.
Nhà vua hỏi:
- Trong thiên hạ một năm tiền và thóc xuất nhập bao nhiêu?
Bột lại tạ lỗi nói:
- Thần không biết!
Bột mồ hôi ướt đẫm cả lưng vì thẹn không biết trả lời như thế nào. Vua bèn hỏi
tả thừa tướng Trần Bình.
Bình nói:
- Đã có người lo việc ấy.
Vua hỏi:
- Ai lo việc ấy?
Bình nói:
- Bệ hạ nếu hỏi về việc xử ngục hình thì hỏi quan đình úy, nếu hỏi về tiền và
thóc thì hỏi quan trị túc nội sử.
Vua hỏi:
- Nếu việc gì cũng có người lo thì ngươi còn phải lo việc gì?
Bình tạ lỗi và nói:
- Muôn tâu bệ hạ! Bệ hạ không kể thần tài hèn sức mọn, cho thần tạm giữ chức thừa
tướng. Chức vụ thừa tướng trên thì giúp thiên tử chỉnh lý Âm Dương làm cho
bốn mùa thuận, dưới thì vạn vật thỏa thích; bên ngoài thì trấn áp, vỗ về tứ di,
chư hầu, bên trong thân với trăm họ, làm cho các quan khanh và đại phu ai cũng
đảm nhiệm tốt chức vụ của mình.
Hiếu Văn Đế khen phải...
Trong lịch sử Việt Nam, ý niệm về sự cân bằng Âm Dương ứng dụng
trong những vấn đề xã hội lần đầu tiên được ghi nhận trong Đại Việt sử ký
toàn thư (Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội 1985, dịch giả Hoàng Văn Lâu, hiệu
đính Gs. Hà Văn Tấn).
Tháng 6, hạn hán.
Bấy giờ Trần Khắc Chung làm hành khiển. Quan ngự sử dâng sớ
nói: “Chức vụ của tể tướng, trước hết phải biết điều hòa Âm Dương. Nay
Khắc Chung ở ngôi tể tướng, không biết phối hợp đất trời (33a) cho khí tiết điều
hòa, để đến nỗi mưa nắng trái thời, thế là quan không được công trạng gì”. Khắc
Chung nói: “Tôi tạm giữ chức quan tể tướng, chỉ biết cố sức làm việc gì mà chức
vụ phải làm, còn như hạn hán thì hỏi ở Long Vương. Khắc Chung đâu phải Long
Vương mà đổ tội được?”. Sau nước sông to lên, vua đích thân đi xem đắp đê. Quan
ngự sử tâu: “Bệ hạ chăm sửa đức chính, xem làm gì việc đắp đê nhỏ nhặt?” Khắc
Chung nói: “Khi dân bị nạn lụt, người làm vua phải cứu giúp tai họa khẩn cấp
đó, sửa đức chính không có gì lớn hơn việc đó, cần gì phải ngôi thinh, tư lự hồi
lâu bảo là sửa đức chính?”.
Thuyết cân bằng Âm Dương và sự vận động của Ngũ hành ứng dụng
trong sự vận động xã hội - sau Sử ky của Tư Mã Thiên - còn thấy rải rác trong
nhiều bộ chính sử, truyền thuyết lịch sử hay những tác phẩm văn học với đề tài
lịch sử khác của cả Việt Nam lẫn Trung Quốc. Nhưng nói chung đều mang tính huyền
bí. Bởi vì, như phần trên đã trình bày: thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về một nền
văn minh đã bị tàn phá, hậu thế phát hiện, khôi phục. Do đó nguyên lý lý thuyết
(Lý) không hoàn chỉnh và sự phát hiện mang tính chắp vá, gần như thuần túy chỉ
có phương pháp ứng dụng. Đó là nguyên nhân dẫn đến sự huyền hoặc hóa học thuyết
này.
Bạn đọc có thể tham khảo những nội dung sau đây trong Tam Quốc
chí, để thấy được sự biến dạng huyễn hoặc của học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, do
cách hiểu sai lầm của đời sau. Đoạn nói về Viên Thuật tự lập làm vua có nội
dung sau:
Viên Thuật nói: “Nhà Hán thuộc Hỏa, Hỏa sinh Thổ. Tên
tự của ta là Công Lộ (tức đất trên đường - Lộ bàng Thổ - theo thuyết Âm Dương
Ngũ hành ứng dụng trọng một chu kỳ 60 năm của Âm lịch, người viết). Đó là
điềm trời ứng vào ta thay thế nhà Hán”.
Hoặc khi Tào Tháo bàn với các mưu sĩ dời kinh đô về Hứa Đô có
nội dung như sau:
Nhà Hán thuộc Hỏa, Hứa Đô thuộc Thổ, Hỏa sinh Thổ, dời đô về
đó khí số nhà Hán sẽ kiệt và Tào Tháo sẽ thay thế... (Những nội dung trên
được thể hiện trong bộ Tam Quốc diễn nghĩa - tác giả La Quán Trung, dịch giả
Phan Kế Bính, hiệu đính Bùi Kỷ, Nxb Phổ Thông Hà Nội đã phát hành vào khoảng
năm 1960 - 1962).
Trong thực tế chẳng có nhà nào thay thế nhà Hán cả. Các trò
bói toán vu thuật huyền bí được nói đến trong Tam Quốc, kể cả Quản Lộ chỉ để
cho vui, chỉ có Tư Mã Đức Tháo là đáng chú ý. Thực tế nhà Tấn mới là kẻ thống
nhất thiên hạ.
Nhưng thuyết Âm Dương Ngũ hành nếu chưa được chính thức coi
là một học thuyết khoa học, thì ít nhất cũng là sự tổng hợp một quá trình nhận
thức của người Lạc Việt trải gần 3000 năm. Học thuyết này đã có sự ứng dụng rộng
rãi trong mọi nhu cầu cuộc sống con người vào thời đại xuất hiện của nó, không
thể là một học thuyết huyễn hoặc không thể lý giải. Vậy thực chất thuyết Âm
Dương ứng dụng trong vấn đề xã hội là gì?
Ý nghĩa đầu tiên của Âm Dương là sự phân biệt. Thuyết Âm
Dương ứng dụng vào tổng thể xã hội là quan hệ giữa hình thái ý thức xã hội và
những mối quan hệ xã hội, được hình thành trên sự phát triển đời sống, kinh tế,
khoa học kỹ thuật vì nhu cầu của con người. Hình thái ý thức xã hội thuộc
Dương. quan hệ xã hội thuộc Âm. Sự hình thành những mối quan hệ xã hội trên cơ
sở phát triển đời sống kinh tế xã hội, luôn tạo ra nhu cầu về hình thái ý thức
cho nó (cân bằng Âm Dương). Một thí dụ hiện đại cho ý niệm này là: theo báo
Thanh Niên phát hành khoảng tháng 5-6/1998 đưa tin có nội dung như sau:
Một cặp vợ chồng Hoa Kỳ không có điều kiện sinh con. Mua một
cái trứng đã thụ tinh ở một cơ sở khoa học (sự phát triển đời sống, kinh tế xã
hội). Thuê một người đàn bà chửa và đẻ giùm cho họ một đứa con (quan hệ xã hội mới
nảy sinh). Chưa đến thời gian sinh nở, cặp vợ chồng nói trên ly hôn (xin lưu ý
cái trứng đã thụ tinh thuộc về cặp nam nữ khác, không phải là của hai vợ chổng
này). Vấn đề đặt ra: Ai là cha mẹ của đứa bé sắp ra đời? (nhu cầu về một hình
thái ý thức cần có trong quan hệ xã hội mới nảy sinh).
Như vậy, trong trường hợp này phải có những hình thái ý thức
xã hội tương ứng. Thí dụ: hoặc những đạo luật, hoặc là một giá trị đạo đức hay
là một quy định, quy chế nào đó, để giải quyết những mâu thuẫn xã hội nhằm cân
đối những quan hệ xã hội mới nảy sinh. Điều này giải thích vì sao cân bằng Âm
Dương thuộc quyền năng của tể tướng ở các thời đại trước. Đồng thời cũng chứng
minh quan niệm cho rằng: Âm động - Dương tĩnh đã trình bày ở phần trên, kể cả
việc ứng dụng vào các vấn đề xã hội (So với quan niệm Dương động, Âm tĩnh như
các nhà lý học cổ kim quan niệm). Khi những mối quan hệ xã hội (Âm) luôn chuyển
dịch và phát triển là tiền đề cho sự hình thành những hình thái ý thức xã hội
cho nó (Dương).
Qua những phần trình bầy ở các chương trên, bạn đọc cũng nhận
thấy sự ứng dụng thuyết Âm Dương Ngũ hành vào việc điều hành xã hội, như một hệ
tư tưởng chính thống. Dấu ấn của sự ứng dụng này - theo cổ thư chữ Hán - được
ghi nhận trong Hồng phạm cửu trù từ thời nhà Hạ (Đại Vũ), trải đến thời Chu (Cơ tử và Chu Vũ Vương), cho đến Tần Hán và mãi sau này như một sự tiếp nối
liên tục. Nhưng qua dấu ấn ghi nhận trong Đại Việt sử ký và Sử ký - Tư Mã Thiên
cho thấy: đều chỉ là những tri kiến hết sức mơ hồ và huyễn hoặc. Trong khi đó,
sự ứng dụng của học thuyết này trong các nhu cầu khác của cuộc sống như: thiên
văn, y lý, lịch số, dự đoán tương lai… lại chứng tỏ sự sâu sắc, vi diệu. Tính
mâu thuẫn này chứng tỏ rằng: những dấu ấn của sự ứng dụng thuyết Âm Dương Ngũ
hành trong việc điều hành xã hội, được ghi nhận trong cổ thư chữ Hán, chỉ là dư
ảnh còn lại của một thực tế ứng dụng từ thời xa xưa của một nền văn minh khác
đã thất truyền. Người viết đã minh chứng: Đó là nền văn minh Văn Lang, qua những
di sản văn hóa còn lại.
Thời Hùng Vương với một nền văn hóa nhân bản đề cao Đức trị -
thể hiện ở Hồng phạm cửu trù - trải gần 3000 năm. Mặc dù trong Hồng phạm cửu
trù chứng tỏ thời Hùng Vương đã có luật pháp, nhưng chắc chắn rất khoan dung.
Trước những mâu thuẫn xã hội thể hiện ở sự xung khắc Âm Dương (Sơn Tinh - Thủy
Tinh), buộc vua Hùng phải lựa chọn biện pháp cho sự ổn định: hoặc là cứng rắn
và thực tế hơn (hình tượng Thủy Tinh, thuộc Âm). Nếu biện pháp cứng rắn được thực
hiện, sẽ đe dọa những giá trị nhân bản của nền văn hiến mà họ Hồng Bàng đã dầy
công tạo lập và kiên trì theo đuổi gần 3000 năm trong khuôn khổ của Hồng phạm cửu
trù. Hoặc là tìm cách giữ gìn những giá trị của một nền văn hiến siêu việt của
người Lạc Việt cho con cháu mai sau (hình tượng Sơn Tinh, thuộc Dương - tức là
những giá trị tinh thần).
Hình tượng vua Hùng gả người con gái duy nhất - Mỵ Nương - thể
hiện sự chấp nhận nhường ngôi cho Sơn Tinh, đã khẳng định giá trị tinh thần
của nền văn hiến Văn Lang không thể tự thay đổi bằng chính những người tạo ra
nó. Điều kiện mà vua Hùng đưa ra cho những người cầu hôn công chúa Mỵ Nương
trong “Sơn Tinh Thủy Tinh”, chính là điều kiện mà người tiếp nối lãnh đạo đất
nước tiếp theo phải thực hiện.
CHƯƠNG VIII - 1
“Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao”. Đây chính là những biểu
tượng cô đọng nhất cho những giá trị của nền văn hiến Văn Lang - kết quả của nền
văn minh Văn Lang được tạo lập qua hàng thiên niên kỷ - mà vua Hùng yêu cầu người
kế vị có trách nhiệm gìn giữ. Đó là:
@ Voi chín ngà: là hình tượng của 5 dạng tồn tại ban đầu
của Vũ trụ theo quan niệm của thuyết Âm Dương Ngũ hành là: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa,
Thổ và 4 trạng thái tương tác của nó (Tứ tượng) là: Tương sinh, tương khắc,
tương thừa, tương vũ. tổng cộng 9. Đây là sự cấu thành căn bản của hệ tư tưởng
vũ trụ quan thời Hùng, tư tưởng chủ đạo xuyên suốt tất cả mọi giá trị tinh thần
trong xã hội Văn Lang.
@ Gà chín cựa: Kê nghi - đã được nhắc tới trong Hồng phạm
cửu trù. Đây là những thành tựu của nền văn minh Văn Lang đã tạo dựng với một
thời gian bằng nửa lịch sử nhân loại, kể từ khi quốc gia đầu tiên của loài người
được thành lập - được thể hiện trong việc quan sát vũ trụ, tìm ra qui luật những
hiệu ứng vũ trụ và sự ứng dụng trong cuộc sống, xã hội và con người được bắt đầu
bằng Lạc thư - Hà đồ cửu cung.
@ Ngựa chín hồng mao: ngựa là phương tiện chinh chiến,
hình tượng của sự thống trị, lãnh đạo. Ngựa chín hồng mao là hình tượng của Cửu
trù Hồng phạm: những giá trị của một nền chính trị nhân bản trong thế giới cổ đại
mà những con người ở thời ấy phải mơ ước, đã được nhắc tới rất nhiều trong các
trước tác của Nho giáo. Trong câu chuyện, vua Hùng đã gả Mỵ Nương cho Sơn Tinh
là hình ảnh thể hiện sự chọn giải pháp trao quyền cho người kế vị, để tiếp tục
gìn giữ những giá trị tinh thần của tổ tiên mà dòng họ Hồng Bàng đã dày công tạo
dựng.
Giải mã truyền thuyết “Sơn Tinh Thủy Tinh” đã góp
phần chứng tỏ trên thực tế lịch sử, vua Hùng truyền ngôi cho Thục Phán như truyền
thuyết đã nói đến. Tuy Thục Phán không thuộc họ Hồng Bàng (hình tượng con rể
trong truyền thuyết “Sơn Tinh - Thủy Tinh”), nhưng ông đã có công cùng các tộc
Việt chống lại sự xâm lược của vua Tần. Sơn Tinh trong truyền thuyết “Sơn Tinh
Thủy Tinh” chỉ là một hình tượng không liên quan đến Tản Viên Sơn Thánh Nguyễn
Tuấn, con rể thực sự của vua Hùng cuối cùng trong thời Hùng Vương thứ XVIII,
người đã dàn xếp cuộc chiến Thục Phán - Hùng Vương. Phải chăng, việc làm của
ngài nhằm bảo vệ những thành tựu văn hóa của người Lạc Việt trải gần 3000 năm
văn hiến, điều này sẽ giải thích vì sao ngài là một trong bốn vị thần hộ quốc của
người Lạc Việt. Việc truyền ngôi này phù hợp với truyền thống của các thời đại
vua Hùng đã trình bày ở trên (Tổ chức xã hội Văn Lang). An Dương Vương đã dựng
cột đá thề. Cho đến nay vẫn còn di tích ở đền Hùng Phú Thọ, nguyện gìn giữ cơ
nghiệp tổ tiên và những giá trị của nền văn hiến lâu đời nhất trong lịch sử
nhân loại. Nhưng tiếc thay! Ngài đã không thực hiện được lời thề. Âu Lạc đã mất
về tay Nam Việt.
Hình ảnh mặt biển mở rộng đón An Dương Vương đứng trên lưng thần Kim Quy đi xuống
biển, đã chứng tỏ rằng: khi Âu Lạc mất nước đã khép lại một thời kỳ lịch sử
vàng son của nền văn minh Văn Lang mà thần Kim Quy chính là biểu tượng cho nền
văn minh đó.
CHƯƠNG 9
Những di vật khảo cổ từ nền văn minh đó chưa tìm thấy, hoặc sẽ không bao giờ
tìm thấy. Nhưng điều đó không có nghĩa nền văn minh đó không tồn tại với sự vĩ
đại như đã từng vĩ đại. Nền văn minh kỳ vĩ của Văn Lang - kết quả của sự kết hợp
bởi sức mạnh của vũ trụ với tinh hoa trí tuệ của con người Lạc Việt - đã không
để lại cho hậu thế những công trình đồ sộ pha máu, nước mắt và sự khổ cực của
con người như Kim Tự Tháp, Vạn Lý Trường Thành... một thời làm kinh ngạc nền
văn minh của thế giới hiện đại. Nhưng nền văn minh đó đã để lại những giá trị
tri thức vô cùng to lớn, cho đến tận bây giờ con người hiện đại vẫn đang còn sử
dụng trong thực tế. Đó là thiên văn, lịch pháp và cả một nền y học Đông phương
đồ sộ... Cùng với nền văn minh đó là những giá trị tư tưởng của nền văn hiến
nhân bản đầy mơ ước của nhân loại, kể từ khi con người tự nhận thấy giá trị của
mình trong vũ trụ, đó là tình yêu con người. Chính những giá trị nhân bản và
tình yêu con người trong nền văn hiến Văn Lang là nguyên nhân cho sự tồn tại gần
3000 năm của đất nước Văn Lang. Hàng ngày bạn đang tiếp xúc với nền văn minh từ
thời Hùng Vương dựng nước. Ngay bây giờ khi bạn đang ngồi bên cạnh tất cả những
phương tiện hiện đại mà bạn có, chỉ cần bạn gỡ một tờ lịch vào mỗi buổi sáng,
thì bạn đã tiếp xúc với cả một quá khứ của dân tộc Việt Nam. Nền văn minh đó,
khiêm tốn đến với bạn mỗi ngày qua hàng chữ Âm lịch.
Xã hội Văn Lang đã bị tàn phá. Kho tàng đồ sộ của nền văn minh Văn Lang lần lượt
trở thành chiến lợi phẩm của những triều đại phong kiến đô hộ. May mắn thay!
Chiếc chìa khóa để mở kho tàng đó không thuộc về kẻ chiến thắng. Những thành tựu
của nền văn minh Văn Lang đã hình thành với trái tim, khối óc của người Lạc Việt
trải gần 3000 năm lịch sử sẽ trở thành đổ cổ trong viện bảo tàng lịch sử tiến hóa
của nhân loại.
Viết cuốn sách này về xã hội Văn Lang - một thời đại đã lùi sâu vào quá khứ -
người viết không đem lại một cái gì mới, mà chỉ mong được chia sẻ cùng bạn đọc
sự tâm đắc với tiền nhân khi truyền lại cho con cháu từ thuở các vua Hùng dựng
nước cho đến tận bây giờ, khi cả thế giới đang bước vào thiên niên kỷ mới.
Nước Việt Nam có gần 5000 năm văn hiến
Tài liệu tham khảo:
1. Truyền
thuyết Hùng Vương - thần thoại Vĩnh Phú. Nxb Sở VHTT-TT Phú Thọ 1997
2. Đại Việt sử ký toàn thư Nxb
KHXH 1985
3. Tìm về bản sắc văn hóa Việt
Nam Nxb 1997
4. Lĩnh Nam Chích Quái Nxb VH 1990
5. Truyện cổ nước Nam
Sử ký Tư Mã Thiên
Thái Ất dị giản lục Nxb VH 1997
Đại
cương Triết học Trung Quốc Nxb TP.HCM 1992
6. Kinh Thư diễn nghĩa Nxb TP.HCM
1993
7. Kinh Dịch Phục Hy Nxb KHXH 1997
8. Kinh Dịch và vũ trụ quan Đông
phương Nxb TP.HCM 1992
9. Chu Dịch vũ trụ quan Nxb Giáo Dục
1995
10. Chu Dịch Nxb VHTT 1996
11. Chu Dịch dự đoán học Nxb VH 1995
12. Mai Hoa Dịch số Nxb VHTT 1995
13. Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn
Hoàng Đế Nội Kinh và suy
đoán vận khí Nxb VHTT 1998
14. Lịch sử triết học phương Đông Nxb TP.HCM 1997
15. Nguyên lý thời sinh học phương Đông Nxb VHTT
1996
16. Địa lý toàn thư Nxb VHTT 1996
17. Bàn về vạn niên lịch Nxb VHDT 1995
18. Lịch sử Trung Quốc 5000 năm VHTT 1997
19. Sử Trung Quốc Nxb VH 1996
20. Tâm hồn mẹ Việt Nam (Lê Gia) Nxb Văn Nghệ TP.HCM
21. Về cội về nguồn (Lê Gia) Nxb Văn Nghệ TP.HCM
22. Tiếng nói nôm na (Lê Gia) Nxb Văn Nghệ TP.HCM
23. Lời mẹ (Lê Gia) Nxb Giáo Dục
24. Cau trầu đầu truyện Nxb Đồng Tháp 1994
25. Lão Tử và Đạo Đức Kinh Nxb VHTT 1994
26. Hợp tuyển truyện cổ tích Việt Nam Nxb GD 1996
27. Việt lý Tố Nguyên Nxb An Tiêm Sài Gòn 1970
28. Thời đại Hùng Vương Nxb KHXH 1976
Kiến thức ngày
nay số 314
29. Thượng Thư - sách ghi chép thời thượng cổ Nxb
Đồng Nai 1996
30. Đại Việt sử lược Nxb TP.HCM 1993
31. Lang thang trên giải ngân hà Nxb Văn Hóa Thông
Tin 1996.
Tháng 1/1999Nguyễn Vũ Tuấn Anh
Tranh dân gian làng Đông Hồ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét