Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945
I. NHỮNG QUAN NIỆM VỀ CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN |
1. Khái niệm lãng mạn:
Theo chiết tự lãng: sóng; mạn: phóng túng), lãng mạn tức
là phóng túng không chịu một sự ràng buộc nào, không theo đường lối nào.
Khái niệm lãng mạn từ khi xuất hiện đã gây tranh cãi cho các
nhà nghiên cứu, lý luận như ở Nga, ở Pháp, ở Việt Nam... Vì vậy, để xác định được
nội dung chính xác của khái niệm lãng mạn là một điều khó khăn và phức tạp.
+ Ở Nga, nhà thơ Puskin ghi nhận: Những tranh cãi nóng hổi về
chủ nghĩa lãng mạn, tranh cãi thì nhiều mà làm sáng tỏ vấn đề chẳng được bao
nhiêu. Hay trong một bức thư gửi bạn 25/3/1825 Puskin viết: Tôi nhận thấy rằng
tất cả chúng ta (và cả bạn nữa đều quan niệm rất mơ hồ về chủ nghĩa lãng mạn)
Hai mươi năm sau cũng ở Nga, nhà phê bình
Biêlinxki cũng đi đến kết luận: Về tất cả vấn đề này chưa có gì là sáng tỏ và
chủ nghĩa lãng mạn vẫn còn là một đối tượng bí ẩn và đầy ước đoán.
+ Ở Pháp: cuộc tranh cãi còn náo động hơn khi vở kịch Hernani
của Victor Huygo, các phái ủng hộ và chống đối cũng đấu khẩu và đấu đá, đóng
góp vào lịch sử văn học Pháp thuật ngữ trận chiến Hernani.
+ Ở Việt Nam: tranh cãi về thơ cũ, thơ mới vào những năm
1932-1935 rất sôi nổi. Tranh cãi về văn xuôi lãng mãn và hiện thực cũng rất
hăng hái.
Trong một tác phẩm văn học có yếu tố hiện thực và yếu tố lãng
mạn. Cuộc sống hàng ngày nảy sinh ra vấn đề hiện thực và vấn đề lãng mạn.
Bộ văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930-1945, gồm 8 tập, gần 100
tác phẩm, khoảng 3.000 trang, có truyện ngắn, truyện vừa và tiểu thuyết. Gọi là
văn xuôi lãng mạn nhưng tỷ lệ tác phẩm lãng mạn thấp hơn so với tác phẩm khác
còn lại. Có thể những người xuất bản lấy tên lãng mạn cho dễ xuất bản, tiêu thụ.
Nhưng nó cũng có nguyên nhân: Vấn đề lãng mạn và hiện thực ở văn chương là rất
phức tạp, dễ dẫn đến sự sắp xếp tùy tiện . Ngay giáo sư Nguyễn Hoành Khung chủ
biên bộ sách cũng phải thừa nhận rằng: Trước hết là cái tên lãng mạn không phù
hợp với nhiều tác giả, tác phẩm mà nó định thu gom... Sự phân biệt đối lập giữa
văn học lãng mạn và văn học hiện thực phê phán trong khu vực hợp pháp không phải
luôn luôn rõ rệt nên việc vạch ra đường ranh giới rõ rệt giữa hai dòng hiện thực
và lãng mạn là không thể làm được và thực tế không có một ranh giới như vậy. (Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930-1945, tập VIII, NXB khoa học xã hội trang 548,
549).
Trong lời bạt cho bộ sách Văn xuôi lãng mạn Việt Nam
1930-1945 nhà thơ Huy Cận cũng tỏ ra hoài nghi với cách phân loại như vậy:
lãng mạn hay hiện thực cũng đành theo một cách phân loại đã quen dùng. Nhưng
chúng ta không quen tính ước lệ nhiều trong cách phân loại ấy. Ông viết tiếp:
cho hay những tác phẩm cao đẹp thì bất chấp sự chia ô hoặc nói đúng hơn là cái
đẹp cái hay đó nó tràn ngập các ô mà chúng ta đã ngăn sẵn.
Nhà thơ Chế Lan Viên không phản đối việc chia ô nào là hiện
thực, ô nào là lãng mạn mà cốt phê phán cách xử lý máy móc, đem đối lập chúng với
nhau, hạ thấp cái này đề cao cái kia: Về văn học trước cách mạng chia ra nào
lãng mạn nào hiện thực thì cũng đúng và cũng nên nhưng chia ra để làm gì? Nếu
chỉ nói là chúng không chống nhau, nam nữ thọ thọ bất thân, nội bất đắc xuất,
ngoại bất đắc nhập thì nguy khiếp lắm. Cho dù đồng sàng dị mộng thì cũng có lúc
gác chân lên nhau qua lại chứ - Sao không nghĩ chúng cùng thời với nhau, chúng
chịu ảnh hưởng lẫn nhau, có khi chống đối, có khi bổ sung, có lúc thỏa hiệp chứ
đâu chỉ có quan hệ lườm nguýt mới là quan hệ (Bài ca thôn Vĩ Dạ, trang 10-11)
Ở Việt Nam văn xuôi 1930-1945 rất khó phân biệt giữa hiện thực
và lãng mạn. Những truyện ngắn của Thạch Lam, Trần Tiêu, yếu tố hiện thực lại nổi
lên rất rõ. Có người cho rằng truyện ngắn Nhà mẹ Lê còn hiện thực hơn Kép tư Bền
của Nguyễn Công Hoan và Tắt đèn của Ngô Tất Tố.
Chủ nghĩa hiện thực thì nghiêng về phản ánh, chủ nghĩa lãng mạn
nghiêng về bộc lộ. Chủ nghĩa hiện thực thì thấy thế nào miêu tả thế ấy bằng
phương pháp điển hình hóa. Chủ nghĩa lãng mạn cảm và suy nghĩ thế nào viết thế ấy.
Chủ nghĩa hiện thực nghiêng về xu hướng hướng ngoại. Chủ nghĩa lãng mạn lại
nghiêng về xu hướng hướng nội. Một bên xem cuộc sống là đối tượng khách thể để
miêu tả, một bên lấy cái Tôi làm trung tâm để thể hiện.
Tóm lại tác phẩm văn chương ít nhiều có chứa đựng
yếu tố hiện thực và lãng mạn.
2. Phân biệt giữa lãng mạn
tích cực và lãng mạn tiêu cực.
Trong bài Tôi đã học viết như thế nào? Goocki đã gặp tư tưởng
Lênin, thấy cần thiết phải phân biệt trong văn học lãng mạn có hai loại: lãng mạn
tích cực và lãng mạn tiêu cực
Lãng
mạn tiêu cực hoặc đưa con người thỏa hiệp với thực tại hoặc tô vẻ thực tại, hoặc
tách con người ra khỏi thực tại đi vào thế giới nội tâm với những ý tưởng về những
bí ẩn thiên định về cuộc đời, về ái tình, về cái Tôi.
Ðặc điểm của xu hướng lãng mạn là chủ nghĩa bi quan, chủ
nghĩa thần bí, thái độ đối địch với lý trí, sự thoát ly thực tại và quay về quá
khứ (trung cổ), dựa vào tôn giáo dựa vào trí tưởng tượng một cách bệnh hoạn,
thích thú với cái hoang đường kỳ ảo. Xu hướng này gọi là lãng mạn tiêu cực (hay
lãng mạn bảo thủ phản động). Vì nó chống lại mọi sự tiến bộ của xã hội, quay
lưng lại phong trào đấu tranh của nhân dân.
Lãng mạn tích cực: tìm thấy vào những năm 1810-1830 ở Châu
Âu lúc mâu thuận sâu sắc giữa giai cấp Tư sản với chế độ phong kiến. Khi cách mạng
Tư sản nổ ra ở các nước Châu Âu là muốn giải phóng nhân dân khỏi ách phong kiến
nhưng cuộc sống của nhân dân vẫn phải sống ách nô lệ và sự kiểm soát của một chế
độ mới.
Các nhà lãng mạn tích cực phủ nhận thực tại xã hội, những
sáng tác của họ phù hợp với lợi ích của nhân dân.
Cả hai xu hướng này có điểm gặp nhau. Ðặc điểm chính của thế
giới quan lãng mạn sự lý giải thường là chủ quan về các hiện tượng đời sống,
gán cho đời sống cái mà chủ thể nghệ sĩ mơ ước được thấy. Do đó các nhà lãng mạn
không có nhận thức chính xác, mà có khi tùy tiện bóp méo các qui luật khách
quan về sự phát triển của thực tại, đem đối lập cá nhân với xã hội, đề cao vai
trò cá nhân trong lịch sử. Bất bình với thực tại, các nhà lãng mạn muốn tìm ra
giải pháp chống lại những tệ nạn xấu xa của xã hội. Nhưng không nhận thức đúng
đắn quy luật lịch sử cụ thể nên chương trình của họ thường xuất phát từ ý tưởng
trừu tượng thường có tính chất không tưởng. Như Victo Hugo tuy có cảm tình sâu
đậm với những Người khốn khổ nhưng lại đi tìm giải pháp cứu khổ bằng giải pháp
tình thương.
Việc phân chia chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực và chủ
nghĩa lãng mạn tích cực lại nảy sinh ra vấn đề: sự đối lập về hệ tư tưởng sao lại
có thể nằm chung trong cùng một phương pháp sáng tác lãng mạn. Theo quan điểm của
Lênin về hai dong văn hóa trong một nền văn học dân tộc. Có thể hai dòng văn
hóa đối lập nhau về hệ tư tưởng. Nhưng không phải vì thế mà tính thống nhất của
nền văn hóa dân tộc bị phá vỡ. Phải chăng các nền văn văn hóa dù lãng mạn tiêu
cực hay tích cực vẫn có những nét chung về tư duy nghệ thuật làm nền khuynh hướng
lãng mạn.
II. CÁI TÔI TRONG VĂN CHƯƠNG |
1. Văn chương cổ:
Văn
chương trung đại có đề cập tới cái Tôi nhưng cái Tôi ấy chỉ một số nhà thơ nhắc
tới. Trong Quốc âm thi tập, cái Tôi của Nguyễn Trãi đã hóa thân vào thơ:
Ngoài cửa mận đào là khách đỗ
Trong nhà cam quýt ấy
tôi mình
Ai hay, ai chẳng hay
thì chớ
Bui một ta khen ta
hữu tình
Cái
Tôi trong thơ Nguyễn Trãi Một ta khen ta, một Tôi phải đối diện với Tôi, đối
thoại với Tôi
Cái
Tôi trong thơ bà Huyện Thanh Quan mang một tâm sự u hoài:
... Nhớ nước đau lòng con quốc
quốc
Thương nhà mỏi miệng cái
gia gia
Dừng chân đứng lại trời
non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Cái
Tôi trong thơ Hồ Xuân Hương là khát vọng chân chính về tình yêu, hạnh phúc của
người phụ nữ vốn bị xã hội phong kiến vùi dập khinh rẽ. Thơ của bà khẳng định
được vẻ đẹp thể lực và vẻ đẹp tâm linh của người phụ nữ. Ðó là bài thơ Bánh
trôi nước.
Cái
Tôi trong thơ Nguyễn Công Trứ vừa thách thức vừa thề bồi:
Kiếp
sau xin chớ làm người
Làm
cây thông đứng giữa trời mà reo
Những
câu thơ trên của các nhà thơ đầy tính bản ngã. Tính bản ngã là một trong những
nguyên nhân sinh ra tính nhân bản của nền văn học dân tộc.
Văn chương cổ chứa đựng tâm sự
cái Tôi trữ tình, cái Tôi tiềm ẩn mà thời đại hầu như không chứa nổi, khiến
Nguyễn Du phải quay hỏi hậu thế:
Bất
tri tam bách dư niên hậu
Thiên
hạ hà nhân khấp Tố Như
Có lúc cái Tôi trong thơ Nguyễn
Du cũng muốn cựa quậy, phá phách
Chọc
trời khuấy nước mặc dầu
Dọc
ngang nào biết trên đầu có ai...
(Truyện Kiều)
Văn chương bày tỏ khát vọng, ước
mơ, phẫn nộ và dự cảm về số phận con người muốn vượt thoát khỏi giới hạn của thời
đại. Thế nhưng tư tưởng chính thống của phong kiến là trung quân ái quốc, vua
là tuyệt đối, vua không nhìn thấy số phận cá nhân. Nhưng cái nhìn của văn
chương không phải là cái nhìn của vua mà là tiếng nói tình cảm khát vọng của
nhân dân, từ cá nhân với cá nhân. Chế độ phong kiến không chấp nhận cá nhân, do
đó nhà thơ cổ có đề cập đến cá nhân nhưng lại bị tư tưởng phong kiến coi thường
khước từ. Các nhà thơ cổ người thì bị coi là nghịch sĩ, người bị coi là nghịch
tử và nghịch thần.
Văn học cổ không hiếm sự tích về
ý thức cá nhân, về tri âm, tri kỷ, tri ngộ.
Tri: hiểu.
Kỷ: là cá tính, cái riêng, chân trời riêng có nhu cầu được hiểu
biết và thông cảm.
Tri kỷ là hiểu được cá tính của nhau.
Tri âm: hiểu được tấm lòng.
Tri ngộ: là hiểu được cái ơn.
Trong thực tế đời sống và trong văn chương có nhiều cặp quan
hệ là bạn tri âm, tri kỷ như Chung Tử Kỳ - Bá Nha, Lưu Bình -Dương Lễ; Nguyễn Khuyến - Dương
Khuê; Nam Cao - Tô Hoài
Con người ta thấy đời sống có ý nghĩa chừng nào cái kỷ của
mình được người biết đến và được thừa nhận. Chung Tử Kỳ ngồi nghe đàn mà biết
được tâm hồn của bạn:
Nga
Nga hồ chí tại cao sơn
Dương
Dương hồ chí tại lưu thủy
(Tiếng đàn lên cao hồn người đang hướng về non
Tiếng
đàn khoan nhặt hồn người gửi nơi dòng nước chảy)
Con người ta sẵn sàng chết khi người khác hiểu mình Sĩ vi tri
kỷ giả tử (kẻ sĩ sẵn sàng chết cho người biết mình). Vì vậy có nhiều người chết
vì tình yêu, vì kẻ khác không hiểu mình.
Quản Trọng coi Bảo Thúc Nha còn hơn cả cha mẹ mình: Thuở thiếu
thời ta thường đi buôn với Bảo Thúc Nha, khi chia tiền của ta thường lấy phần
nhiều, vậy mà Bảo Thúc Nha không cho ta là tham, vì biết ta nghèo lắm. Ta đã ba
lần cầm quân đánh giặc và cả ba lần đều thua chạy, thế mà Bảo Thúc Nha không
cho ta là hèn vì biết ta còn có mẹ già. Ta đã ba lần làm quan và cả ba lần đều
bị cách chức, Bảo Thúc Nha không coi ta là kẻ bất tài, vì biết thời thế có lúc
lợi có lúc không lợi. Than ôi sinh ra ta là cha mẹ ta, mà biết ta chỉ có Bảo
Thúc Nha. Ðó chính là nhu cầu muốn khẳng định cái Tôi.
2. Văn chương Tư sản:
Chủ nghĩa lãng mạn ra đời như là phản ứng lại chủ nghĩa cổ điển
trước nó. Nếu văn học cổ điển đề cao lý trí thì văn học lãng mạn thiên về cảm
xúc trữ tình. Văn học cổ coi cái Tôi là cái đáng ghét thì văn học lãng mạn suy
tôn cái tôi, đề cao bản ngã. Văn học cổ điển đề cao cổ đại thì văn học lãng mạn
hướng về lịch sử dân tộc, lấy cảm hướng nhiều ở văn học dân gian cũng như thời
đại mà nhà văn sống. Văn học cổ điển đề ra đủ thứ quy tắc phải tuân theo, còn
chủ nghĩa lãng mạn không bị gò bó bất cứ nguyên tắc nào ngoài quy tắc bên trong
của bản thân nghệ thuật.
Nhìn chung đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn nó thể hiện ở chủ
nghĩa cá nhân, ở nguyên tắc chủ quan, ở sự thể hiện, ở xu hướng thiên về mơ mộng.
Văn học phong kiến coi thường ý thức cá nhân, cái Tôi cần phải
dấu đi, mới là người có văn hóa, còn đem khoe cái Tôi thì là kẻ vô học: Kẻ ngu
này trộm nghĩ; Ngu huynh hiền đệ nói theo kiểu này là người gia giáo có giáo dục.
Văn học cổ không phát triển cái Tôi - cá nhân nên không trực
tiếp tả nội tâm con người- mà nội tâm con người vô cùng phong phú và phức tạp.
Văn học cổ phải dùng hành vi bên ngoài mới miêu tả được bên trong, không đi vào
trực tiếp nội tâm bên trong.
Văn học phong kiến không có văn học thiếu nhi, xem trọng người
già: Cụ cố Hồng mới có 50 tuổi thích gọi bằng cụ. Nguyễn Du phải để cho Vương
quan nói giọng người lớn mặc dù lúc đó Vương Quan mới chỉ 13 tuổi. Thiếu nhi
trong văn học phong kiến là người lớn bé. Ðó chính là mỹ học của văn học phong
kiến. Ðứng trước ý thức hệ phong kiến quá ư là là trói buộc, lạc hậu, do đó vào
những năm 1930 phải có một giai cấp mới ra đời đó là giai cấp Tư sản. Giai cấp
tư sản ra đời là Tư sản hóa của ý thức và sự Âu hóa của thẩm mỹ.
Cái Tôi đã được văn chương lãng mạn khai sinh ngay giai đoạn
đầu là một bước ngoặc có ý nghĩa nhân văn. Nó đánh dấu sự tự ý thức về mình của
con người khi muốn vượt ra ngoài Ðêm trường Trung cổ với những ràng buộc nghiệt
ngã của thiết chế phong kiến. Cái Tôi trong văn chương lãng mạn được biểu hiện ở
ba dạng thức.
Cái Tôi thứ nhất là cái Tôi bản thể của con người. Cái Tôi thứ
nhất vốn có từ khi con người xuất hiện như một thực thể, một sinh thể thoát ra
khỏi thế giới động vật. Nhưng dưới chế độ xã hội nô lệ và phong kiến, cái Tôi ấy
bị chà đạp và tỏa chiết. Con người đã đánh rơi cái Tôi của mình ngay từ đầu,
cái Tôi bị trói buộc hay chìm đắm trong một mớ giáo lý kinh viện.
Cái Tôi thứ hai gắn liền với nhu cầu giải phóng cá tính khi
giai cấp Tư sản hình thành và phát triển, nó đánh thức cái Tôi bản thể.
Cái Tôi thứ ba là cái tôi của cá tính sáng tạo của nhà văn với
tư cách là một nghệ sĩ.
Nói đến cái Tôi là nói đến lịch sử và cuộc hành trình của nó
từ Vương quốc tất yếu đến Vương quốc tự do.
Cái Tôi nghệ sĩ cũng chính là cá tính sáng tạo, là bản lĩnh của
nhà văn, nhà thơ. Vai trò của nó là quyết định sự hình thành của phong cách nghệ
thuật. Nó được thể hiện ở sự tìm tòi, khám phá, phát hiện riêng của từng nhà
văn, nhà thơ trong việc chọn đề tài, nêu vấn đề, sử dụng ngôn ngữ, xây dựng
hình tượng, tổ chức cốt truyện, kết cấu tác phẩm v.v...
Tóm lại, cái Tôi của văn chương lãng mạn chỉ tiến bộ tích cực
và mang ý nghĩa nhân văn ở giai đoạn đầu. Ðến giai đoạn sau, nó trở nên cực
đoan, hẹp hòi - biến thành một thứ chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, đối lập với xã hội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét