Mùa xuân với cành mai
Thiền sư Mãn Giác, thuộc đời thứ 8, dòng thiền Vô Ngôn Thông.
Niên hiệu Hội Phong thứ 5 (1096), cuối tháng 11 Sư có bệnh, gọi môn nhân đến nói
kệ:
“Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai”.
Nghĩa:
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Ðêm qua sân trước một cành mai.
Nói kệ xong, Sư ngồi kiết già thị tịch, thọ 45 tuổi, được 19
tuổi hạ (Thiền sư Việt Nam, trang 124).
Ðây là một bài kệ giàu chất thơ và nhất là giàu chất thiền. Dường
như trong giới tu thiền, giới tu sĩ, những người hâm mộ Phật, cả những người yêu
thơ văn, giới trí thức Việt Nam ít có ai không thuộc lòng bài kệ thơ này. Ðây là
một bài thơ nổi tiếng và là một bài thơ duy nhất còn sót lại của Thiền sư Mãn
Giác, được tìm thấy trong Thiền Uyển Tập Anh.
Mỗi độ xuân về, trăm hoa khoe sắc thắm; mỗi lần xuân đi trăm
hoa úa tàn rơi rụng, gợi nhắc đến cái định luật vô thường khắc khe hữu sinh hữu
diệt nơi vạn vật cỏ cây. Tất cả pháp giữa thế gian này đều không ra ngoài quy
luật đó. Trước mắt, Sư đã từng chứng kiến biết bao lần sự đổi thay chuyển dời,
mỗi sự mỗi vật cứ trôi đi mãi, không bao giờ dừng trụ. Sự vô thường nơi các hiện
tượng như một dòng sông trôi chảy đến vô cùng. Khi thoạt nhìn lại bản thân thì
sự già nua đã đáp trên đầu tự bao giờ. Có lẽ lúc ấy Sư đã “tóc pha màu tuyết?”.
Qua bốn câu kệ đầu, Sư nói đến lẽ vô thường nơi cảnh vật và bản
thân bằng cái nhìn của một người có kinh nghiệm thực chứng. Vì vô thường mà các
pháp đều đi đến hủy diệt, cũng vì vậy mà vô thường được ví như ngọn lửa lớn, ầm
ỉ thiêu đốt cả thế gian. Vô thường đem đến sự chết chóc, nỗi sợ hãi cho con người,
nên được nhân cách hóa nó trở thành một con quỷ (quỷ Vô Thường), hoặc Thần chết.
Kinh Pháp Hoa lại nói ba cõi như nhà lửa, không vui sướng gì.
Như vậy, vô thường như là một điềm xấu, hay đem đến cho con
người sự sợ hãi, làm nền tảng cho thái độ bi quan về cuộc sống. Tuy nhiên nếu
nhìn với một góc độ khác, với mức quán chiếu sâu xa khác, thì vô thường lại có
thể đem đến sự lạc quan vui sống hồn nhiên cho con người. Ðiều ấy hoàn toàn phụ
thuộc vào mức độ nhận thức chủ quan của chúng ta về bản thân cuộc đời. Nếu công
tâm mà nhận xét, nếu không nhờ vô thường thì các pháp không thể sinh trưởng; chính
nhờ vô thường mà có ra sự sống trên trái đất. Sự chuyển dời trong lòng sự vật mà
tất cả pháp trở thành hoạt dụng, nên vô thường là một phép lạ đem đến sự sống
cho con người và muôn loài muôn vật.
Nhờ vô thường mà ta biết phục thiện, phát tâm Bồ đề, viên thành
chánh giác. Chắc chắn nếu không nhờ vô thường thì các pháp trở nên trơ lì và sự
sống biến mất trên trái đất này. Tất cả pháp quá khứ vốn vô thường, tất cả pháp
hiện tại đang vô thường, tất cả pháp vị lai sẽ vô thường, thế nên vô thường tức
là thường (Vô thường thị thường). Mà vô thường đã tức là thường thì không nên lẫn
tránh vô thường để tìm cái thường hằng bất biến.
Tính thường hằng bất biến vốn là tự thể cho tất cả mọi hiện tượng
sinh diệt, nên mọi hiện tượng sinh diệt không bao giờ xa lìa cái đương thể thường
hằng đó. Phật giáo phát triển chủ xướng thuyết: “Nhất thiết thế gian pháp giai
thị Phật pháp” không phải hoàn toàn không có chỗ y cứ. Vì nhận thức sâu xa về vô
thường như là một thực tại nhiệm mầu mà Thiền sư Mãn Giác biểu hiện một cách rõ
nét qua hai câu kết:
“Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Ðêm qua sân trước một cành mai”.
Theo ý nghĩa trên, muôn vật vô thường thay hình đổi dạng cũng
chỉ là bản thân của một cành mai (muôn vật là hóa thân của tự tánh). Nó âm thầm
đi vào lòng người như một phép lạ, gợi nhắc chúng ta hướng đến một thực tại vĩnh
hằng vô thủy vô chung. Thực tại ấy vốn vô ngôn, vượt thoát tất cả mọi ý niệm thời
– không, là nơi mà muôn vật được sinh thành, tồn tại và hủy diệt.
Vốn vô thường mà có khả năng biểu hiện thành tất cả tướng, vốn
nhất như mà có thể biểu hiện thành thiên sai vạn biệt, vốn vô sanh mà có thể
sanh thành… Nếu thật vậy, một con chim, cái kiến, cọng cỏ, núi sông, sum la vạn
tượng, hữu tình, vô tình, sự sống và sự chết đều là hiện tướng của một cành
mai. Nhân mùa xuân nhân gian có hoa nở hoa tàn, Sư Mãn Giác đã giới thiệu đến
chúng ta một cành mai vẫn thường hằng khoe tươi sắc thắm trong bốn mùa thay đổi.
Con người là trung tâm của vũ trụ, tuy hữu hạn trong dòng thời
gian vô hạn, vẫn không ngại ngùng nuôi những ước vọng hướng đến sự sống vĩnh hằng.
Con người tuy nhận thấy mình bé nhỏ, lạc loài giữa vũ trụ bao la, vẫn khát khao
hòa nhập vào đại thể. Khi đau khổ bi đát đến cùng cực, người ta hay suy nghĩ tìm
kiếm nhiều nhất về ý nghĩa của kiếp người. Ðời sống hướng nội tự nhiên trở thành
nhu cầu tâm linh, là điểm tựa cuối cùng giúp họ có dịp để tự đánh thức mình, vén
mở lên những bí mật của kiếp sống.
Ban đêm nhìn lên bầu trời thấy muôn ngàn vì sao lấp lánh, vừa
đảo mắt đã nhìn thấy trăng sao xa tít, cái thấy và cái bị thấy tuy xa xăm dịu vợi
trong khoảng không gian rộng lớn, nhưng vẫn đến với nhau bằng một gạch nối, đó
là “cái biết”. Như vậy, há không phải chúng ta là pháp giới hay sao?
Người học thiền không nên lìa ngoài ảo ảnh đổi thay của muôn
vật để riêng tìm chơn thường, nhưng chơn thường vốn không tướng mạo âm thinh.
Tuy “không” mà muôn pháp hiện bày, tuy “không” mà tất cả pháp được hoạt dụng, “không”
là tự thể của muôn pháp, là mẹ đẻ của muôn pháp, muôn pháp nhờ “không” mà được
an lập, nhưng “không” lại không hình, không bóng, không tướng, không thể nắm bắt.
Khi nào ánh trực giác phát sinh từ vùng sâu thẳm giữa lòng tâm
thức, khi một nguồn suối của đời sống mới được tuôn trào, thì cùng lúc Chúa Xuân
liền vén mở những ẩn mật của đời sống. Muốn trọn hưởng mùa Xuân bất diệt, mỗi
người phải tự hòa mình vào vạn vật. Mùa Xuân ấy nằm trong sự đổi thay của muôn
vật. Trong cái chuyển biến vô thường ảo mộng, có cái gì ẩn mật thầm kín trường
tồn. Ðó là hình ảnh một cành mai của Thiền sư Mãn Giác đời Lý.
Thiền là chủ động chứ không phải chủ tịnh, nên người học thiền
cần nhìn vào chỗ sống chứ đừng nhìn vào chỗ chết. Chỗ sống đó là một cành mai vẫn
mãi tươi thắm trong dòng đời biến đổi này. Ðó là tinh thần ngay nơi Ta bà mà an
lập Tịnh độ, ngay nơi ảo ảnh mà nhận ra chơn thường, ngay nơi thế gian sinh diệt
mà nhận ra mùa Xuân bất diệt. Ðược như thế, thì sự sống bản lai liền trở thành
nguồn suối tâm linh mới, vẫn mãi mãi tuôn trào trong sát na hiện tiền bất động.
Nguồn: thuvienhoasen
Các Chú chim Tiểu Quế LâmÂm thanh của thiên nhiên trên Ðất PhậtXuân bên cội Bồ Đề
Tánh Tuệ
Sáng nay có con chim nhỏ
Dậy sớm hót vang đất trời
Báo tin xuân về đây đó
Hương xuân lan tỏa ngàn nơi.
Vạn vật dường thay áo mới
Sau giấc ngủ dài đông miên.
Bên Cội Bồ Đề tĩnh lặng
Nhà sư vẫn thế ngồi yên.
Đông phương ánh dương bừng rạng
Một vầng tỉnh thức, hạo nhiên.
Bước chân kinh hành nhè nhẹ
Đời vui ngan ngát hương thiền.
Xuân về bên ngôi Tháp Cổ
Bụt mĩm miệng cười như nhiên.
Xuôi dòng thời gian xuân vắng
Môi ai vẫn nụ cười hiền.
Bốn mùa nhịp nhàng luân vũ
Kiếp người theo đó loay hoay.
Vững thân bên Bồ Đề thụ
Ơ! Tâm Xuân tại nơi này.
Xuân gióng hồi chuông tỉnh thức
Nguyện cầu :” hải yến hà thanh ”.
Hương Bồ Đề Tâm sực nức
Lan xa… đây đó yên lành.
Ngày xuân tay tròn sen búp
Dâng hương hoa ngát cõi đời.
Cúi xin Như Lai về ngự
Trong lòng nhân thế nơi nơi...Bồ Đề Đạo Tràng trước thềm Xuân mới 2013Saigon đón Tết Nhâm Thìn 2012 Ðường hoa Nguyễn Huệ 2012 - 1Ðường hoa Nguyễn Huệ 2012 - 2Thông Huệ
Saigon đón Tết Nhâm Thìn 2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét