Theo dấu sông xưa
Sao chưa về lại Tam Kỳ
Về đây người lại có khi gặp người?
Hoa sưa vẫn nở ven trời
Dòng sông năm cũ vẫn trôi ngập ngừng
Mòn con mắt nhớ rưng rưng
Ngày xa xôi đã quá chừng là xa!
Chẳng hiểu vì hoài niệm cố hương hay còn có gì sâu hơn mà
hình ảnh hoa và nước trong câu thơ ấy cứ ám ảnh mãi tôi suốt dặm dài viễn xứ?
Hoa sưa Tam Kỳ thì nhiều người đã nói rồi; nhưng cái dòng sông trôi ‘ngập ngừng”
ấy quá đỗi nhỏ để được nhắc đến tên trong những bản tin thời tiết mỗi ngày bão
lũ. Nhiều lần tôi cố gắng diễn tả những cảm nhận xôn xao của mình về dòng sông ấy
nhưng dường như chẳng để lại nơi người nghe một ấn tượng nào. Bên cạnh những
Thu Bồn, Cẩm Lệ, Vu Gia… mạnh mẽ ào ạt đổ về khơi, trong mường tượng của nhiều
người thân quen, dòng sông vàng của tôi dường như quá nhỏ, nhỏ đến mức chỉ như
là một nét lơ lửng trên tấm bản đồ. Vậy nên, một thời tôi đã từng nghĩ là mình
chẳng thể kể cho người xứ khác nghe chút chi tiết lịch sử đặc biệt nào về dòng
chảy quê hương ngoài cái tên hiếm khi được nhắc với người cả nước.
Sưa vàng gọi nắng ven sông
Mà cũng hiếm thật! Đọc các bộ sử và địa chí xưa, cái tên Tam
Kỳ gắn với dòng sông chỉ xuất hiện có hai lần: một trong Phủ biên tạp lục khi
nói đến “tuần đò” qua bến sông này và lần kia được nhắc tên trong Đại Nam nhất
thống chí. Cũng trong tư liệu thứ hai này, chuyện Hậu quân phó tướng Trần Văn
Biện “vào năm Tân Mùi đầu đời Lê trung hưng” “phái binh giữ sông Tam Kỳ để triệt
đường vận lương của giặc” được nhắc đến không quá hai dòng.
Hãy còn nhớ các chuyện kể của người lớn tuổi về tên các xứ đất
được ghi trong các bản trích lục ruộng đất chốn quê của tôi xưa. Họ kể: phía hữu
ngạn sông Tam Kỳ là xứ Ba Lay cũng còn gọi là xứ Cây Cau; còn phía tả ngạn có xứ
Do Gò Tha nằm trong vùng đất có cái tên chung là “Truông Dài - Nhà Núi”. Xứ đất
này bao gồm cả vùng thành phố Tam Kỳ hiện nay trải ra đến vùng tháp Chiên Đàn
nơi xưa từng có tên là xứ Cây Dừa. Chỉ nghe những cái tên ấy thôi đã gợi liên
tưởng miên man về bao nghĩ suy của người khai phá xưa trong việc tiếp biến
địa danh Chăm để đặt tên cho những vùng đất mới.
Trở lại với con sông Tam Kỳ của tuổi thơ tôi: bao nhiêu là dấu
tích xưa soi bóng trên dòng khiến cứ mãi dạt dào trong hồn những con sóng nhớ!
Bên này sông là quê nội, có cụm tháp Khương Mỹ tương truyền là nơi chôn cất
linh thiêng một bà hoàng hậu. Câu chuyện này cùng với bao truyền thuyết về “ma
Hời” đã làm lũ trẻ chúng tôi sợ thót tim mỗi lần bước qua chốn ấy. Đây là đất định
cư của con cháu “tứ phái tiền hiền” từ vùng Nghệ An, Thanh Hóa vào. Tôi hãy còn
nhớ như in những tấm bia chi chít chữ Hán nơi mộ mấy vị tiền hiền nằm ở ven
sông. Sau này lớn lên, võ vẽ dăm câu, mới biết trên các tấm bia kia ghi lại một
sắc vua phong cho cả bốn ông Lê, Nguyễn, Đỗ, Trần với danh hiệu “Dực bảo
trung hưng linh phù chi thần”, một cái tên thoạt nghe đã gợi lên nhiều huyền
thoại về bao thế hệ người đi mở cõi.
Nhà ngoại tôi nằm sát bờ tả ngạn đối diện với nhà nội phía
bên này sông. Thuở nhỏ, vào mùa hè, gần như ngày nào tôi cũng sang bên đấy. Mỗi
lần muốn nhắn về, mẹ chỉ việc ra bờ sông gọi thật to là tôi đã nghe ngay. Và một
tay cầm quần áo giơ cao khỏi mặt nước, tay kia bơi, một loáng sau tôi đã về nhà
- nơi quê nội Phú Bình chôn nhau cắt rốn. Tôi đã bơi qua bơi lại dòng sông Tam
Kỳ biết bao lần suốt thời thơ ấu. Mỗi lần nhìn hình bầu trời vời xa in trên mặt
nước lặng như gương tưởng như mình đang bơi giữa vùng sâu thật sâu không bờ
không bến. Mỗi lượn sóng chao, cái bóng trời thăm thẳm dưới làn nước xanh kia
như nuốt ngợp lấy khiến tôi vừa bơi vừa sợ; sợ nhưng vẫn sang sông bởi cồn bãi
quê ngoại với bao nhiêu là cây trái và niềm vui đã hấp dẫn vô cùng suốt những
tháng ngày mới lớn.
Con đường rợp bóng cây của làng ngoại chạy dọc triền sông.
Chuyện xưa kể, khi vừa đến lập làng, các ông tiền hiền gốc gác từ xã Kim Chuyết,
huyện Hoằng Hóa ngoài đất Bắc xa xôi đã tìm giống sưa vàng còn gọi là cửu lý
hương về trồng ven bờ sông chống lũ. Chẳng rõ hư thực thế nào, chỉ biết khi bắt
đầu nhận ra cảnh sắc quanh mình, tôi đã thấy cơ man là sưa trồng ven đường, ven
sông, khắp chốn; cây nào cây nấy to đến mấy vòng tay ôm, mùa xuân trổ hoa vàng óng.
Mùa sưa “nở”, từ làng nội nhìn sang, cái làng ngoại có tên Hương Trà của tôi ngập
một sắc vàng óng ả. Hoa sưa thơm lạ thơm lùng! Thuyền trôi về tận ngã ba sông
cách làng khá xa mà vẫn còn đằm thắm đâu đây một mùi hương ngan ngát. Và còn nữa
chứ! Những thảm hoa sưa theo gió rụng vàng mặt nước trôi lênh đênh khắp dòng,
bám theo mạn thuyền, theo các nhánh sông về những miền xa lắc. Đình làng Hương Trà
Những ngày cuối thu mùa sưa thay áo, biền bãi Hương Trà ngập
xác lá vàng rơi. Đi giữa đường sưa kín màu lá úa như giữa những cây phong
phương Bắc mới thấm thía câu thơ “Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san” trong
truyện Kiều mà cụ Nguyễn Du từng miêu tả. Khi cơn lụt đầu mùa chớm tràn về, từng
mảng lá thiêm thiếp trôi trên con nước đục ngầu làm cho dòng chảy Tam Kỳ bội phần
hiu hắt. Bên những hàng sưa khẳng khiu chơ vơ giữa cảnh trời đông, dòng lũ trên
sông vàng lại thêm vàng.
Vậy là bên màu tươi thắm của sưa xuân, màu úa của sưa thu còn
có màu xám khô của hàng sưa trụi lá mùa đông và màu ủ ê của từng con nước lũ. Tất
cả in dấu trong tôi như những hoài niệm về một dòng sông được nhuộm vàng bằng
bao dáng hình và sắc độ.
Làng xóm ven sông Tam Kỳ trồng rất nhiều mai. Những chiều
giáp tết, sắc hoàng mai như rực lên bên những vạt nắng vàng nhuộm màu hổ phách.
Trong gió nhẹ chiều xuân, cái ánh vàng kia đã hóa thân thành những hoa nắng lấp
lánh trên sông đến cuối chân ngày. Và khi tất cả đã sâu vào bóng của đêm, dường
như màu nắng vàng hãy còn nương lại trong cái quầng sáng của những bóng đèn soi
nơi chân cầu xa về phía thượng nguồn. Sông Tam Kỳ
Cây cầu ấy đã bao lần in bước chân qua vậy mà tôi vẫn cứ
thích bơi ngang dòng sông như một thuở nào; thích được nằm giữa những bờ cát trắng
ngày thơ, nghe tiếng chim ríu rít ven bờ và tiếng cá quẫy xôn xao ngoài sóng nước.
Ở đó, không chỉ nghe tiếng dập dềnh của mặt nước chừng như
xanh hơn buổi chuyển sang hè, tôi còn nghe tiếng vọng rộn ràng của những nhịp
chày hòa cùng tiếng hát hò khoan của những tốp phụ nữ bên những cối giã đậu mỗi
mùa ép dầu phụng. Biền bãi ven sông Tam Kỳ là nơi trồng đậu phụng nhiều nhất
nam Quảng Nam. Trong gió chiều xuân, từng thảm đậu ngát xanh không ngớt dập dềnh.
Hoa đậu vàng như hoa cải hiện e ấp dưới muôn trùng những cơn sóng lá.
Giờ thì đã vắng tiếng búa gỗ nện vào những miếng nêm của bộng
ép dầu; nhưng trong hồi cố của kẻ tha hương, mùi thơm lan tỏa từ những mẻ đậu
phụng được “hông” chín rồi cho vào bộng gỗ để chuẩn bị ép thành dầu đã không thể
nào mờ phai; dẫu kẻ nhà quê kia đã xa thật là xa các mùa thu hoạch cây lạc ven
sông để đến những cõi miền xa tít.
Nhưng, dẫu có đến góc biển chân trời nào, thanh âm từ những
tiếng trống giục lễ cầu ngư trên sông lẫn tiếng rao thai của những hội bài chòi
ngày xuân đặt cạnh đình làng cùng tiếng dô ta rập ràng từ những hội đua thuyền
đầu năm hẳn chẳng thể nào phai trong nỗi hoài hương của người viễn xứ!
Chẳng biết những bậc tiền hiền rời đất Bắc đến khai phá các xứ
đất bên dòng Tam Kỳ xưa, mỗi lúc xuân về có thao thức nhớ cố hương qua những hồi
âm từ những dòng sông quê cũ xa mờ? Chỉ biết mấy trăm năm sau có bao hậu duệ rất
bé mọn là những kẻ như tôi, từng đêm da diết với tiếng vọng của dòng sông, nghe
trong nhịp chảy của thời gian biết bao màu sắc và thanh âm mơ hồ vọng về từ một
thời mở cõi.
9/2/2013
Lê Kỳ Hưng
Theo http://baoquangnam.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét