Thứ Tư, 25 tháng 11, 2020

Mẹ và quê hương trong thơ Hoàng Trần Cương

Mẹ và quê hương 
trong thơ Hoàng Trần Cương

Nhà thơ Hoàng Trần Cương, tác giả của những câu thơ, bài thơ nổi tiếng về miền Trung vừa qua đời tại Hà Nội chiều ngày 9/4/2020 sau một thời gian dài chống chọi với bệnh tật, để lại nhiều nỗi tiếc thương trong lòng bè bạn, trong lòng những người yêu văn chương.
Đọc lại tập thơ nổi tiếng nhất của ông, tập Trầm tích (1996), tôi bị ám ảnh nhiều nhất bởi những câu thơ về mẹ và quê hương. Đây có lẽ cũng là một trong những cảm hứng lớn nhất trong thơ Hoàng Trần Cương, mang lại cho ông nhiều thi phẩm xuất sắc và cũng  khiến ông trăn trở suốt một đời văn.
Mẹ
Người mẹ trong thơ Hoàng Trần Cương hiện lên trước tiên với nỗi vất vả nhọc nhằn ở một vùng quê lam lũ. Cái vất vả ấy kéo dài suốt tháng quanh năm, nó thấm vào đứa trẻ từ khi mới lọt lòng:
Mẹ tôi đẻ rơi tôi bên cối giã gạo
Tôi lấm láp đáp mình vào đất
(Nguồn cội).
Trong mỗi cuộc mưu sinh hàng ngày, trong những khi phải chống đỡ với thiên tai, có những câu thơ dễ khiến chúng ta ứa nước mắt vì cảm động, vì xót xa:
Bữa tôi chào đời trời rạch chớp xanh
Nước sông Lam đã trèo vào cổng
Treo vội con lên chạn
Mẹ xắn quần đi giằng lại cái sanh đồng sứt quai
(Cật tre)
Mẹ lật đật trèo lên đò ngang
Quẩy theo con vào chợ
Gò lưng giữ cho cân đòn gánh
Chỉ sợ con lật người là đổ mất ngày mai…
Sớm mai sụp nón
Sấp mặt ngồi cuối chợ
Nhặt về những đồng xu bạc phếch đất bùn
(Thóc giống).
Mẹ giống như nhân vật nữ mang tính điển hình cao nhất, đại diện cho quê hương. Bên cạnh mẹ còn thấp thoáng bóng dáng người bà, cũng vất vả lầm lũi suốt một đời, lúc nào cũng dõi theo và yêu thương cháu:
Chiều chiều mẹ ra sông mót cá
Tôi tha thẩn khắp vườn bòn mấy quả mận xanh…
Đâu biết có bà vẫn lần theo canh chừng gai góc
Lụi hụi dáng lưng còng lóng ngóng vịn cơn mưa
(Đất mật).
“Lụi hụi dáng lưng còng lóng ngóng vịn cơn mưa”, theo tôi là một trong những câu thơ hay nhất viết về hình ảnh người bà trong thơ Việt Nam hiện đại. Câu thơ đầy ám ảnh bởi tính tượng hình qua việc điệp lại 5 lần phụ âm cuối “ng” qua các từ: dáng, lưng, còng, lóng, ngóng. Ba chữ “vịn cơn mưa” ở cuối câu thơ lại mang vẻ đẹp kỳ ảo. Người bà như bước từ quá khứ, từ những hồi ức kỷ niệm trở về hiện tại với tác giả, vừa gần gụi mà vừa xa mờ. Hai chữ “lụi hụi” mang thanh nặng khiến âm điệu câu thơ lúc đầu chìm xuống, nhưng hai chữ “cơn mưa” mang thanh không lại khiến câu thơ bay lên khi kết thúc, làm lòng người mãi rưng rưng…
Có phải vì lớn lên trong những kham khổ mà đứa trẻ - thi sĩ từ nhỏ đã có ý thức giúp đỡ mẹ, dù qua những việc rất đơn giản, nhỏ nhoi:
Bờ ao tím rần túm lá lộc mưng
Lá lộc mưng chảy non chát ngòm cổ họng
Tôi bứt về nhà giúp mẹ thay cơm
Giúp đêm bớt dài giúp mai chậm đến
Giúp các em tôi khuây nỗi khát thèm
Giúp cành lộc mưng kịp lên da non
Và giúp tôi dụm dành niềm hy vọng
(Đất mật).
Người mẹ trong bao kham khổ, vất vả vẫn tần tảo chắt chiu chăm lo cho đàn con mỗi ngày. Người mẹ nào mà chẳng quan tâm lo lắng yêu thương các con, nhưng người mẹ chăm lo cho đàn con trong cảnh nghèo mà Hoàng Trần Cương tạc lại trong thơ có những chi tiết vô cùng ám ảnh:
Đâu rồi hòn đá nhám
Mẹ vẫn chà chân sau buổi làm đồng
Dấu đi nỗi nhọc nhằn chai sạn
Dấu đi năm tháng
Dấu đi đôi gót trần nứt nẻ tóe máu tươi
(Thóc giống).
Mong bắt được vài con cá chầy
Để buổi chợ sớm mai mẹ không ngồi đỏ mắt
Để bữa cơm chiều hôm không vàng khè màu ngô dặt
Với đĩa rau lang cao như tầng núi xám
Che mặt các em con phía bên kia mâm
Nước mắt mẹ rơi thầm
Những giọt nước mắt mẹ cố che để con không nhìn thấy
(Thóc giống).
Không chỉ những chi tiết mà còn là cả những câu chuyện cứ lần lượt hiện về từ trong ký ức, những câu chuyện rất thực rất đời từ một vùng quê nghèo, không cần tô vẽ, nhà thơ chỉ kể lại đúng như nó diễn ra để rồi những câu chữ chạm thẳng vào tim người đọc:
Tôi nhảy nhót
Va vào vại nhút
Vại nhút va vào gốc cau và vỡ tan tành
Vỡ tan tành thức ăn cất trữ của cả nhà trong mùa lụt
Mẹ không mắng
Mà khom lưng nhặt nhạnh
Những mảnh sành kết muối trắng tinh
Vại nhút vỡ mất rồi
Biết lấy gì đắp lên bát cơm gạo lứt
Mẹ chan tiếng cười chạy vòng quanh mâm
Nhìn những mảnh sành vương vãi khắp sân
Tôi chợt hiểu/Vì sao tóc bà rồi tóc mẹ
Cứ trắng như phía trong của lớp mảnh sành nằm đáy vại
Khi tan cả hình hài
Ta mới kịp nhận ra…
(Cật tre).
Người mẹ tiếp tục gắn với mỗi bước đi trên hành trình của đứa con. Những năm tháng ở chiến trường đối mặt với sinh tử vẫn không nguôi nghĩ về mẹ, nhớ về mẹ. Người lính gọi thầm tên mẹ như để ấm lòng hơn:
Một vệt sáng long lanh nóng hổi
Nước mắt của chính mình bỏng rát trên môi
Cái khoảng trống giữa hai trận đánh
Thường được lấp đầy như thế mẹ ơi
(Quặng lửa).
Khi người lính từ chiến trường trở về, nỗi canh cánh đầu tiên vẫn chính là bóng mẹ:
Tôi cùng đồng đội chia phôi
Nơm nớp nỗi lo
Mẹ có còn đợi con đầu ngõ
(Mưa ốc đảo).
Khi có mẹ, hạnh phúc của mỗi đôi lứa dường như cũng bình yên hơn:
Mẹ ngồi têm trầu thâu đêm suốt sáng
Mắt thoáng bình yên
Mái tóc bạc trắng sang phương trời khác
Em là cơn mưa tôi ngóng chờ mùa khô khát…
Em là trầm tích dưới lớp lớp tháng năm
Lặng lẽ
Lắng vào đời con chúng mình dáng hình của mẹ
(Mưa ốc đảo).
Người mẹ không chỉ nuôi con khôn lớn mà còn trao cho con một sức mạnh tinh thần, cho con mình một trái tim vừa biết mạnh mẽ vừa biết yêu thương:
Mẹ ơi
Mẹ đã cho con trái tim mang hình chóp núi
Chống nắng chọi mưa
Trần trụi dưới trời
Cái chóp núi vừa ngoi lên đã chui qua cát bụi (Địa linh).
Quê hương
Hoàng Trần Cương sinh ra và lớn lên tại xã Đặng Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, một vùng quê nghèo điển hình của miền Trung gió Lào cát trắng. Hình ảnh một vùng quê nghèo đi vào nhiều câu thơ, bài thơ của ông với những diễn đạt độc đáo:
Ôi quê hương!
Cái đòn gánh trĩu hai đầu đất nước
Gió bão thù chi với mảnh đất này
Nối đuôi nhau xếp hàng ngang đen sì ngoài biển
Mưa giờ Ngọ chưa qua gió giờ Mùi đã đến
Cay đắng lắng vào trái ớt lúc còn xanh
Đất vắt kiệt mình nước mọng múi chanh
Ngẩng mặt đụng trời xanh nhức mắt
Dằng dặc dải làng quê thưa thắt
Những vạt lúa đỏ đuôi luội mình đổ rạp
Chỏng chơ nồi cơm ngày đói khát
Tảng cháy cạy đi rồi
Còn hằn vết móng tay
Cày lên
Sưng cả đáy nồi (Nguồn cội).
Cái nhọc nhằn nghèo khó không chỉ in hằn lên bóng dáng mỗi con người mà nó còn in dấu vào tất cả thiên nhiên, đất trời, sự vật, đồ đạc nơi đây: từ mỗi cơn nắng cơn mưa, quả chanh quả ớt, vạt lúa nồi cơm.
Trước Hoàng Trần Cương, chưa có ai tả về cái nghèo đầy day dứt như hình ảnh “sưng cả đáy nồi”. Con người chống đỡ lại cái nghèo, cái khắc nghiệt của thiên nhiên, nhiều lúc tưởng chừng như quá sức, tưởng chừng như bất lực, nghẹn ngào: “Gió lào/ Thổi khô nước mắm/ Mẹ giấu biệt trong buồng mà gió chẳng buông tha” (Địa linh).
Quê hương nghèo nhưng luôn ấm áp tình người, bắt nguồn từ một nguồn cội sâu thẳm, không chỉ có kết nối giữa những người đang sống mà còn kết nối cả với những người đã khuất:
Người đã khuất vẫn cưu mang người đang sống
Ngôi mộ là chứng nhân
Những chứng nhân mọc và rụng không bất ngờ với đất
Đất hiến trao
Đất lại nhận về (…)
Ngày tảo mộ cả làng dậy sớm
Ngạt ngào xôi nếp thơm
Mùi cỏ dại cay nồng
Mùi hương bay ríu giọng
Những chi tộc gần xa về hội ngộ
Mơ hồ phấn mưa bay
Vuông đất này xin bái tiến tổ tiên
Vuông đất này xin hiến trao người lạ (Tảo mộ).
Quê hương nghèo mà luôn mở rộng vòng tay với những ai tìm đến, tìm về. Một quê hương đằm thắm yêu thương, dũng cảm kiên cường qua bao năm tháng chiến tranh, và rồi đọng lại là sự đoàn tụ sum vầy. Bài thơ nổi tiếng nhất về quê hương của Hoàng Trần Cương chính là tuyệt phẩm Miền Trung, được viết từ năm 1990, đến năm 1996 ông dùng tác phẩm này làm đoạn kết cho trường ca Trầm tích. Thi phẩm mang vẻ đẹp lộng lẫy như một tượng đài về đất và người miền Trung:
Miền Trung mỏng và sắc như cật nứa
Chuốt ruột mình thành dải lụa sông Lam…
Những đốt sống Trường Sơn lởm chởm dăng màn
Thoáng bóng giặc núi bửa thành máng súng
Những đứa con văng như mảnh đạn
Thương mẹ một mình trời sinh đá mồ côi…
Miền Trung
Câu ví dặm nằm nghiêng
Trên nắng và dưới cát
Đến câu hát cũng hai lần sàng lại
Sao lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm
Miền Trung
Bao giờ em về thăm
Mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt
Lúa con gái mà gầy còm úa đỏ
Chỉ gió bão là tốt tươi như cỏ
Không ai gieo mọc trắng mặt người
Miền Trung
Eo đất này thắt đáy lưng ong
Cho tình người đọng mật
Em gắng về
Đừng để mẹ già mong.
Vỹ thanh
Hoàng Trần Cương khi viết về mẹ, bao giờ bóng mẹ cũng hiện lên giữa quê hương. Ngược lại, khi viết về quê hương, bao giờ cũng thấp thoáng bóng hình người mẹ.
Có thể nói, mẹ và quê là hai vế song hành không tách rời trong một loạt thi phẩm của ông, chinh phục người đọc bằng sự thành thực, xúc động, ngôn ngữ thơ chân mộc, xù xì mà nhức buốt tâm can. Cách diễn đạt nhiều khi có pha chút cường điệu nhưng luôn độc đáo, ấn tượng, đặc biệt những diễn tả về cái nghèo.
Trong lòng mỗi người yêu thơ Hoàng Trần Cương, đặc biệt là những người sinh ra và lớn lên ở miền Trung, chắc chắn vị trí của ông, những câu thơ của ông là không bao giờ có thể thay thế.
Xin được khép lại bài viết bằng những câu thơ thật đẹp, thật tươi sáng của ông trong một tình yêu sâu thẳm, vĩnh viễn, hướng về mẹ và quê hương:
Mẹ là trầm tích của bạt ngàn thương mến
Xanh mát bầu trời đượm ấm hương quê
Đưa ngọn gió trở về xóm nhỏ
Đưa cơn mưa xuống mạch giếng làng
Đưa mây trắng về trời khêu lại nắng
Đưa nỗi buồn ra khỏi thôn trang
(Những viên đá lẻ).
13/4/2020
Đỗ Anh Vũ
Theo http://thoibaotaichinhvietnam.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...