Thứ Năm, 28 tháng 5, 2015

Vọng Phu thạch

Vọng Phu thạch 
       Thi ca không phải chỉ là tiếng nói, tư duy, cảm xúc của riêng cá nhân người thơ, mà còn phản ảnh tình hình lịch sử, thời đại, tâm lý dân chúng và xã hội. Sống trong một chế độ phong kiến quan liêu, quân chủ bất công của Trung Hoa thời Đường, vai trò của người phụ nữ bị lu mờ, thân phận của họ thảm thê, bị dồn ép vào bóng tối của cuộc đời, phải nhẫn nại chịu đựng đắng cay trăm bề, không còn biết ý nghĩa của hạnh phúc và gia đình. 
       Người phụ nữ thời đó phải chấp nhận số phận hẩm hiu cho đến hết cuộc đời. Những tôn chỉ cho người phụ nữ phải triệt để thi hành là "tứ đức", "tam tòng", chỉ là cái cớ bất công để bó buộc người phụ nữ phải làm công bộc cho chồng và cả gia đình chồng. Họ đã được biến thành những công cụ "mua vui" , qua những hủ tục "năm thê bảy thiếp" . Đó là những bất hạnh của người phụ nữ đẹp phải chịu đựng, an phận qua cái hủ kiến vô lý "tạo vật đố hồng nhan" (trời ganh ghét má hồng). Những quan niệm hủ lậu "trọng nam khinh nữ", "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử ", "văn dĩ tải đạo", "phụ nhân nan hóa" luôn luôn canh cánh và đè nặng tư tưởng và cách sống trong xã hội Trung Hoa. Nên những bài thơ đề cào vai trò phụ nữ trong xã hội Trung Quốc, hoặc tôn vinh cái vẻ đẹp và hạnh phúc của tình yêu trai gái nam nữ, thật là hiếm hoi trong khu rừng Đường Thi trùng trùng điệp điệp …,những nhà thơ Đường e rằng bị xã hội kết án là không mang tinh thần trượng phu, đi ngược lại những quan niệm đạo đức phong kiến và lễ giáo đã là gốc rễ in sâu trong tiềm thức họ ngàn đời. Tuy vậy cũng có những nhà thơ đã cách tân xã hội, đã mạnh dạn lên án tố cáo những bất công vô lý của giai cấp thống trị phong kiến như Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị đi đầu, rồi đến các nhà thơ Lý Bạch, Lý Thân, Mạnh Giao, Đỗ Tuân Hạc, Vương Kiến v.v…đã đem lại vài luồng gió tươi mát đầy sinh khí để gây sự khởi sắc cho thơ ca tụng tình yêu và phụ nữ, như Lý Bạch và Bạch Cư Dị với Thái Liên Khúc, Tử Dạ Thu Ca, Trường Tương Tư, Trì Thượng, Trường Can Hành ...Và đặc biệt là cũng xuất hiện những bài thơ ca tụng những đức tính, phẩm cách, đạo đức, sự thủy chung, đoan chính của người phụ nữ như Du Tử Ngâm, Chức Phụ Từ, Liệt Nữ Tháo (Mạnh Giao), Tiết Phụ Ngâm (Trương Tịch) v.v..Vọng Phu Thạch của Vương Kiến cũng là một bài thơ đã tạo nên những biểu tượng sâu sắc, nêu cao giá trị tinh thần cao quí của người phụ nữ thời xưa. 
    Vương Kiến là thi sĩ đời Đường, sống một cuộc đời nghèo khó. Thi ca của ông thể hiện tính chất tiêu cực bộc lộ tình cảm cá nhân chua xót, vất vả không được may mắn trên đường đời, công danh, sự nghiệp. Ngoài những bài thơ phản ảnh sự thống khổ của tầng lớp dân chúng vì sưu cao thuế nặng, vì sự bóc lột áp bức của tầng lớp thống trị quan liêu, phong kiến, ông đã quan tâm đến nguyện vọng tha thiết yêu chuộng hòa bình của mọi người dân trong xã hội, khi mà chiến tranh đã cướp đi những người thân yêu quyến thuộc trong gia đình như chồng, con, anh em … Ông đã từng đến làm việc tại nhiều vùng biên cương xa xôi hiểm trở, và đã thông cảm với những nỗi niềm lo lắng, những cảm xúc riêng tư của các binh sĩ, phải xa gia đình vợ con. Nhiều bài thơ của ông đã miêu tả cảnh chiến trường hãi hùng, cảnh chia ly thê lương não nuột, và đặc biệt ông đã sáng tác những bài thơ đề cao vai trò của phụ nữ, và nói lên những bất công thiệt thòi, những nỗi buồn đau, mất mát, chia ly, tan vỡ của người phụ nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội, điển hình là bài thơ Tân Giá Nương, Vọng Phu Thạch, qua bút pháp giản dị, sáng sủa, không khuôn sáo, nhưng ý tưởng sâu sắc tinh tế, có sức thuyết phục, làm rung động lòng người. 
      Vọng Phu Thạch tức là Đá Trông Chồng. Chuyện xưa kể rằng ở thành phố Vũ Xương, tỉnh Hồ bắc Trung Quốc, một người vợ có chồng đi xa lâu ngày không về. Hàng ngày nàng vẫn ra bến sông ngong ngóng đợi chồng về. Người vợ kiên trinh vẫn giữ vững lòng chung thủy, vẫn chờ đợi, chờ hoài nhưng người chồng vẫn không bao giờ trở về, và nàng đã hóa thành đá, vẫn muôn đời chờ đợi chồng mặc cho gió mưa vần vũ trên đầu. Hòn đá đó được đặt tên là Vọng Phu Thạch, vẫn đứng sừng sững bên bờ sông Trường Giang, gần thành phố Vũ Xương. Bài thơ man mác trữ tình diễn tả tình cảnh chua xót đau lòng của người vợ đứng đợi chồng bên dòng sông mênh mang sóng nước bập bềnh trôi vô tận, giữ đất trời mênh mông tĩnh mịch, nhưng đôi mắt đăm chiêu của người vợ vẫn hướng mãi về phía chân trời mà người chồng đã một lần ra đi. Người vợ vẫn chờ đợi mãi, thách đố cả thời gian bao la, và không gian vô tận, nhưng người chỗng vẫn biền biệt ở một khung trời xa xăm nào đó, đến khi người vợ hóa thành đá xanh, đứng mãi ngàn năm, vẫn ngong ngóng đợi: 
(bản chữ Hán của Mai Tâm) 
Vọng Phu Thạch 
Vọng phu xứ 
Giang du du 
Hóa vi thạch 
Bất hồi đầu 
Sơn đầu nhật nhật phong hòa vũ 
Hành nhân qui lai thạch ưng ngữ 
Vương Kiến 
Dịch nghĩa: 
Ở nơi đứng trông chồng 
Nước sông cuồn cuộn chảy 
Hóa thành đá 
Đầu không ngoảnh lại 
Đỉnh núi ngày ngày đội gió mưa 
Khi nào người (chồng) đi xa trở về thì đá mới nói
Đá Chờ Chồng 
1- Nơi ngóng trông chồng, nước chảy mau 
Đến khi hóa đá chẳng quay đầu 
Mặc cho mưa gió quanh đầu núi 
Chắc đợi chồng về mới nói sau 
2- Bên sông ngồi ngóng trông chồng 
Trăm năm khắc khoải một lòng sắt son 
Hóa thân thành đá mỏi mòn 
Gió mưa vần vũ ... đầu không ngoảnh về 
Phải chăng nàng giữ lời thề 
Đến khi đá nói....lúc nghe chàng về ! 
Hải Đà phỏng dịch 
     Lưu Vũ Tích là nhà thơ Đường có tinh thần bất khuất, mang tư tưởng "hành hiệp trọng nghĩa" của hiệp sĩ, có thái độ xem thường, phản kháng những thói xấu xa, nhỏ nhen, đê tiện của bọn quan lại quyền quí. Ông đã công khai chỉ trích mỉa mai bọn đại thần nịnh bợ. Ông đã bị dèm pha, và mấy lần bị giáng chức đổi đi các tỉnh thật xa. Thi ca của ông bộc lộ những tình cảm tha thiết, đầy nhân bản, những gắn bó yêu thương, những phẩm chất tốt đẹp, đức hạnh, kiên trinh, đáng đề cao và quí trọng của người phụ nữ, điển hình là bài Vọng Phu Sơn, nhưng hòn núi trông chồng trong bài thơ của Lưu Vũ Tích nói về một địa danh ở huyện Dương Đồ, tỉnh An Huy. 
(bản chữ Hán của Mai Tâm) 
Vọng Phu Sơn 
Chung nhật vọng phu, phu bất quy 
Hóa vi cô thạch, khổ tương ti (tư) 
Vọng lai dĩ thị kỷ thiên tải 
Chỉ tự đương thời sơ vọng thì 
Lưu Vũ Tích 
Núi Trông Chồng 
Đợi chồng đâu thấy…suốt ngày trông 
Hóa đá cô liêu, cảm xót long 
Vẫn mãi ngàn năm ngong ngóng đợi 
Ban đầu thuở ấy vẫn chờ mong 
Hải Đà phỏng dịch 
    Lý Bạch trong bài thơ Trường Can Hành, một khúc ca thời xưa, kể chuyện tình của đôi trai gái cùng sống ở xóm Trường Can, yêu nhau từ bé, cô gái lấy chồng năm mười bốn, phải xa chồng năm mười sáu, đã thổ lộ tâm tình nhung nhớ, có đoạn nhắc đến "Vọng Phu đài ", cũng có ý nói lên sự thương yêu chung thủy của nàng: 
"…Thập tứ vi quân phụ 
Tu nhan vị thương khai 
Đê đầu hướng ám bích 
Thiên hoán bất nhất hồi 
Thập ngũ thủy triển mi 
Nguyện đồng trần dữ hôi 
Trường tồn bão trụ tín 
Khởi thượng vọng phu đài …“ 
(trích Trường Can Hành – Lý Bạch) 
"…Lấy chồng năm mười bốn 
Thơ ngây với thẹn thùng 
Cúi gầm bên vách tối 
Chẳng đáp lại một câu 
Mười lăm em khôn lớn 
Nguyện sống chẳng rời nhau 
Ôm cột giữ lời nguyền Vọng phu đài chẳng lên..." 
Hải Đà (trích dịch) 
    Hình ảnh "hòn vọng phu" cũng đã được đem vào thi ca Việt Nam. Ở Lạng Sơn hay ở Bình Định miền Trung giữa cảnh núi non hùng vĩ, nổi bật giữa nền trời xanh, là Hòn Vọng Phu vươn mình lên cao, đó là khối đá hoa cương to lớn bên cạnh một hòn đá nhỏ bé hơn. Thi sĩ Nguyễn Du của đất Thăng Long ngàn năm lịch sử , trong thi phẩm chữ Hán "Thanh Hiên Thi Tập" , cũng đã có bài thơ vịnh Vọng Phu Thạch, muốn nói về "đá trông chồng" , tức là đá Tô Thị vọng phu, ở tỉnh Lạng Sơn, Bắc Việt 
Vọng Phu Thạch (Nguyễn Du) 
Thạch da ? Nhân da ? Bỉ hà nhân ? 
Độc lập sơn đầu thiên bách xuân 
Vạn kiếp diểu vô vân vũ mộng (2) 
Nhất trinh lưu đắc cổ kim than 
Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ (3) 
Đài triện trường minh nhất đoạn văn (4) 
Tứ vọng liên sơn Diếu vô tế (5) 
Độc giao nhi nữ thiện di luân (6) 
Nguyễn Du (Thanh Hiên Thi Tập) 
Theo chú giải của thi sĩ Quách Tấn (Tố Như Thi) như sau: 
Dịch nghĩa đen: 
Đá chăng ? Người chăng? 
Người là ai đó ? 
Đứng một mình trên đầu núi hàng trăm nghìn xuân 
Muôn kiếp không hề có giấc mộng mây mưa 
Một chữ trinh giữ lại được tấm thân xưa và nay 
Ngấn lệ không ngới giọt mưa ba thu 
Chữ rêu ghi mãi lời văn một đoạn 
Nhìn bốn phía núi liền nhau mênh mông không dứt 
Riêng để một mình kẻ nhi nữ giữ vững đạo luân thường
1- Vọng Phu Thạch = Đá Vọng Phu , Ở Việt Nam có Đá Vọng Phu tại Lạng Sơn và Bình Định. Bên Trung Hoa có ở tỉnh Vũ Xương. Nguyễn Du chưa vào đến Bình Định. Bài Vọng Phu Thạch không chép vào Bắc Hành Tạp Lục mà chép vào Thanh Hiên Thi Tập . Như vậy chúng ta có thể quyết đoán rằng bài nầy vịnh Vọng Phu Thạch ở tỉnh Lạng Sơn. 
2- Vân vũ mộng = mộng mây mưa, mộng ái ân. Vua Tương Vương nước Sở đi chơi ở quán Cao Đường nằm mộng thấy giai nhân đến cùng chung gối . Vua phán hỏi, giai nhân đáp: thiếp là Thần Nữ núi Vu Sơn, sớm làm mây, tối làm mưa chốn Dương Đài. 
3- Tam thu vũ = mưa trong ba tháng thu , ngụ ý là Tương Tư "Nhất nhật bất kiến như tam thu hề" (cổ thi) "Ba Thu dọn lại một ngày dài ghê" (Kiều) 
4-Đài triện: ngấn rêu trông hình chữ triện 
5-Diếu = xa xôi, tức chữ Diêu đọc theo thanh sắc 
6-Di luân = Di là Thiên đạo, Luân là nhân văn = luân thường đạo nghĩa (trích Tố Như Thi, bản dịch Quách Tấn) 
Núi Trông Chồng 
(theo bài Vọng Phu Thạch của Nguyễn Du) 
Đá hay người chẳng biết là ai ? 
Đỉnh núi ngàn xuân đứng miệt mài 
Bỏ mộng mây mưa từ vạn kiếp 
Giữ thân trinh tiết đến muôn đời 
Ba thu mưa lệ hoài không dứt 
Một áng văn rêu mãi tuyệt vời 
Núi biếc mênh mông trùng điệp điệp 
Luân Thường phận gái gánh trên vai 
Hải Đà phỏng dịch 
    Bài thơ của Nguyễn Du đã diễn tả được cái cảnh chờ chồng của người thiếu phụ, nhưng cũng đồng thời ca tụng cái đức tính trinh tiết một dạ một lòng của người đàn bà xa chồng…Thi sĩ Quách Tấn là một người có tâm hồn cao rộng, tư tưởng thâm thúy và sâu sắc, cũng trong một bài thơ Đá Vọng Phu của Ông đã có câu: 
"Lụy nhớ mưa ngàn tuôn nượp nượp 
Tóc thề mây núi bạc phơ phơ" 
nói lên cái nỗi sầu bi thảm của người thiếu phụ trông chồng mòn mỏi, bấp chấp cả không gian và thời gian của vũ trụ mênh mông nghìn trùng .. Mặc cho gió táp mưa sa, mặc cho nắng quái mưa dầm, khói sương mù mịt, mây phủ trên đỉnh non cao vời vợi .. nhưng tình chung thủy và lòng tiết trinh của người đàn bà vẫn muôn đời bất biến … 
    Thi sĩ Thái Thuận, biệt hiệu Lữ Đường sống vào đời nhà Lê, đã được nhiều người ca ngợi là thơ Ông không kém gì thơ Đường và thơ Tống. Nhà thơ Quách Tấn là người đã có công bỏ ra nhiều năm dịch và giới thiệu tác phẩm Lữ Đường Thi của thi sĩ Thái Thuận. Trong tập Lữ Đường Thi do thi sĩ Quách Tấn tuyển dịch (NXBVH) có bài thơ Vọng Phu Sơn: 
Hóa thạch sơn đầu kỷ tịch huân 
Thương tâm vô lộ cánh phùng quân 
Thiên nhai mục đoạn niên niên nguyệt 
Giang thượng hồn tiêu mộ mộ vân 
Thanh lệ nhất ban hoa lộ trích 
Ly tình vạn chủng thảo yên phân 
Tương Phi* nhược thức tương tư khổ 
Bất tích ai huyền ký dữ văn 
Vọng Phu Sơn (Thái Thuận) 
Dịch nghĩa: 
Đầu non đã hóa đá bao nhiêu sáng tối rồi 
Đau lòng không có đường gặp lại chàng lần thứ hai 
Năm năm mỏi mắt nhìn bóng trăng cuối trời 
Chiều chiều hồn tan theo những đám mây trên song 
Móc đọng trong hoa nhỏ từng hàng lệ trong trẻo 
Khói vương trên cỏ nảy nở vạn mối tình biệt ly 
Nàng Tương Phi nếu biết được nỗi khổ của kẻ tương tư 
Chớ tiếc giây đàn não nuột, xin gửi đến cùng nghe 
   *Ghi chú: Tương Phi = nàng Phi ở sông Tương. Vua Thuấn băng hà, hai bà vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh khóc ở sông Tương. Nước mắt lẫn huyết rơi vào thân trúc hóa thành những chấm đen. Cổ nhân gọi trúc ấy là Ban ban trúc, và gọi hai bà là Tương Phi . (trích "Lữ Đường Thi" - Quách Tấn tuyển dịch) 
Hóa đá non cao chất tháng ngày 
Gặp chàng biết có nẻo nào đây? 
Chân trời mắt mỏi năm năm nguyệt 
Mặt sóng hồn tan lớp lớp mây 
Sương đọng lòng hoa rơi giọt thảm 
Khói vương sắc cỏ rối niềm tây 
Tương Phi ví biết tương tư khổ 
Dây gởi sầu dây gởi gắm dây 
Núi Vọng Phu (bản dịch Quách Tấn) 
   Trong tập thơ Tây Hồ của Nhà cách mạng Phan Châu Trinh cũng có bài thơ vịnh Vọng Phu Thạch như sau. 
Vọng Phu Thạch (Phan Châu Trinh) 
Hạn vận: không chồng trông bông long 
Sự tám mươi đời (1) có biết không? 
Người chăng? hay đá? vợ chăng? chồng? 
Đi đâu đến nỗi quên tin tức? 
Đứng đó bao giờ luống đợi trông? 
Tu vậy hay sao, đầu trụi lủi
Khóc chi lắm hử ? mặt phồng bong 
Trời cao bể rộng người còn mất
Biết nặng hòn non, nhẹ cái lông? 
Phan Châu Trinh (Bình Định 1905) 
Chú thích: 
(1) Sự tám mươi đời: việc xãy ra từ xưa, từ lâu lắm rồi, người ta thường nói "việc tám mươi đời vương, bảy mươi đời đế" 
(2) Theo tác giả Vũ Tiến Quỳnh thì "Tây Hồ Thi Tập của cụ Phan Châu Trinh gồm những bài thơ quốc âm, tuy chỉ ghi được 70 bài, tập thơ nầy rất đa dạng: có thơ châm biếm, thơ đùa bạn, thơ tán tĩnh phụ nữ, thơ tả cảnh, thơ thuật hoài, ngôn chí, thơ khóc viếng người mất . Bài "Vọng Phu Thạch" nghịch ngợm một cách trang nhã và diễn tả như trên " (VTQ) . Tuy là lời thơ "nghịch ngợm" , nhưng câu cuối của bài thơ "Biết nặng hòn non, nhẹ cái lông ?" là muốn đề cao cái đức hạnh, phẩm cách, tiết tháo, trung kiên của người phụ nữ biết rằng "có cái chết nặng như Thái Sơn, có cái chết nhẹ tựa lông hồng …", chẳng sá gì xác thân, miễn sao giữ toàn vẹn cái chính nghĩa mà mình theo đuổi, và trong trường hợp này là cái đức tính trinh tiết một lòng một dạ của người đàn bà . Bài thơ Vọng Phu Thạch của cụ Phan Châu Trinh muốn nói đến một sự tích (huyền thoại) ở huyện Phù Cát (tỉnh Bình Định) có hòn đá nhìn xa giống như người mẹ bồng con. Truyền thuyết kể rằng: xưa có hai anh em róc mía, tranh nhau ăn, người anh nổi giận cầm dao chém vào đầu em gái, rồi hoảng sợ, trốn đi; về sau, họ lưu lạc mỗi người một phương nào không biết, mà sau này người anh lấy phải em . Nhân ngồi bắt chấy cho vợ, chồng thấy sẹo trên đâu vợ, hỏi sự truyện nguyên do, nhờ vậy mà người anh mới biết được là mình lấy lầm em gái làm vợ. Người anh hối hận vô cùng, bèn thác cớ đi buôn, theo buồm vào nam rồi đi biền biệt không bao giờ trở về. Người vợ hàng ngày ẵm con ra đứng ở bờ biển trông chồng, mãi không thấy, hóa đá tại đó, nhiều nhà thơ đã đề vịnh đá Vọng Phu Phù Cát. 
(3) Núi Vọng Phu là một trong những địa danh nổi tiếng của tỉnh Bình Định, như ca dao đã nói: "Bình Ðịnh có núi Vọng Phu, Có đầm Thị Nại, có cù lao Xanh .." Nhà giáo Phạm Khắc Trí trong một lần về xứ, một buổi sáng đi ngang qua núi Vọng Phu ở Bình Định, trên đường từ Qui Nhơn vào Nha Trang, khi nhìn thấy hòn đá mẹ bồng con, một hình tượng kiên trinh giữa trời đất mênh mông, bất chấp thời gian vô tận, đã làm ông bồi hồi nhớ lại bài thơ của người xưa Vương Kiến mà động lòng cảm xúc: 
Đứng ngóng chồng 
Sông mênh mông, 
Hóa thành đá, Vẫn một lòng. 
Đầu non mưa gió ngàn năm đợi, 
Người về nghe được đá khóc không? 
dịch thơ Hòn Vọng Phu (Phạm Khắc Trí) 
    Câu truyện "Nàng Tô Thị" cũng có một nội dung gần giống ở trên, kể về hai anh em Tô Văn và Tô Thị. Hai anh em nô đùa với nhau, người anh (Tô Văn), ném đá trúng đầu em gái (Tô Thị), bị thương chảy máu nhiệu Người anh sợ quá bỏ trốn đi. Rồi sau nầy, em gái mở quán nem ở Kỳ Lừa, và người anh đem thuốc Bắc từ Cao Bằng về Lạng Sơn bán, và hai người gặp và lấy nhau. Và sau đó cũng vì khám phá vết sẹo trên đầu vợ, mà người anh lấy cớ nhà vua bắt lính thú mà phải lên đường ra đi. 
   "Rồi kỳ hạn cũng hết, nàng trông đợi chồng đỏ cả mắt mà chàng vẫn không về cho. Nàng ôm con lên chùa Tam Thanh kêu cầu. Hôm ấy, trời nổi cơn giông. Nàng nhớ chồng, thương thân, bế con ra ngoài chùa, trèo lên một mỏm đá cao chót vót, nhìn về hướng chồng đi. Mây đen kéo đầy trời. Gió rít lên từng hồi qua khe đá. Mưa như trút nước. Chớp lòe khắp núi. Nàng vẫn bế con đứng trơ trơ, đăm đăm nhìn về hướng chồng đi. Toàn thân quả núi rung chuyển dưới những luồng sét dọc ngang. Mưa mỗi lúc một to. Tô Thị vẫn bế con đứng trơ trơ trên mỏm đá cao chót vót. Sáng hôm sau, mưa tạnh, gió yên, mặt trời tỏa ánh sáng xuống núi rừng. Nàng Tô Thị bế con đã hóa đá tự bao giờ. Ngày nay, còn truyền lại câu ca: 
"Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa 
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh..." 
(Vũ Ngọc Phan kể) 
    Hồ Dzếnh, một thi sĩ nổi tiếng của nền thi ca tiền chiến mà nhà văn Mai Thảo đã ghi lại cảm nghĩ: "thơ Hồ Dzếnh tiền chiến là cái trạng thái ngu ngơ trong suốt nhất của một tiếng thơ mà chủ đề là tình yêu và ánh sáng …". 
    "Núi Vọng Phu" là một trong những bài thơ hay của ông dạt dào ý tình "Quê Ngoại" đã lưu lại dấu ấn hằn lên những nỗi "nhớ rêu phong hồn cẩm thạch", và Ông đã để cảm xúc dâng trào ngọn bút khi được chiêm nghiệm hòn vọng phu, mang hình ảnh "đỉnh núi mọc hình người" mà ông hồi nhỏ thường thắc mắc hỏi mẹ: 
Núi Vọng Phu 
Nghe nói ngày xưa biển ở đây 
Biển đi để lại núi non này 
Mưa nguồn chớp bể chia hai ngả 
Hòn vọng phu thương vọng hải đài 
Thuở nhỏ tôi thường hay hỏi mẹ 
Vì sao đỉnh núi mọc hình ngườỉ 
Đợi chồng lâu quá nên thành đá 
Hòn vọng phu kia đứng với đời 
Tôi lớn dần lên đá vẫn chờ 
Khi xa heo hút giữa sương mờ 
Khi gần sừng sững chiều biên giới 
Như bức phù diêu nét chửa khô 
Không chỉ quê tôi núi đợi chồng 
Còn nhiều nơi khác cảnh chờ mong 
Bắc Nam đâu cũng niềm son sắt 
Tạc giữa trời cao dáng thủy chung 
Ôi nhớ rêu phong hồn cẩm thạch 
Mối tình vời vợi giữa không gian 
Bốn nghìn năm ấy bao sương gió 
Mà vẫn đinh ninh thiếp đợi chàng 
Hồ Dzếnh 
    Vườn thơ tình của Du Tử Lê luôn xanh tươi mơn mởn, mỗi bài thơ tình của ông là một đóa hoa diễm tuyệt, hé nở một cách tự nhiên . Lời thơ là những cảm xúc dạt dào, nhỏ nhẹ, thiết tha, và êm ái . Hình ảnh "vọng phu" cùng đã một lần được người thơ làm sống động một cách duyên dáng, ẩn chứa một chút hoài niệm làm nao lòng
em về trong bão giông tôi 
que diêm Đông Hải, dáng ngồi vọng phu 
lệ còn trên gối, tôi thu 
bàn tay ngón út giam tù tháng năm 
Em Về Thăm Thẳm Núi Non (Du Tử Lê) 
    Hình ảnh người thiếu phụ đã hóa thành đá, nhưng hình tượng đó không phải là vật vô tri vô giác, mà lại được người thơ linh động hóa "giọt lệ còn rưng rưng ... ", một chút gì huyền hồ hư ảo, nhưng đã gợi lên cảm xúc dào dạt, nồng nàn .. 
Ta thành hoa vọng phu 
Để tang chàng hiệp sĩ 
Thắm đỏ mà cho ai 
Thôi đành thôi, tái nhợt... 
Người gọi ta hoa đá 
Lòng ta đâu lạnh lùng 
Hãy ngắm nhìn cho kỹ 
Giọt lệ còn rưng rưng ... 
Sự Tích Hoa Đá (Lâm Thị Mỹ Dạ) 
    Thi sĩ Hoàng Mạnh Giao trong thi phẩm "Quê Hương Xứ Người và Đời Tôi", đã gắn liền hình ảnh người phụ nữ với tấm lòng hy sinh cao cả, đức tính quảng đại bao la, trung hậu đảm đang, luôn nhẫn nhục chịu đựng, trước những đổi thay của thời cuộc. Phải chăng người thơ đã muốn đề cao đức hạnh những người phụ nữ Việt Nam trong cuộc chiến đã vượt qua bao gian truân thử thách, chống chọi nhiều nghịch cảnh đau thương, để vẹn toàn hai chữ "thủy chung" ... 
Ôm con khóc hận mấy thu đông 
Mong đợi tin chồng mãi ngóng trông 
Chống gió đêm ngày trăm hận tủi 
Ngàn mưa năm tháng, chẳng phai lòng 
Tấm trinh, quyết giữ tròn ân nghĩa 
Thể xác đành cam phận má hồng 
Mong đợi tin chồng thân hóa đá 
Muôn đời tiết nghĩa rạng non song 
Vịnh Đá Vọng Phu (Hoàng Mạnh Giao) 
   Cái hình ảnh đẹp đó với phẩm cách cao thượng cũng đã được đem vào những áng thơ diễm lệ suy tôn người tình muôn đời yêu dấu, một cảm nhận hiền hòa trìu mến như mãi gắn bó, bền chặt trong tâm hồn người thơ: 
Đêm qua mơ thấy bóng em 
Canh khuya một bóng chong đèn đọc thơ 
Không gian trầm lắng như tờ 
Tóc mây sợi nhỏ buông hờ lẻ loi 
Đêm khuya tiếng vạc xa vời 
Ôm con lệ đổ khóc đời vọng phu 
Mịt mờ khuya sớm đèn lu 
Giật mình thức dậy mấy thu qua rồi 
Mơ (Bảo Cường) – 1979 
      Biểu tượng "vọng phu", thấm đượm màu sắc nhân gian, đã được người thơ gửi gắm một chút lòng mộc mạc, thiết tha, chân tình đến người vợ thủy chung, mang hình ảnh hy sinh, chịu đựng, nhọc nhằn, lo lắng, chắt chiu .... đã tạo được một chân dung tinh thần vĩnh cửu của văn hóa dân tộc phương Đông: 
trong thơ xưa ai gánh gạo đưa chồng 
hay vẫn chỉ là em nỉ non tiếng khóc 
hay vẫn chỉ là em bốn mùa khổ nhọc 
hồn vọng phu đã lội mấy sông đời? 
Thơ Tặng Vợ Nhà (Hoàng Lộc) 
    Hình ảnh "vọng phu thạch" cũng đã được đưa vào vọng cổ, trong một bài nhiều người biết đến là Dạ Cổ Hoài Lang. "Bản vọng cổ, trước hết có tên là Dạ Cổ, do ông Cao Văn Lầu, tục gọi là Sáu Lầu ở Bạc Liêu sáng chế vào năm 1920 (ba năm sau khi cải lương ra đời). Sanh năm 1890, ông Sáu Lầu được 30 tuổi khi ông chế bản vọng cổ. Lúc ấy ông cưới vợ được 10 năm, nhưng không có con. Cha mẹ buộc ông phải cưới vợ khác vì sợ tuyệt tự . Ông buồn rầu không còn muốn làm ăn gì nữa. Ban ngày ra ngoài đồng, ông nghiền ngẫm những lời vợ ông nói với ông trước khi chia tay, ông vốn biết đờn cổ nhạc nên trong tâm trạng người chồng đau khổ trước cảnh gia đình tan rã, ông cảm hứng tạo ra bản nhạc 20 câu gọi là "Dạ Cổ Hoài Lang" (Đêm khuya nghe tiếng trống nhớ chồng) có ý để kỷ niệm mối tâm tình của vợ ông đối với ông" (GS Trần Văn Khải sưu tầm) 
      Bàn về bài vọng cổ nầy, GS Trần Văn Khê có lời bình: "Nhớ người ra đi, nhắc người đừng phụ tình bạc nghĩa. Người ở nhà mòn mỏi trông tin nhạn, luôn luôn mong mỏi từng giây phút trùng phùng. Tâm trạng đó là tâm trạng chung của nhiều thiếu phụ Việt Nam thời bấy giờ. Vì bổn phận, vì nhiệm vụ chồng phải "chấp kiếm lên đường", đi ra biên ải. 
    Cái buồn dính liền với bản chất người Việt Nam đa tình, đa cảm, hay quyến luyến, hay bịn rịn, dầu sanh ly hay tử biệt, khó cắt đứt sợi dây vô hình cột chặt người ở lại với người ra đi. 
     Bài Dạ Cổ Hoài Lang gợi lên được cái buồn bí ẩn trong thâm tâm của con người Việt Nam. Trong cổ nhạc Việt Nam chưa có bài nào, bản nhạc nào được như bài Dạ cổ hoài lang, biến thành "Vọng cổ", từ một sáng tác tập thể, sanh ra từ thế kỷ, lớn lên, sống mạnh, phát triển không ngừng, biến hóa thiên hình vạn trạng, mà sẽ còn sống mãi trong lòng người Việt trong nước và rải rác khắp năm châu. (GS. Trần Văn Khê , Paris – 1998) 
Dạ Cổ Hoài Lang 
(nhịp đôi) 
Từ là từ phu tướng 
Bửu kiếm sắc phong lên đàng 
Vào ra luống trông tin chàng 
Đêm năm canh mơ màng 
Em luống trông tin nhàn 
Ôi, gan vàng quặn đau 
Đường dầu xa ong bướm 
Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang 
Còn đêm luống trông tin bạn 
Ngày mỏi mòn như đá vọng phu 
Vọng phu vọng, luống trông tin chàng 
Lòng xin chớ phụ phàng 
Chàng hỡi chàng có hay 
Đêm thiếp nằm luống những sầu tây 
Biết bao thuở đó đây xum vầy 
Duyên sắt cầm đừng lợt phai 
Thiếp cũng nguyện cho chàng 
Nguyện cho chàng hai chữ bình an 
Mau trở lại gia đàng 
Cho én nhạn hiệp đôi 
(Trích sách "Nghệ Thuật Sân Khấu" của Trần Văn Khải) 
      Cố nhạc sĩ Lê Thương đã để lại cho nền âm nhạc Việt Nam ba tuyệt tác đó là Hòn Vọng Phu 1 , Hòn Vọng Phu 2, và Hòn Vọng Phu 3. Trong 3 nhạc phẩm của Ông đều có hình ảnh của người thiếu phụ bồng con ngóng trông chồng ở bến sông. Người chồng là chinh phu ra đi vì lời thề cùng non sông đất nước, chẳng hẹn ngày về. "Người mong chồng còn đứng muôn năm"... đã nói lên cái đức tính thủy chung muôn đời của người phụ nữ Việt Nam, luôn chịu đựng, hy sinh, nhẫn nhục trong thời chiến, đã trải qua bao nhiêu thử thách đắng cay trên đường đời: 
Vui ra đi rồi không ước hẹn ngày về, 
ai quên ghi vào gan đã bao nguyện thề. 
Nhìn chân trời xanh biếc bao la, 
người mong chờ vẫn nhớ nơi xa 
Bao nhiêu năm bồng con đứng đợi chồng về, 
bao nhiêu phen thời gian xóa phai lời thề, 
người tung hoành bên núi xa xăm, 
người mong chồng còn đứng muôn năm 
Vọng Phu 1 (Lê Thương) 
    "Đá mòn nhưng hồn chưa mòn giấc mơ", mặc cho gió mưa vần vũ, giữa trời mây bao la bát ngát nghìn trùng, nhưng "giấc mơ chờ chồng" vẫn không bao giờ phai nhòa trong trâm trí của người thiếu phụ, vẫn muôn đời đạo nghĩa sắc son, chỉ mong đợi một ngày chàng trở về hiên ngang, oai hùng trong chiến thắng, khải hoàn ca. 
Người vọng phu trong lúc gió mưa, 
Bế con đã hoài công để đứng chờ, 
Người chồng đi đã bao năm chưa thấy về 
Đá mòn nhưng hồn chưa mòn giấc mơ 
Vọng Phu 2 (Lê Thương) 
    Cũng với hình ảnh "ai bế con mãi đứng chờ" trong Vọng Phu 3, trơ như đá, vững như đồng, mặc cho sự đố kỵ của thế nhân, sự thử thách của thời gian và vũ trụ, vẫn đăm đăm trông ngóng chồng về. Nhạc sĩ Lê Thương trong Vọng Phu 3, đã tạo dựng hình ảnh người chinh phu đã trở về với khúc ca khải hoàn, nhưng than ôi, có còn chăng chỉ là thương tiếc, nghẹn ngào, tê tái, vấn vương "từ bóng cây ngôi mộ bên đường"…một uẩn khúc muôn đời, làm rơi lệ, xao động lòng người khôn nguôi … 
Nơi phiá Nam giữa núi mờ 
Ai bế con mãi đứng chờ 
Như nuớc non xưa đến giờ? …
Nhớ cố huơng lưu luyến sao tiếng tấc lòng mau dồn chân 
Vết buớc đi trên phím đá mòn còn in dấu 
Từ bóng cây ngôi mộ bên đuờng 
Từ mái tranh bên đỉnh trong làng 
Nguồn sử sanh âm thầm vẫn sống 
Bao mối thuơng vang dậy trong long 
Vọng Phu 3 (Lê Thương) 
    Qua những ca khúc của nhạc sĩ Lê Thương hình ảnh của Hòn Vọng Phu bỗng trở nên uy nghi lẫm liệt trong lịch sử, văn hóa dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống tôn trọng đạo lý làm người, hình ảnh cảm động đó đứng sừng sững và chế ngự tâm tư , tình cảm của mọi người qua bao biến thiên thăng trầm của thời đại và lịch sử… 
Kết luận: Hòn Vọng Phu là hình ảnh gợi cảm của người mẹ bồng con bên bến sông, giữa cảnh tĩnh mịch mênh mang của đất trời vô tận, mắt đau đáu nhìn về một phương trời xa thẳm, ngóng đợi chờ mong người chồng ra đi đã lâu mà chưa về lại. Những hình ảnh xúc cảm đó đã thấy ở Trung Hoa và vài nơiø tại Việt Nam, đã luân lưu và hằng sâu trong trí tưởng nhân gian từ nghìn xưa cho đến ngàn sau. Những câu truyện kể lại mặc dầu chỉ là huyền thoại, nhưng hình ảnh "mẹ bồng con" đó đã biểu tượng cho đức tính thủy chung cao đẹp muôn đời của người phụ nữ Việt Nam, nhất là trong thời chiến, vẫn hy sinh chịu đựng, một đời tận tụy, lo âu khổ cực trăm chiều vì chồng con. Hình ảnh gợi cảm, trìu mến , thấm tận đáy lòng đó, là tặng phẩm tuyệt tác của tạo hóa ban cho con người, là biểu tượng của truyền thống yêu thương của dân tộc, đã là đề tài cho nhiều áng thơ tha thiết nồng nàn, dòng nhạc chan chứa trữ tình trong thi ca. 
Vọng Phu Thạch 
Thơ Phóng Tác: Vương ngọc Long 
Nhạc: Mai Đức Vinh 
Lênh đênh sóng nước bập bềnh trôi 
Lơ lửng mây bay phủ núi đồi 
Tiễn biệt người đi sầu chất ngất 
Bẽ bàng thiếp với nỗi đơn côi 
Ngồi ngóng trông chồng tận bến song 
Dạt dào con nước chảy mênh mông 
Chàng đi chinh chiến bao giờ lại 
Hóa đá xanh rêu …thiếp đợi chàng 
Đã mấy thu rồi đã mấy thu 
Sầu giăng mắt lệ kiếp phù du 
Thiếp thân hoa lạnh trong hồn đá 
Ôm bóng người đi khói tỏa mù 
Ngày qua mòn mỏi đợi chờ ai 
Xót nỗi cô liêu đá ngậm ngùi 
Vẫn mãi ngàn năm ngong ngóng đợi 
Ban đầu thuở ấy chẳng mờ phai … 
Đầu không quay lại .. nhớ thương người 
Dãi gió dầm mưa giữa đất trời 
Mong nhớ ! chàng ơi ngày trở lại 
Reo vui đá bỗng thốt nên lời 
Đã mấy thu rồi đã mấy thu 
Sầu giăng mắt lệ kiếp phù du 
Thiếp thân hoa lạnh trong hồn đá 
Ôm bóng người đi khói tỏa mù ... 
Hải Đà 
Ghi chú: Chân thành cám ơn anh Mai Tâm đã gửi tặng tấm hình và các bản viết chữ Hán. và thi sĩ Phạm Khắc Trí đã gửi tặng tấm hình Hòn Vọng Phu-Bình Định và bài thơ dịch của tác giả .
                        Hoa Trong Nhac
Hải Đà - Vương Ngọc Long




1 nhận xét:

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầy ...