Thứ Ba, 19 tháng 5, 2015

Giải mã bài thơ “Phong Kiều Dạ Bạc” của Trương Kế

Giải mã bài thơ “Phong Kiều Dạ Bạc” của Trương Kế
Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên,
Giang phong, ngư hoả đối sầu miên.
Cô tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thinh đáo khách thuyền.
Tạm dịch :
Trăng lặn, quạ kêu, sương kín trời,
Lửa chài, cây bến trước buồn ngơi.
Hàn San chùa cổ ngoài Cô phủ,
Khuya khoắt chuông vang vọng tới người.
Đây là một tuyệt tác của nhà thơ Trương Kế và cũng là một kiệt tác của thơ Đường.Từ khi ra đời cho tới nay, nó đã được các nhà thơ cũng như những nhà nghiên cứu  quan tâm bình giảng. Tựu trung ai cũng đều công nhận đây là một kiệt tác. Tuy nhiên rất ít người bình giảng bài thơ này một cách toàn diện, mà chủ yếu là tập trung vào việc chú thích các từ ngữ, trong đó thường tập trung ở câu 2 và 4. Từ đó người ta thường nghĩ : Vì buồn nên nhà thơ không ngủ được, vì không ngủ được nên nhà thơ mới có được bài thơ tuyệt tác này để lại cho đời. Nghĩ như thế có lẽ do cụm từ “ĐỐI SẦU MIÊN” trong câu 2. Chính vì vậy câu này đã có nhiều ý kiến khác nhau. Còn vấn đề nghĩa của hai từ “DẠ BÁN” ở câu bốn đến nay vẫn  chưa giải quyết được
- Vậy  nghĩa của từ “sầu miên” như thế nào? Có phải TK do buồn vì thấy cảnh trăng lăn, quạ kêu mà không ngủ được hay vì một lý do nào khác?
- Có đúng  là  chuông chùa Hàn San được đánh vào lúc nửa đêm không? Hay là đây là một ngữ bịnh(tỳ vết) của bài thơ?
- Thông điệp mà TK muốn gởi đến người đọc là gì?
Trước hết xin ghi lại đây cách dịch  và hiểu của một số dịch giả về bài bài thơ này :
Đêm neo thuyền ở bến Phong Kiều
Câu 1
Trăng lặn, quạ kêu,sương đầy trời,
Câu 2:
1- Nguyễn Quảng Tuân: “Khách nằm trong thuyền ngó  ra ngoài thấy hàng cây phong ở trên bờ sông và những ánh đèn  thuyền chài trước bến trong lòng sinh ra buồn bã nên cứ mơ màng không ngủ được”.(1)
2- Nguyễn Khuê: “Hàng cây phong bên bờ sông và ánh đèn thuyền chài đối cùng khách đang thao thức sầu”.(2)
3- Nguyễn Thị Bích Hải: “Cây phong bên bờ sông, ngọn lửa đèn chài,(khách) ngủ với nỗi buồn”.(3)
4- Nguyễn Cảnh Phức:  “Rặng cây phong bên bờ sông và ngọn lửa trên thuyền chài đang đối diện với nhau mà ngủ một cách buồn rầu”.(4)
Câu 3
Ở ngoài thành Cô Tô có chùa Hàn San
Câu 4
Trần Trọng Kim, Tản Đà dịch :
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.(5)
Ngô Tất Tố dịch :
Tiếng chuông đưa đến bên đò canh khuya.
Bùi Khánh Đản dịch :
Đêm muộn chuông ngân vẳng đến thuyền.
Trần Trọng San dịch :
Nửa đêm chuông vẳng đến thuyền ai.
Nguyễn Khuê dịch :
Thuyền khách đêm khuya vẳng tiếng chuông.
Còn rất nhiều người dịch bài thơ này, ở đây xin nêu một vài người tiêu biểu.
Như vậy câu 2 đã có nhiều ý kiến khác nhau. Câu 4 tuy có nhiều cách dịch như thế, chủ yếu là dựa vào cảnh trong bài thơ chứ đến nay chưa ai lý giải tại sao “DẠ BÁN” lại được dịch như vậy. Do đó hai từ“DẠ BÁN”   vẫn chưa giải quyết được.
Ngoài những ý kiến trên, còn có một số ý kiến khác về các từ  Giang phong, ngư hoả, sầu miên như sau:
Nguyễn Dậu trong bài “Đôi điều thâu lượm quanh Hán tự” viết:(6)
“Nếu ai có dịp đi qua Cô Tô, hãy đến cầu Phong ở phía tây thành có bến Cô Tô. Hai bờ sông có hai ngọn núi đối ảnh sơn, một núi mang  tên Giang Phong một núi mang tên Ngư Hoả. Vậy Giang Phong và Ngư Hoả trong thơ không dính gì đến cây phong và lửa nhà chài cả”.
Còn trong quyển “ Hội đồ Thiên Gia thi” (7) Chung Bá Kính có ý kiến khác như sau:
Nguyên văn:
“Giang Phong thị danh, Sầu Miên sơn danh, Ngư Hỏa thuyền thượng hoả, Cô Tô thành tức Tô Châu thành, Hàn San tự hữu Phật danh Hàn San, Nguyệt Lạc, Ô Đề dạ thâm chi thời dã. Tư thời sương lạc mãn thiên, Giang Phong thị chi ngư hoả điểm điểm dữ  Sầu Miên sơn tương đối nhi thành ngoại tự chung dạ bán thanh văn vu khách thuyền chi thượng giang, trung dạ cảnh cái như thử ”(*)
Tạm dịch:
“ Giang Phong tên chợ, Sầu miên  tên núi, Ngư hoả là ánh lửa trên thuyền chài, Cô Tô thành tức thành Tô Châu, Hàn Sơn tự có Phật tên Hàn San, Nguyệt lạc, Ô đề nghĩa  là đêm đã khuya. Vào lúc ấy sương xuống đầy trời, những ánh đèn chài bên chợ Giang phong lấp lánh cùng đối diện với núi Sầu miên mà (trong lúc ấy) tiếng chuông chùa ở ngoài thành Cô Tô nửa đêm vọng tới khách thuyền trên sông, cảnh trong đêm là như vậy”.
Sau bài viết của ông Nguyễn Dậu, ông Mai Quốc Liên đã viết rằng :
“Chẳng lẽ tất cả các học giả người Trung Hoa đều dốt địa lý và quan liêu ngồi nhà chú sai, hiểu sai thơ đến như thế”(8).
Ông Lý Việt Dũng đã viết trong báo Văn Nghệ như sau:
“GIANG PHONG” và “NGƯ HOẢ” phải hiểu là “cây phong bên sông và ánh lửa của người thuyền chài” vì “tuyệt nhiên chưa từng thấy sách nào chú đó là tên hai ngọn núi cả”.(9)
Còn đối với cách chú giải của Chung Bá Kính thì tôi thấy có nhiều điều không hợp lý có thể nêu ra sau đây:
- Tại sao chợ Giang Phong chỉ có đèn chài không thôi, không lẽ chợ chẳng có đèn đóm gì hay sao?
- Có lẽ nào các thuyền chài lại đánh cá nơi chợ? Còn nếu các thuyền chài buôn bán cá ở chợ thì nhất định ánh đèn của chợ sẽ sáng gấp bội phần ánh đèn chài, do đó nhà thơ không thể thấy đèn chài, hơn nữa, nếu chúng ta dựng lại hình ảnh như TK mô tả trong thơ thì thấy thật vô lý, bởi vì sương đầy trời mà với chỉ vài ngọn đèn chài lấp lánh thì làm sao mà thấy ngọn núi để mà tương đối cho được.
Như thế ta thấy những chú thích của ông Nguyễn Dậu và Chung Bá Kính tuy mới nhưng thiếu tính thuyết phục. Vì vậy tôi nghĩ rằng cách giải  thích hai từ  “GIANG PHONG” và “NGƯ HOẢ” như  ông các Lý Việt Dũng và Mai Quốc Liên và sách Đường thi tam bách thủ là phù hợp hơn.
Còn đối với từ “SẦU MIÊN” thì chúng ta thấy rằng hầu hết những người dịch bài thơ này, Trung Hoa cũng như  Việt Nam, đều thống nhất “SẦU MIÊN” là tâm trạng thao thức sầu muộn của tác giả, ngoại trừ  Nguyễn Cảnh Phức.
I  VỀ NGHĨA CỦA TỪ “SẦU MIÊN”
Để tìm hiểu từ “SẦU MIÊN” có nghĩa như thế nào trước hết hãy phân tích cách dùng từ của tác giả trong bài này như thế  nào.
Theo tôi ta có thể viết lại cấu trúc bài thơ ấy như sau:
1-  Nguyệt   lạc,   ô  đề,  sương   mãn thiên, giang  phong, ngư  hoả         đối      sầu  miên
C  V      C   V       C                V                                                                            .
CHỦ NGỮ                                                                                                          VỊ   NGỮ
2-  Cô Tô thành ngoại  Hàn San tự,     dạ   bán ,    chung    thanh             đáo     khách thuyền                                                                          
C       V               C             V    .             .                                  .
CHỦ NGỮ                                                                                      
VỊ   NGỮ
Nhìn vào câu 1  ta thấy Trương Kế đã sử dụng các cụm từ “ nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên” kỳ thực là những câu hoàn chỉnh (xem ở cuối bài) nhưng tác giả đã tỉnh lược lại thành những  ngữ danh từ tương đương với danh từ ghép “giang phong, ngư hoả” với chức năng chủ ngữ, ở vị ngữ ta có động từ “ĐỐI” do đó ta có thể chắc chắn rằng “SẦU MIÊN” là danh từ ghép để cân xứng với các ngữ danh từ và danh từ ghép ở chủ ngữ. Như vậy giờ đây ta hãy xem danh từ ghép “SẦU MIÊN” nghĩa như  thế nào?.
Như ta biết Trương Kế sau gần cả đêm thức trắng, về mặt sinh lý thì dĩ nhiên cơ thể muốn ngủ, nhưng do suy nghĩ quá nhiều về một vấn đề gì đó nên không thể ngủ được, để nói lên tâm trạng này Trương Kế diễn tả qua các hình ảnh, âm thanh mà ông cảm nhận lúc đó. Ta thấy trong tám đối tượng (5 ở hai câu trên (Trăng lặn, quạ kêu, sương kín trời, lửa chài, cây bến) và 3 ở hai câu cuối (thành Cô Tô, chùa Hàn San, tiếng chuông)  mà Trương Kế nêu ra thì hết bốn thuộc về sự cảm nhận của mắt (thị giác), hai thuộc về cảm nhận của tai (thính giác) và hai  thuộc về cảm nhận của tư duy (tri giác). Dựa vào cấu trúc trên ta có thể hình dung ra được một người nằm trong thuyền, cơ thể thì thúc giục cơn buồn ngủ mà tinh thần thì vẫn còn tỉnh táo, vẫn cảm nhận được mọi thứ trước mặt, chung quanh bên ngoài (ĐỐI). như vậy ta có thể nói rằng không chỉ có giang phong, ngư hoả đối sầu miên mà cả nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên và cảtiếng chuông cũng đối sầu miên, bởi vì tất cả những thứ đó đều xảy ra trong cùng một thời điểm, cùng tác động lên tâm hồn tác giả. Như cấu trúc 1 và 2 cho thấy sầu miên là trạng thái của khách thuyền. Chính vì vậy nghĩa của từ “SẦU MIÊN” không những chỉ được khẳng định bởi  Câu 1 và câu 2 mà cả câu 3 và 4  nữa.
Như đã phân tích trên, từ  “SẦU MIÊN” là một danh từ ghép, trường hợp này là từ ghép chính phụ, trong đó từ “SẦU” bổ nghĩa cho từ “MIÊN” và có nghĩa là  “THAO  THỨC” hay “TRẰN TRỌC”.
Như vậy ta có thể nói rằng nguyên nhân khiến cho Trương Kế không ngủ được chính là “sầu muộn, lo âu” sở dĩ ta biết được điều đó là dựa vào từ “sầu”,  căn cứ vào những cảm quan mà bài thơ mang lại. Nhưng cũng có người cho rằng nếu lấy từ “sầu” trong “sầu miên” để cho ta nghĩa “ buồn” thì còn lại từ “miên” làm sao dịch là “thao thức” thậm chí họ nêu câu hỏi rằng “hay có tự điển nào định nghĩa “MIÊN” có nghĩa là thao thức” (11).
Tuy nhiên trong văn chương không phải khi nào chúng ta cũng hiểu một cách cứng nhắc như vậy; bởi vì nếu ta cứ phân tích và hiểu theo cách đó thì những câu như: “ Đau xé lòng anh chết nửa con người” hay “người đi một nửa hồn tôi mất, một nửa hồn kia bỗng dại khờ” về mặt y học  thì  không thể chấp nhận được, nhưng trong văn học thì thật tuyệt vời. “Văn dĩ tải đạo”, “Ý tại ngôn ngoại”  là vậy.  Do đó Trương Kế dùng từ “ sầu” ở đây là cố ý .
II - CÓ PHẢI TRƯƠNG KẾ BUỒN, KHÔNG NGỦ ĐƯỢC VÌ THẤY CẢNH TRĂNG LĂN QUẠ KÊU...........KHÔNG?
Như  đã đề cập ở trên Trương Kế không ngủ được là vì buồn rầu, lo âu, nhưng ông buồn rầu, lo âu điều gì? Từ trước đến nay hầu như ai cũng nghĩ là Trương Kế thao thức không ngủ được vì buồn, hay do buồn vì thấy cảnh trăng lặn, quạ kêu …… lửa chài, cây bến, mà không ngủ được như Đường Thi Tam Bách Thủ (ĐTTBT) độc bản của Sổ nghiêu tuyển tập (10) đã giảng:
Nguyên văn:
“Ngã kim tại giá Phong Kiều hạ đình thuyền trụ túc, chỉ kiến nguyệt lượng lạc hạ khứ đích thời hầu, ô nha tại thụ thượng đề khiếu, mãn thiên giáng trước nùng sương, giang biên đích phong thụ hoà ngư thuyền thựơng đích đăng quang, chính đối trước ngã giá cá ưu sầu bất đắc thành miên đích nhân”
Tạm dịch :
“ Đêm nay  tôi neo thuyền tại bến Phong kiều, thấy ánh trăng càng lúc càng xa mờ đi, trên cây đàn quạ kêu , đầy trời sương giăng mù mịt, những  cây phong bên sông cùng ánh đèn chài lấp lánh trước mặt, làm cho tôi ưu sầu không sao ngủ được “.
Có lẽ vì sách ĐTTBT giảng như thế nên ở Việt Nam, chúng ta cũng nghĩ như thế chăng? Thật ra Trương Kế đã thức suốt đêm rồi, những gì được tả trong thơ  thuộc về cuối đêm, nên đâu phải vì thấy khung cảnh như thế sinh buồn không ngủ được. Hơn nữa nếu hiểu như vậy thì đơn thuần bài thơ chỉ là một bài tả cảnh, vậy đâu là thông điệp của bài thơ, chắc chắn ai cũng biết rằng thông điệp mà TK muốn gởi đến người đọc nằm đằng sau những gì ông mô tả trong bài thơ. Thông điệp ấy như thế nào tôi sẽ đề cập tới trong phần sau, nhưng có một điều ta hiểu được là ông  rất lo âu, và vì lo âu nên không ngủ được. Ở đây tôi dùng từ “lo âu” bởi vì cái làm cho ông thao thức ấy phải lớn hơn nỗi buồn, cách ông dùng từ trong thơ cho ta nghĩ như vậy. Nhìn vào cách TK xử dụng biện pháp sáng tác( ba câu dồn lại một cho thấy sự dồn nến trong tâm hồn ông) và từ loại trong bài thơ chúng ta thấy với một bài thơ 28 chữ mà ông đã dùng tới 7 động từ, (Lạc, đề, mãn, đối, bán, thanh, đáo) với 3 động từ trong câu mở đầu và 3 động từ trong câu kết thúc, còn lại là danh từ, chỉ duy nhất 1 phó từ (ngoại) và1 tĩnh từ (sầu), mà từ sầu này chỉ bổ nghĩa cho từmiên (ngủ). Do đó tôi nghĩ rằng chắc chắn có một điều gì đó hết sức mạnh mẽ tác động lên tâm hồn Trương Kế làm cho ông không ngủ được. Ở đây ta cũng thấy Trương Kế đã xử dụng từ “sầu” hết sức khéo léo. Mặc dầu từ ghép “sầu miên” có nghĩa là “thao thức”, nhưng nó cũng gợi cho người đọc hiểu rằng lòng ông lo âu sầu muộn biết bao trong đêm ấy tại bến Phong Kiều. Ta có thể hiểu rằng đây chính là cách mà TK vừa bày tỏ lòng mình nhưng lại vừa dấu ý định của mình. Bởi vì vào thời Trương Kế không ít thi nhân đã gặp tai hoạ vì chữ nghĩa. Do đó khi ông viết “sầu miên” thì có thể giải thích được khi bị chất vấn.
Đến đây tôi xin  tạm dịch hai câu  thơ trên như sau:
“Trăng đã lặn, quạ kêu, trời đầy sương,
Hàng cây phong bên sông cùng ánh lửa chài đang ở trước cơn buồn ngủ”.
Dịch thơ :
"Trăng lặn, quạ kêu, sương kín trời.
Lửa chài, cây bến trước con ngươi”
III -  CÓ PHẢI CHUÔNG CHÙA  HÀN  SAN ĐÁNH VÀO LÚC NỬA ĐÊM ?
Đây là một vấn đề mà đã làm tổn hao rất nhiều công sức và giấy mực của những nhà nghiên cứu, người thì bảo tại vì nhà thơ mơ màng nên cứ ngỡ là nửa đêm, chứ  thực ra lúc ấy chẳng phải nửa đêm, như trong quyển Đường thi hợp giải bát bách thủ của Hà Trừng Bình  đã viết:
Nguyên văn:
“Thử thời thực bất thị dạ bán. Trương kế sầu miên thời, tâm thần hoảng hốt nghi kỳ thị bán dạ dã”.
Tạm dịch:
“Lúc bấy giờ thực chẳng phải là nửa đêm, Trương Kế đang lúc chập chờn, tinh thần hoảng hốt, ngỡ là nửa đêm vậy”.
Nhưng cũng có người cho rằng: quả thật chuông chùa Hàn San đánh vào lúc nửa đêm như đã được chú trong quyển Đường thi tam bách thủ hân thưởng của Lưu Đại Trừng: (12)
Nguyên văn:
“Âu Dương Tu viết: Thi nhân tham cầu hảo cú nhi lý hữu bất thông giả, diệc ngữ bịnh dã. Đường nhân hữu vân: Cô Tô đài hạ Hàn San tự, dạ bán chung thanh đáo khách thuyền. Thuyết giả diệc vân: Cú tắc giai hỷ, kỳ như tam canh bất thị đả chung thời. Diệp Thiếu Uẩn Thạch Lâm thi thoại: Cái công vị thường chí Ngô trung, kim Ngô trung tự thực bán dạ đả chung”.
Tạm dịch:
“Âu Dương Tu nói: Nhà thơ vì tham cầu đặt câu cho hay nên lý không được thông, đó là một ngữ bịnh. Người đời Đường có nói rằng: Chùa Hàn San dưới đài Cô Tô, nửa đêm tiếng chuông vang tới tận khách trên thuyền. Họ  cũng nói rằng: Câu thơ rất đẹp, duy chỉ có canh ba đâu phải lúc đánh chuông. Sách Thạch Lâm thi thoại của Diệp Thiếu Uẩn có nói: Vì ông chưa đến huyện Ngô, hiện nay chùa ở đó nửa đêm có đánh chuông thật”.
Lại có người không quan tâm đến chuyện chuông chùa Hàn San đánh vào lúc nào, và xem việc tìm hiểu có hay không tiếng chuông nửa đêm là chuyện bới lông tìm vết, như trong quyển Đường thi tam bách thủ độc bản của Sổ Nghiêu  viết:
Nguyên văn:
“ Hậu nhân dĩ vi dạ bán vô chung thanh tương cấu bệnh, vị miễn xuy mao cầu tì”.
Tạm dịch:
“Người đời sau cho rằng nửa đêm không có tiếng chuông và cho đó là một ngữ bịnh. Xin miễn bới lông tìm vết”.
Trên đây là những ý kiến của những thức giả Trung Hoa. Ở Việt Nam thì hầu như đa số những người nghiên cứu đều biết việc đánh chuông vào lúc nửa đêm là không phù hợp với khung cảnh được tả trong bài thơ, nhưng vì chưa lý giải được tại sao lại dùng từ “dạ bán” trong hoàn cảnh như vậy, nên chấp nhận rằng tiếng chuông chùa Hàn San đánh vào lúc nửa đêm và chẳng có bình luận gì mới. Theo tôi nghĩ, có thể bởi vì trước đây đa số những ngưòi quan tâm đến bài thơ này đều trông đợi sự chú thích của các thức giả Trung Hoa, mà như ta biết hầu như  ai cũng chấp nhận hoặc đó là lúc nửa đêm, hoặc đây là một tỳ vết của bài thơ.
Không thỏa mãn với những gì đã nêu trên, ở đây  tôi muốn tìm hiểu về nghĩa của từ “DẠ BÁN” trong bài thơ này, xem thử có thực “DẠ BÁN” có nghĩa là “NỬA ĐÊM” không?
Để tìm hiểu vấn đề nầy, tôi xin ghi lại cách Trương Kế diễn tả cảnh trong đêm đó qua các hình ảnh, âm thanh mà ông đã ghi lại trong bài thơ.
Trăng đã lặn, quạ kêu, trời đầy sương,
Hàng cây phong bên sông cùng ánh lửa chài đang ở trước cơn buồn ngủ.
Ngoài thành Cô Tô có chùa Hàn San,
Đêm đã qua hơn một nửa (canh khuya), tiếng chuông vọng tới khách trên thuyền.
Ở đây tôi  dịch “DẠ BÁN” là  đêm đã qua hơn một nửa  là vì:
Trương Kế là người Trung Hoa, chắc chắn ông biết rằng nửa đêm trong tiếng Hán là “BÁN DẠ” cũng như: BÁN NHỰT (nửa ngày), BÁN NGUYỆT (nửa tháng), BÁN NIÊN(nửa năm). Trong một số trường hợp nào đó, có thể đảo ngữ để cho hợp vận hay niêm luật. Tuy nhiên trong văn cảnh này thì việc sử dụng“BÁN DẠ” cũng không sái niêm luật. Vậy tại sao ông không viết “BÁN DẠ” mà lại viết “DẠ BÁN”ngay cả các thức giả Trung Hoa cũng viết  “BÁN DẠ” là nửa đêm như:
“Thử thời thực bất thị DẠ BÁN (chữ của TK). Trương Kế sầu miên thời, tâm thần hoảng hốt nghi kỳ thị BÁN DẠ (chữ của người chú) dã” (xem phần dịch ở trước).
Hay trong Đường thi tam bách thủ độc bản của Sổ Nghiêu viết:
Nguyên văn:
“Thử thi đại ý tự lữ khách dạ túc chu trung đích tình cảnh. Thử thi thời gian hoàn toàn ý tại BÁN DẠ(chữ của người chú). Sở dĩ thủ cú tức thuyết NGUYỆT LẠC dữ mạt cú DẠ BÁN (chữ của TK) tương hô ứng, tịnh dĩ  Ô ĐỀ  dữ CHUNG THANH  tương hô ứng .”
Tạm dịch:
“Bài thơ này đại ý tả tình cảnh của người lữ khách qua đêm trong thuyền. Thời gian trong bài thơ này hoàn toàn chỉ về nửa đêm (BÁN DẠ). Sở dĩ câu đầu nói NGUYỆT LẠC và câu cuối DẠ  BÁN là để cùng hô, cùng ứng  với nhau, rồi thì  Ô ĐỀ và CHUNG THANH cũng cùng hô, cùng  ứng”.
Hay trong Đường thi tam bách thủ hân thưởng của Lưu Đại Trừng đã viết  :
“Cái công vị thường chí Ngô trung, kim Ngô trung tự thực BÁN DẠ đả chung”.(xem phần dịch ở trước)
Như vậy rõ ràng Trương Kế đã dùng từ “DẠ BÁN ” có chủ ý. Nhưng “DẠ BÁN với nghĩa nào và tại sao?
Chúng ta hãy trở lại cấu trúc bài thơ này.
Ngay từ đầu tác giả đã viết:
Cấu trúc ngữ danh từ :          NGUYỆT   LẠC   trăng rụng hay trăng lặn                               C            V
Cấu trúc đủ (câu)                  NGUYỆT   DĨ  LẠC  trăng đã lặn                                           C                V
Các ngữ danh từ “Ô đề, sương mãn thiên, dạ bán, chung thanh” cũng tương tự như ngữ danh từ “nguyệt lạc”
Do dùng câu làm ngữ danh từ nên Trương Kế đã tỉnh lược tối đa thành phần của câu, vì vậy người đọc cần phải hiểu theo đúng nghĩa mà cấu trúc thật mang lại. Trong trường hợp này thì “NGUYỆT LẠC”, “trăng lặn”, phải được hiểu là: “NGUYỆT DĨ LẠC”, “trăng đã lặn”, chứ không thể nghĩ  rằng “trăng đang lặn được”, mà trăng đã lặn thì làm sao mà vào nửa đêm được, hơn nữa lại có tiếng quạ kêu (*), quạ là một loài chim không sinh hoạt ban đêm, điều này cho thấy tiếng kêu của lũ quạ báo cho thấy rằng đêm sắp hết, bình minh đang đến rất gần, và cũng chính vì vậy hơi ấm của mặt trời đã vươn tới nơi dòng sông khiến cho hơi nước xông lên thành sương mù dày đặt, trong khung cảnh như thế, lại có tiếng chuông chùa từ xa vang đến. Trương Kế sau gần một  đêm không ngủ, tinh thần mỏi mệt, nhưng nhà thơ biết  chắc thời gian đang ở khoảng nào, nhất định là không phải vào lúc nửa đêm – canh ba –. Bởi vì nếu muốn nói như thế, nhà thơ đã viết “BÁN DẠ” rồi. Vì vậy chúng ta hãy xem lại cấu trúc của ngữ danh từ “DẠ BÁN”.
Cấu trúc ngữ danh từ :    DẠ  BÁN    
                                                               C     V                                             
Bao gồm  hai cấu trúc đủ (câu):
Một  là             “DA DĨ BÁN” “đêm đã qua  một nửa”
                                                    C        V
 Hai  là “DA DĨ QUÁ BÁN” “đêm đã qua hơn một nửa”.
                                                   C          V
Nếu nhìn vào toàn bộ cách dùng từ của Trương Kế trong bài thơ thì ta sẽ thấy cấu trúc hai là hoàn toàn hợp lý. Bởi vì nếu chấp nhận cấu trúc một thì  tác giả là một nhà vật lý hay toán học chứ không phải là nhà thơ, trong thơ không thể có cách nói đo đạc thời gian một cách chính xác như vậy, đồng thời nhà thơ chẳng có lý do gì mà ngồi canh thời gian như vậy, hơn nữa nếu chỉ thức tới canh ba thì có gì đáng nói, mà nếu như vậy thì ông đã dùng danh từ ghép “bán dạ”. Ở đây  tác giả dùng từ “dạ bán” là vì ông rút ngắn câu “ dạ dĩ quá bán” cũng như “ nguyệt lạc” từ câu “nguyệt dĩ lạc”. Như vậy “dạ bán”  ở đây có nghĩa là “dạ dĩ quá bán”. Cái hay của nhà thơ là ông đã không  nói thời điểm cụ thể, mà ông đã để tiếng chuông rơi vào nửa sau của đêm, một khoảng cách rất rộng, mà ta có thể gọi trong tiếng Việt là “canh khuya”,còn người đọc tự mình cảm nhận thời điểm tiếng chuông vang tới bằng cách hình dung toàn bộ hình  ảnh và âm thanh mà ông đã mô tả trong bài thơ.
Chính các nhà nghiên cứu Trung Hoa cũng cảm nhận điều này, như  phần trích dẫn ở trên, “nguyệt lạc”hô ứng với “dạ bán”, “ô đề” thì hô ứng với “chung thanh”, như thế ta có trăng đã lặn hô ứng với đêm đã khuya, quạ kêu hô ứng chuông vang.Thêm vào đó, cách nhà thơ dùng từ “dạ bán”, cho thấy nhà thơ hoàn toàn nhận thức được ông đã chờ đợi giấc ngủ suốt đêm qua, hình ảnh này cho ta thấy việc TK không ngủ được là do có một lo âu nào đó rất mạnh mẽ trong lòng chứ không đơn giản là vì buồn.
Ta có thể viết lại bài thơ ấy dưới hình thức văn xuôi như sau:
“Ngã kim tại Phong Kiều bạc, chỉnh dạ tâm tại thiên sầu vạn trứ bất đắc thành miên
Hốt kiến nguyệt dĩ lạc =  Nguyệt lạc,
Thụ thượng ô nha đề khiếu = Ô đề,
không trung sương giáng mãn thiên = Sương mãn thiên.
giang biên chi phong thụ  = Giang phong,
dữ ngư thuyền chi hỏa quang  = Ngư hỏa,
chính đối trước ngã,= đối (ngã = sầu miên).
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự (tăng nhân đả chung), = Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
thử thời dạ dĩ  quá bán, = dạ bán
chung thanh đáo ngã thuyền.= Chung thanh đáo khách thuyền
Có một một giai thoại để giải  thích cho việc đánh chuông vào lúc “DẠ BÁN” này.
Tương truyền rằng Trương Kế một đêm  neo thuyền ở bến Phong Kiều, rung cảm trước cảnh đẹp  của  thiên nhiên ông đã cảm tác được hai câu thơ:
“ Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên,
Giang phong, ngư hoả đối sầu miên”,
Thế rồi ông không sao kết thúc được bài thơ, nên cứ thao thức mãi. Cùng trong đêm ấy, sư cụ chùa Hàn San cũng thấy cảnh trăng đầu tháng mông lung, huyền ảo nên cảm tác được hai câu thơ:
Sơ tam, sơ tứ nguyệt mông lung
Bán tợ ngân câu, bán tợ cung
(Mồng ba, mồng bốn nguyệt mông lung
Nửa tợ móc câu, nửa tợ cung)
Rồi cũng như Trương Kế, sư cụ cũng không sao kết thúc được bài thơ của mình, cứ thao thức mãi. Thời gian trôi đi, cho đến lúc chú tiểu trong chùa dậy đánh chuông, (đây là nhiệm vụ của người tập sự) đi ngang phòng thầy, thấy thầy còn thức, hỏi ra mới biết bèn mạo muội xin thêm vào hai câu nữa để hoàn chỉnh bài thơ. Sư cụ đồng ý, chú tiểu liền đọc:
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán  trầm thuỷ để bán phù không”
(Một mảnh trăng chia thành lưỡng đoạn
Nửa chìm  đáy nước, nửa trên không)
Như một nửa còn lại của một viên ngọc, hai câu thơ của chú tiểu ý tứ liền lạc với hai câu của sư cụ, tạo thành một bài thơ hoàn hảo. Sư cụ như trút được gánh nặng, còn chú tiểu cũng vô cùng sung sướng, vì thực ra đêm qua chú cũng lâm vào tình trạng như  thầy mình. Hai thầy trò như đã hoàn thành một việc lớn, với tâm hoan hỉ, phấn chấn, chú tiểu đi đánh chuông. Tiếng chuông mạnh mẽ, ngân vang, như cơn gió mở toang tâm hồn của  Trương Kế còn đang trằn trọc dưới bến Phong Kiều, tứ thơ của ông tức thì tuôn trào thành hai câu:
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
Thế là Trương Kế cũng hoàn thành bài thơ của mình.
Trong Phật Giáo không thấy có sách nào nói về việc đánh chuông vào lúc nửa đêm hay bất thường, ngoại trừ khi nhà chùa có sự cố như: Vị Trú Trì chết, hoả hoạn, hay bị  nạn, trong trường hợp như thế, tiếng chuông là một thông tin có giá trị như một thông báo, kêu gọi sự giúp đỡ. Đánh chuông vào canh năm là một truyền thống từ ngàn xưa của Phật giáo Trung Hoa cũng như Việt Nam, điều này ai cũng rõ. Nhưng vì đây là một giai thoại dùng  để giải thích cho việc Trương Kế dùng từ  “DẠ BÁN” với  nghĩa “NỬA ĐÊM”, chính vì vậy đôi khi người viết phải sửa lại câu chuyện cho thích hợp với mục đích của mình, như có người  đã viết:(13)
“ Chú tiểu hầu bên thấy vậy mới hỏi Sư cụ sao đêm nay cứ trằn trọc mãi không ngủ. . . .
Sư cụ nghe xong khen hay và bảo chú tiểu lên chánh điện đánh chuông tạ ơn Phật”.
Đây là một giai thoại nhằm phục vụ cho việc giải thích hai từ “dạ bán” trong bài thơ của Trương Kế, do đó những tình tiết của câu chuyện cũng phải làm sao cho hợp lý, vì vậy trong câu chuyện nói trên có nhiều điều hơi gượng ép. Một là sao mà nhà chùa hành hạ chú tiểu đến vậy, (đứng hầu thầy đến nửa đêm), may mà chú thêm vào hai câu, chứ nếu không e hầu cả đêm. Hai là kiểu ăn mừng của thầy trò chùa Hàn San quá ư bất thường. Ba là chuông ở chánh điện là chuông gia trì, âm thanh chỉ đủ vang trong phạm vi chánh điện mà thôi, làm sao vang tới khách đang ở trên thuyền ngoài bến Phong Kiều cho nỗi, vì chùa Hàn San ở ngoài thành Cô Tô, cách xa chỗ neo thuyền của Trương Kế . Như vậy tiếng chuông mà Trương Kế nghe phải là tiếng Đại hồng Chung, mà Đại Hồng Chung chỉ đánh vào lúc canh năm mà thôi. Cho dù đây là một giai thoại, nhưng nó cũng cho thấy rằng người xưa đã nghĩ  “DẠ BÁN” không phải là “BÁN DẠ”.
Với tất cả những gì đã nêu trên, tôi cho rằng hai từ  “DẠ BÁN” trong trường hợp này có nghĩa là “ĐÊMĐÃ QUÁ NỬA”, “ĐÊM ĐÃ KHUYA” hay  “CANH KHUYA”. Rõ ràng Trương Kế đã xử dụng từ “DẠ BÁN” có chủ ý, chính xác và rất đắt.
- THÔNG ĐIỆP MÀ TK MUỐN GỞI ĐẾN NGƯỜI ĐỌC LÀ GÌ?
Như đã trình bày trên, rỏ ràng TK viết bài thơ này với những tính toán nhất định, vì sao tôi cho như vậy. Bởi vì, như ta biết TK là một người tài, chỉ với bài thơ PKDB này thôi mà ông đã nổi tiếng như thế, thì đủ biết chắc ông phải có nhiều bài thơ hay khác nữa. Nhưng ngày nay ta chỉ biết TK qua bài PKDB này thôi. Tự việc này đã nói lên rằng TK viết bài này là có dụng ý, và dĩ nhiên là ông hết sức hài lòng. Sự việc ngày nay TK chỉ còn một bài thơ PKDB chắc chắn không phải ngẫu nhiên mà có. Ta có thể hình dung ra ngày ấy (thời TK) khi các nhà tập chú thơ muốn ghi lại (mỗi người mỗi bài) có thể họ đã hỏi TK. “Ông thích bài nào nhất?” và TK đáp “Phong Kiều Dạ Bạc” chính vì vậy mà trải qua hàng ngàn năm, với những tranh cãi về chữ nghĩa như thế mà bài thơ vẫn tồn tại, trong khi đó bao nhiêu thơ văn của ông chẳng còn gì.
Khi đã nghĩ như vậy thì câu hỏi đặt ra là “Vậy TK viết bài thơ PKDB với mục đích gì?”. để trả lời cho câu hỏi này chúng ta hãy xem lại phương pháp sáng tác bài thơ (như đã trình bày trên). Tôi cho rằng TK là người rất thông thạo về vùng đất này và đã nhiều lần ngủ thuyền ở bến Phong Kiều. Tuy nhiên căn cứ vào những gì đã ghi lại trong bài thơ cho ta hiểu, có thể TK viết bài PKDB tại bến Phong Kiều, mà cũng có thể TK viết bài thơ này tại một nơi khác. Nhưng dù ông sáng tác bài thơ này ở đâu chăng nữa, thì việc sáng tác bài thơ này xuất phát từ những tính toán chứ không phải từ những cảm xúc nhất thời. Theo tôi lý do mà ông sử dụng những hình ảnh của bến Phong Kiều là tại hai chữ “Cô Tô” hay nói khác hơn là ý nghĩa mà điển tích “Cô Tô” mang lại (14). Đây chính là từ đinh của bài thơ, chính vì vậy từ  “Cô Tô” này nằm ở trung tâm của bài thơ. Bởi vì thành Cô Tô và chùa Hàn San cách bến Phong Kiều gần chục cây số thì làm sao nằm ở bến Phong Kiều mà nghe tiếng chuông chùa Hàn San cho được, ngàn năm trước mười cây số là một khoảng cách rất lớn, và chắc chắn chủ yếu là rừng, rõ ràng TK đã sắp đặt các yếu tố này một cách có chủ ý, mà như tôi đã nói là tại vì TK muốn sử dụng địa danh “Cô Tô”để gởi gắm tâm tư của mình chính như đã nói ở trên. Thêm vào đó lại có chùa Hàn San, nơi đêm đêm tiếng chuông vang vọng nhắc nhở con người rằng cuộc đời vô thường lắm, thông điệp vô thường ấy đã vang tới tận bến Phong Kiều nơi có một con người đang chơi vơi giữa thực hư của nhiên giới, hay có thể nói giữa nhân giới. Con người ấy đang lênh đênh trên con thuyền mà ở đây ông đã khéo dùng “Khách thuyền” khách cũng chính là thuyền, thuyền thì cô đơn trên bến Phong Kiều mịt mờ sương phủ, và khách lênh đênh giữa dòng lịch sử với ngổn ngang những dấu hiệu suy tàn.
Như ta biết TK là một mệnh quan của triều đình, do đó chắc chắn ông đã nhận ra rằng thời kỳ suy tàn của một triều đại đang trên con đường sụp đổ, chính trong thời kỳ này loạn An Lộc Sơn, đã làm cho vua quan phải bỏ cả Trường An mà chạy. Với tư cách là kẻ sĩ, chứng nhân của thời đại, TK muốn nói lên điều đó, tuy nhiên lịch sử đã cho thấy rằng chữ nghĩa có thể là tai họa, nhưng không thể không nói, chính vì vậy ông đã mượn bến Phong Kiều gần thành Cô Tô để gởi gắm thông điệp của mình.
1 - Kiến thức ngày nay  số 388 ra ngày 20.5.2001 trang 71.
2 - Tự học Hán văn Nxb Thành phố Hồ Chí Minh 1995 trang 294.
3 - Bình giảng thơ Đường do Nxb Giáo Dục in  năm 2003 trang 84 .
4 - Kiến thức ngày nay số 537 ngày 10.7.2005 trang 43.
5- Tự học Hán văn - Nguyễn Khuê 294, 295. Nxb TPHCM 1995
6 - Báo Văn nghệ- Hội nhà văn số 48 ngày 28-11-1992.
7 - Hội đồ Thiên Gia thi -  Chung Bá Kính do Nhật Tân thư trang ấn hành.
8 - Báo Văn Nghệ - Hội nhà văn số 10 ngày 6-3-1993
9 - Báo Văn Nghệ TPHCM số 77 ra ngày 18 – 24 – 11-1993
10- Đường Thi Tam Bách Thủ độc bản của Sổ Nghiêu tuyển tập, do Văn Nguyên thư cục ấn hành 1965.
11 -Kiến thức ngày nay số 537 ngày 10.7.2005
12 -Đường thi tam bách thủ hân thưởng của Lưu Đại Trừng thuật chú do Văn hóa đồ thư công ty ấn hành.
13 - Văn - số 26 – 1993 do Ban văn hoá TW Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Xb trang 62.
(*)Có thể những người này lấy địa danh ngày nay mà xét. Bởi vì từ sau khi bài thơ “Phong kiều dạ bạc” của Trương Kế ra đời, người ta đã lấy các từ trong bài thơ đặt tên núi. Các tên núi này cũng đã đi vào thi ca như bài “Quá phong kiều tự” của nhà thơ Tôn Địch đời Tống mà trong Đường thi tam bách thủ  giải thích như sau: Nguyên văn:
“Kim nhân hoặc dĩ vi “ô đề”nãi Hàn Sơn tự dĩ tây hửu ”ô đề sơn”phi chỉ “ô nha đề khiếu “sầu miên” nãi Hàn San tự dĩ nam đích ‘sầu miên sơn” phi chỉ “ưu sầu nan miên” thù bất tri “ô đề sơn” dử “sầu miên sơn” khước thị nhơn Trương Kế thi đắc danh” Tôn Địch đích “Ô đề nguyệt lạc kiều biên tự”cú trung đích “ô đề” tức thị minh hiển chỉ “ Ô đề sơn”.
Tạm dịch:
“Ngày nay một số người cho rằng”Ô Đề”là “núi Ô Đề”phía tây chùa Hàn San chứ chẳng phải là “tiếng Quạ Kêu”, “Sầu Miên”là “núi Sầu Miên” phía nam chùa Hàn San chứ chẳng phải “lo âu khó ngủ”. (Họ) đâu biết rằng “núi Ô Đề” và “núi sầu miên” là do vì bài thơ của Trương Kế mà có tên.. Từ “ô đề”trong câu thơ “Ô Đề nguyệt lạc kiều biên tự” rõ ràng chỉ”núi  Ô Đề”.
(*) Loài quạ thường sinh sống từng bầy, ban ngày đi kiếm ăn thì chia làm nhiều đàn nhỏ, chiều về chung sống với nhau. Đặc biệt chúng thường kêu inh ỏi vào buổi sáng sớm, điều này đã làm cho các nhà điểu loại học hết sức quan tâm, sau nhiều năm  nghiên cứu họ biết rằng loài quạ kêu inh ỏi vào buổi sáng chính là chúng nói chuyện với nhau, cụ thể là chúng thông tin cho nhau nơi nào có nhiều thức  ăn sau đó chúng mới bay đi kiếm ăn. Thông tin này được phát trên VTV2 trong chương trình” Thế giới loài vật” đề tài “ Đời sống của loài quạ” ngày giờ tôi không còn nhớ.
14 - Từ sau khi vua nước Ngô là Phù Sai vì Tây Thi mà mất nước, thì thành Cô Tô (và tên Cô Tô) nơi Phù Sai xây cho Tây Thi ở đã trở thành điển tích biểu tượng cho sự suy vong của một chế độ, dẫn đến mất nước. Theo tôi đây chính là lý do mà TK đã chọn bến Phong Kiều để làm chất liệu cho bài thơ của mình.
 Theo http://www.daophatngaynay.com/


1 nhận xét:

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...