Lối cũ ân tình xưa
Mặc Phương Tử
Những ơn nghĩa đạo đức được sống như là một sức mạnh tất yếu
và thực sự được tôn vinh từ mỗi con người,
thì giai cấp, địa vị, chức danh sẽ trở thành một bổn phận đúng nghĩa, có tư duy
chân chính trong mọi hành xử và phục vụ, còn nếu như ân nghĩa, đạo đức, nhân
tính và sự tôn vinh không đúng “như pháp”, không chiết xuất từ tâm lực, niệm lực
của bậc Thánh, bậc chân nhân, thì nó sẽ biến thành những độc tố nguy hại tàn
phá vào tận gốc rể của cây đời.
Có lần đọc và nhớ đến câu chuyện của Ngài
Tôn giả Xá Lợi Phất, một câu chuyện nhớ ơn từ trong muôn ngàn việc
nhớ ơn nơi cuộc đời, nội dung chuyện kể như sau :
“Một hôm, Tôn giả Xá Lợi Phất đi trì bình
khất thực trong thành Vương Xá, khi ngang qua một khu vườn, trong vườn có người
Bà La Môn làm vườn tuy nghèo khó và tuổi đã cao, nhưng phải đổi lấy sức
già để được có chút vật thực nuôi thân qua ngày, ông thấy Tôn giả ôm bát đi
ngoài ranh vườn, liền đến thăm hỏi thân thiện, sau đó để vào bát một muỗng thực
phẩm mà ông có được phần thọ dụng trong ngày, Tôn giả chứng minh và chú nguyện
ban phước lành cho ông. Và rồi cũng từ đó thời gian đã biền biệt giữa Tôn giả
và ông lão Bà la môn làm vườn.
Một ngày đẹp trời, ông Bà la môn ấy đến gặp Đức Phật tại Tịnh
Xá Kỳ Viên (Thành Xá Vệ) và xin Phật được xuất gia, Phật quán xét thấy ông ta
có thể đắc quả Thánh, nên mới hỏi trong đại chúng có ai đã chịu ơn với người Bà
la môn nầy lần nào không? Khi ấy, Tôn giả Xá Lợi Phất đối trước Đức Phật và đại
chúng mà thưa rằng: Có lần con khất thực trong thành Vương Xá, người Bà la môn kia đã
để vào bát của con một muỗng thực phẩm mà ông đã xin được! Lúc ấy, Phật liền dạy:
Vậy ông hãy tiếp độ người Bà la môn nầy và đã được làm phép xuất gia. Thời gian
không bao lâu được sự hướng dẫn của Tôn giả, người Bà la môn ấy được đắc quả A
La Hán trong giáo pháp giải thoát của Phật”.
Từ câu chuyện được kể trên, chúng tôi muốn nói đến
một việc trong những sự việc dù đã hay đang xảy ra trong bối cảnh đất nước còn
chiến tranh hay cả ngay bây giờ. Chuyện được kể rằng: Ở thời điểm trước đây,
khi chiến tranh còn leo thang và ác liệt, sống trong nhiều nỗi lo âu, sợ hải ở
một vùng miền quê xa xôi, việc cơm áo dù có khó khăn, nhưng sự sống chết, ly
tán, đau thương mất mát đưa đến bất ngờ đầy nghiệt ngã. Nơi ấy có một người mẹ
bị bom đạn cướp đi mạng sống, cha thì phải bôn ba xứ người để tìm kiếm áo
cơm, còn bé trai mới lên 6-7 tuổi, phải nhờ đến các Sư Cô nuôi dưỡng lo cho cái
ăn, cái mặc rồi đến trường để tìm con chữ cho mai sau.
Cơm áo, tiền nông cũng không phải dễ dàng có được
trong thời buổi xã hội lắm nhiễu nhương nầy, vả lại có được đồng tiền chân
chính lại càng khó hơn. Với một rổ bánh, một lố nhang thơm, đội nắng đội mưa
ngày ngày hai buổi kiếm sống, tháng năm mòn mỏi lê kiếp thân nghèo, áo vai bạc
màu màu sương gió, ánh mắt hoen bao lớp bụi phong trần, lo cho bản thân và
cháu, chỉ ước mơ cho cháu sau nầy nên thân, nên phận với đời và biết cảm thông
sâu xa cho những ai một đời cũng sớm mất mẹ và hiểu mà biết nhớ ơn có những ai
đó đã trót lo cho mình và vì mình.
Thời gian lặng trôi qua bao khúc quanh,
bao bước ngoặc của dòng chảy cuộc đời, thăng trầm, thịnh suy, vinh nhục bao độ
của thế nhân, ngược xuôi giữa cuộc sinh tồn tạm bợ, say khướt theo ảo huyền mộng
thực. Người cháu, người học trò xưa giờ đã thành danh thành phận, ôm lấy những
mảnh giấy học vị (văn bằng) mà nơi ấy đã hóa thân, duỡng nuôi qua từng con chữ,
từng lời, từng câu, từng nhịp thở của buồng phổi, từng ý niệm của khối óc con
tim của Thầy-Cô.v.v… Nhưng nào phải bao nhiêu việc đó thôi đâu! Khi có được
mảnh giấy danh phận ấy, để rồi được bao nhiêu lợi dưỡng trong cuộc phù sinh mỏng
manh tạm bợ, thỏa mãn với bao ước vọng khoái lạc của trần tục tầm thường,
thoáng chốc rồi cũng thành sương khói, rồi còn gì cho ta, cho người, và cho tất
cả… ! Có biết đâu rằng: Những nỗi vui buồn lẫn vào tháng năm cơ cực, lắm nỗi lo
toan cơm áo sớm chiều, một nắng hai sương gót lê kiếp nghèo tất bật, chiết từng
ước mơ thuở ấy, đã thấm mặn bao giọt lệ tinh khôi khi còn cái thuở quê nghèo
lưng trần chân đất bạc phếch áo vai gầy.v.v.. Để cho có được ngày mai, cái ngày
mai đã thấm đẫm tất cả…vào mảnh bằng mà người cháu, người thanh niên này nay có
được.
Rồi một sớm trở lại quê hương, cái cảnh
lên xe, xuống xe, kẻ đón người đưa, trông ra bây giờ không còn như thuở hàn vi
xưa kia nữa, từ cái đi, đứng, ngồi nay đã chuyển sang dáng màu danh phận, đến
cái ăn mặc, nói năng cũng khéo vẽ nên hình địa vị…” Làm cho chúng ta nhớ lại
thi sĩ Nguyễn Bính đã ưu tư :
“Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều…” (Chân
Quê)
Cái cảnh tha hóa đổi thay vốn không có gì
đáng trách trong thói đời thường tình. Nếu có chăng, bởi sự cảm thụ tri kiến lại
rót nhằm vào tờ lá sen mà nơi ấy không có sự thấm đẫm và giữ lại, càng thêm nhớ
xa hơn nữa từ lời của một đại sư Tịch Thiên (Shantideva) đã khuyên nhắc và giúp
cho chúng ta làm để có được những điều lợi lạc: “ Hãy khởi tâm hành thiện, hoặc
khởi tâm đối trị (bất thiện) như cúng thí vào 3 miếng ruộng phước là ; Kỉnh
Điền (Tam Bảo), Ân Điền (Cha Mẹ) và Bi Điền (Mọi người nhất là những người
nghèo khó) thì sẽ được phước lớn” (Nhập Bồ Tát Hạnh,V.81).
Điều muốn nói ở đây, không nhất thiết phải
đề cập đến Tam Bảo, trọng tâm thứ nhất ở chỗ xác định một tính cách “nhân bản”
của con người, tính nhân bản ấy đã được thiết lập trên hai nền tảng cơ bản đó
là; Sự nhớ ơn và đền ơn cha mẹ đến những người nuôi dưỡng, cưu mang về mình và
thứ đến, nói lên tình người trong cái nhìn có sự hiểu biết, yêu thương và cảm
thông cùng kiếp sống như ta và nhất là những người có đời sống bất hạnh hơn ta.
Có được nền tảng cơ bản ấy chính là một nhân cách sống
lành mạnh trong sáng, như thế, ta đối với Tam Bảo mới có thể nói lên sự cung
kính toàn mãn, bởi vì có biết ơn và đền ơn cha mẹ, có lòng thương tưởng đến mọi
người và rộng hơn là mọi loài, thì chính ở đây đã có âm hưởng sâu sắc đến sự
nương tựa và kính trọng Tam Bảo. Vì rằng; Tam Bảo là điểm nương tựa, trở về, là
mục tiêu phục vụ đem lại sự an lạc hạnh phúc lâu dài cho chư thiên, chúng
sanh và loài người.
Trong một lời dạy khác của Đức Phật như sau :
“Nầy các Tỳ kheo, thế nào là địa vị không phải chân nhân? người
không phải chân nhân, nầy các Tỳ kheo, không biết ơn, không nhớ ơn. Đối với những
người độc ác, đây là đặc tánh của họ được biết đến, nầy các Tỳ kheo, tức là
không biết ơn, không nhớ ơn. Đây hoàn toàn là địa vị không phải chân nhân… Còn
bậc chân nhân, nầy các Tỳ kheo, là biết ơn, là nhớ ơn. Đối với những thiện
nhân, đây là đặc tánh của họ được biết đến, nầy các Tỳ kheo, tức là biết ơn và
nhớ ơn…” (Kinh Tăng Chi, IV, 118-119).
Ngang qua lời dạy trên, chúng ta thấy Đức
Phật đã khẳng định qua hai tính cách hay một lời xác chứng về đặc tánh của các
bậc thiện nhân cũng như những ai được coi là phi chân nhân. Sự kích hoạt chất
liệu ấy phải được nói lên bằng cử chỉ, hành động việc làm, ý tưởng như thế nào
của con người đó ngay trong cuộc sống nầy. Như vậy, nhớ ơn, biết ơn và đền ơn
,là một ký hiệu đặc tánh của các bậc thiện nhân hay chân nhân và trái lại,
không biết ơn, không nhớ ơn, không đền ơn, cũng là một ký hiệu đặc tánh cho những
ai được xem là phi chân nhân.
Sống giữa đời thường, cho dù một tổ chức,
đoàn thể, đảng phái chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo.v.v… Thì tính cách nhân bản
phải được nói đến như là một nếp sống y cứ chuẩn mực tiêu biểu từ tính thể con
người. Nếu tự thân chỉ biết lợi dưỡng để thỏa mãn những ước vọng thèm khát thường
tình, lấy địa vị danh xưng hay chút khả năng mọn có được để làm mục đích trú ẩn
và tự mãn, xem đây là nguyên nhân nẩy mầm những bất thiện và có khả năng nguy
cơ bất ổn, mất thăng bằng trong xã hội. Những ơn nghĩa đạo đức được sống như là
một sức mạnh tất yếu và thực sự được tôn vinh từ mỗi con người, thì giai cấp, địa
vị, chức danh sẽ trở thành một bổn phận đúng nghĩa, có tư duy chân chính trong
mọi hành xử và phục vụ, còn nếu như ân nghĩa, đạo đức, nhân tính và sự tôn vinh
không đúng “như pháp”, không chiết xuất từ tâm lực, niệm lực của bậc Thánh, bậc
chân nhân, thì nó sẽ biến thành những độc tố nguy hại tàn phá vào tận gốc rể của
cây đời.
Tóm lại, tánh cách của người biết ơn, nhớ
ơn hay vong bản vô ơn, cả hai đều tồn tại trong đời, nhưng điều gì tồn tại mà
được ca ngợi, tán than của người có trí thì chính đó là “lõi cây”. Những gì tự
thân đã thọ nhận dù trước đây hay bây giờ để tiếp sức cho máu tim, những con chữ
làm nên hiểu biết, không chỉ về pháp thượng nhân để tự điều phục chính mình mà
còn phải hiểu biết sâu xa tận cùng vào trong từng mảnh đời giữa cuộc sinh tồn
nhân thế, có gần gũi để thương yêu giúp đỡ, để lắng nghe, cảm thông và chia sẻ
bao tâm tình, xem như là một nghĩa cử tri ân, nhớ ân và đền ơn, mà câu chuyện về
Ngài Tôn giả Xá Lợi Phất đã được nói đến, nhớ và biết mình có thọ nhận một muỗng
thực phẩm trước đây từ nơi vị Bà La Môn già xưa mà mọi việc đã trở thành đạo
nghĩa cho ngàn đời, trái lại với thái độ từ người thanh niên có mảnh văn bằng
đã được đề cập ở trên, đủ để chúng ta tự thẩm sát lại chính mình. Ngày nay,
chúng ta cũng không ít ưu tư về tinh thần ấy, dù cổ xưa nhưng vẫn đẹp bền, còn
để lạc mất đi hay quên lãng bao chất liệu ấy thì khác nào như bị những loài cỏ
hoang dại khỏa đầy trên những lối mòn xưa cũ.. Để kết thúc, chúng ta cùng đọc lại
lời Phật dạy:
“Người trị thủy dẫn nước
Kẻ làm tên, nắn tên
Người thợ mộc uốn gỗ
Bậc trí nhiếp tự thân” PC. 80.
ve may bay eva airline
vé máy bay đi mỹ eva air
hãng máy bay hàn quốc
tìm vé máy bay đi mỹ
săn vé máy bay giá rẻ đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thuc Du Lich