Anh phải sống - Truyện Khái Hưng
Trên đê Yên Phụ, một buổi chiều mùa hạ.
Nước sông Nhị Hà mới bắt đầu lên to, cuồn cuộn chảy, tưởng muốn
lôi phăng cái cù lao ở giữa sông đi.
Theo dòng nước đỏ lờ lờ, những thân cây, những cành khô trôi
từ rừng về, nổi lềnh bềnh, như một dẫy thuyền nhỏ liên tiếp chạy thực nhanh tới
một nơi không bờ không bến.
Đứng trên đê, bác phó nề Thức đưa mắt trông theo những khúc gỗ
ấy tỏ ra ý thèm muốn, rồi quay lại, đăm đăm nhìn vợ, hỏi thầm ý kiến. Người vợ,
ngắm sông, ngắm trời, lắc đầu thở dài, nói:
– Gió to quá, mà đám mây đen kia ở chân giời
đùn lên mau lắm. Mưa đến nơi mất, mình ạ!
Người chồng cũng thở dài, đi lững thững. Rồi bỗng đứng dừng lại,
hỏi vợ:
– Mình đã thổi cơm chưa?
Vợ buồn rầu đáp:
– Đã. Nhưng chỉ đủ cơm cho hai con ăn bữa chiều
hôm nay.
Hai vợ chồng lại im lặng nhìn nhau... Rồi hình như cùng bị một
vật, một định kiến nó thôi miên, nó kiềm áp, hai người đều quay lại phía sông:
Những thân cây vẫn phăng phăng trôi giữa dòng nước đỏ.
Chồng mỉm cười, cái cười vơ vẩn, bảo vợ:
– Liều!
Vợ lắc đầu, không nói. Chồng hỏi:
– Mình đã đến nhà bà Ký chưa?
– Đã.
– Thế nào?
– Không ăn thua. Bà ấy bảo có đem củi vớt đến, bà ấy mới giao
tiền. Bà ấy không cho vay trước.
– Thế à?
Hai chữ “thế à” rắn rỏi như hai nhát bay cuối cùng gõ xuống
viên gạch đặt trên bức tường đương xây. Thức quả quyết sắp thi hành một việc
phi thường, quay lại bảo vợ:
– Này! Mình về nhà, trông coi thằng Bò.
– Đã có cái Nhớn, cái Bé chơi với nó rồi.
– Nhưng mình về thì vẫn hơn. Cái Nhớn nó mới lên năm, nó
trông nom sao nổi hai em nó.
– Vậy thì tôi về... Nhưng mình cũng về, chứ đứng đây làm gì?
– Được, cứ về trước đi, tôi về sau.
Vợ Thức ngoan ngoãn, về làng Yên Phụ.
Tới nhà, gian nhà lụp xụp, ẩm thấp, tối tăm, chị phó Thức đứng
dừng lại ở ngưỡng cửa, ngắm cái cảnh nghèo khó mà đau lòng.
Lúc nhúc trên phản gỗ không chiếu, ba đứa con đương cùng khóc
lóc gọi bu. Thằng Bò kêu gào đòi bú. Từ trưa đến giờ, nó chưa được tí gì vào bụng.
Cái Nhớn dỗ em không nín cũng mếu máo, luôn mồm bảo cái Bé:
– Mày đi tìm bu về để cho em nó bú.
Nhưng cái Bé không chịu đi, nằm lăn ra phản vừa chửi vừa kêu.
Chị phó Thức chạy vội lại ẵm con, nói nựng:
– Nao ôi! Tôi đi mãi để con tôi đói, con tôi khóc.
Rồi chị ngồi xuống phản cho con bú. Song thằng Bò, ý
chừng bú mãi không thấy sữa, nên mồm nó lại nhả vú mẹ nó ra mà gào khóc to hơn
trước.
Chị Thức thở dài, hai giọt lệ long lanh trong cặp
mắt đen quầng. Chị đứng dậy, vừa đi vừa hát ru con. Rồi lại nói nựng:
Một lúc, thằng bé vì mệt quá lặng thiếp đi. Hai đứa chị, người
mẹ đã đuổi ra đường chơi để được yên tĩnh cho em chúng nó ngủ.
Chị Thức lẳng lặng ngồi ôn lại cuộc đời đã qua. Bộ óc chất
phác của chị nhà quê giản dị, không từng biết tưởng tượng, không từng biết xếp
đặt trí nhớ cho có thứ tự. Những điều chị nhớ lại chen chúc nhau hỗn độn hiện
ra như những hình người vật trên một tấm ảnh chụp. Một điều chắc chắn, chị ta
nhớ một cách rành mạch, là chưa bao giờ được thư nhàn, được hưởng chút sung sướng
thư nhàn như những người giàu có.
Năm mười hai, mười ba, cái đĩ Lạc, tên tục chị phó Thức, xuất
thân làm phu hồ. Cái đời chị, nào có chi lạ. Ngày lại ngày, tháng lại tháng,
năm lại năm...
Năm chị mười bảy, một lần cùng anh phó Thức cùng làm một nơi,
chị làm phu hồ, anh phó ngõa. Câu nói đùa đi, câu nói đùa lại, rồi hai người
yêu nhau, rồi hai người lấy nhau.
Năm năm ròng, trong gian nhà lụp xụp ẩm thấp, tối tăm ở chân
đê Yên Phụ, không có một sự gì êm đềm đáng ghi chép về hai cái đời trống rỗng của
hai người khốn nạn, càng khốn nạn khi họ đã đẻ luôn ba năm ba đứa con.
Lại thêm gặp buổi khó khăn, việc ít công hạ, khiến hai vợ chồng
loay hoay, chằn vặt suốt ngày này sang ngày khác vẫn không đủ nuôi thân, nuôi
con.
Bỗng mùa nước năm ngoái, bác phó Thức nghĩ ra được một cách
sinh nhai mới. Bác vay tiền mua một chiếc thuyền nan, rồi hai vợ chồng ngày
ngày chở ra giữa dòng sông vớt củi. Hai tháng sau, bác trả xong nợ, lại kiếm được
tiền ăn tiêu thừa thãi.
Vì thế năm nay túng đói, vợ chồng bác chỉ mong chóng tới ngày
có nước to.
Thì hôm qua, cái ăn, trời đã bắt đầu đưa đến cho gia đình nhà
bác.
Nghĩ đến đó, Lạc mỉm cười, se sẽ đặt con nằm yên trên cái tã,
rồi rón bước ra ngoài, lên đê, hình như quả quyết làm một việc gì.
Ra tới đê, Lạc không thấy chồng đâu.
Gió vẫn to, vù vù, gầm hét dữ dội và nước vẫn mạnh, réo ầm ầm
chảy nhanh như thác. Lạc ngước mắt nhìn trời: da trời một màu đen sẫm.
Chị đứng ngẫm nghĩ, tà áo bay kêu bành bạch như tiếng sóng vỗ
mạnh vào bờ. Bỗng trong lòng nẩy một ý tưởng, khiến chị hoảng hốt chạy vụt xuống
phía đê bên sông.
Tới chỗ buộc thuyền, một chiếc thuyền nan. Lạc thấy chồng
đương ra sức níu lại các nút lạt. Chị yên lặng đăm đăm đứng ngắm đợi khi chồng
làm xong công việc, mới bước vào thuyền, hỏi:
– Mình định đi đâu?
Thức trừng trừng nhìn vợ, cất tiếng gắt:
– Sao không ở nhà với con?
Lạc sợ hãi ấp úng:
– Con ...nó ngủ.
– Nhưng mày ra đây làm gì?
– Nhưng mình định đem thuyền đi đâu?
– Mình hỏi làm gì?...Đi về!
Lạc bưng mặt khóc. Thức cảm động:
– Sao mình khóc?
– Vì anh định đi vớt củi một mình, không cho tôi đi.
Thức ngẫm nghĩ, nhìn trời, nhìn nước, rồi bảo vợ:
– Mình không đi được...Nguy hiểm lắm!
Lạc cười:
– Nguy hiểm thời nguy hiểm cả...Nhưng không sợ, em biết bơi.
– Được!
Tiếng “được” lạnh lùng, Lạc nghe rùng mình. Gió thổi vẫn mạnh,
nước chảy vẫn dữ, trời một lúc một đen. Thức hỏi:
– Mình sợ?
Hai vợ chồng bắt đầu đưa thuyền ra giữa dòng, chồng lái, vợ
bơi. Cố chống lại với sức nước, chồng cho mũi thuyền quay về phía thượng du,
nhưng thuyền vẫn bị trôi phăng xuống phía dưới, khi nhô khi chìm, khi ẩn khi hiện
trên làn nước phù sa, như chiếc lá tre khô nổi trong
vũng máu, như con muỗi mắt chết đuối trong nghiên son.
Nhưng nửa giờ sau, thuyền cũng tới được giữa dòng. Chồng giữ
ghì lái, vợ vớt củi.
Chẳng bao lâu thuyền đã gần đầy, và vợ chồng sắp sửa quay trở
vào bờ, thì trời đổ mưa... Rồi chớp nhoáng như xé mây đen, rồi sấm sét như trời
long đất lở.
Chiếc thuyền nan nhỏ, đầy nước, nặng trĩu. Hai người cố bơi,
nhưng vẫn bị sức nước kéo phăng đi...
Bỗng hai tiếng kêu cùng một lúc:
– Giời ôi!
Thuyền đã chìm. Những khúc củi vớt được đã nhập bọn cũ và lạnh
lùng trôi đi, lôi theo cả chiếc thuyền nan lật sấp...
Chồng hỏi vợ:
– Mình liệu bơi được đến bờ không?
Vợ quả quyết:
– Được!
– Theo dòng nước mà bơi... Gối lên sóng!
– Được! Mặc em!
Mưa vẫn to, sấm chớp vẫn dữ. Hai người tưởng mình sống trong
vực sâu thẳm. Một lúc sau, Thức thấy vợ đã đuối sức, liền bơi lại gần hỏi:
– Thế nào?
– Được! Mặc em!
Vợ vừa nói buông lời thì cái đầu chìm lỉm. Cố hết sức bình
sinh nàng lại mới ngoi lên được mặt nước. Chồng vội vàng đến cứu. Rồi một tay xốc
vợ, một tay bơi. Vợ mỉm cười, âu yếm nhìn chồng. Chồng cũng mỉm cười. Một lúc,
Thức kêu:
– Mỏi lắm rồi, mình vịn vào tôi, để tôi bơi! Tôi không xốc nổi
được mình nữa.
Mấy phút sau chồng nghe chừng càng mỏi, hai cánh tay rã rời.
Vợ khẽ hỏi:
– Có bơi được nữa không?
– Không biết. Nhưng một mình thì chắc được.
– Em buông ra cho mình vào nhé?
Chồng cười:
– Không! Cùng chết cả.
Một lát, một lát nhưng Lạc coi lâu bằng một ngày, chồng lại hỏi:
– Lạc ơi! Liệu có cố bơi được nữa không?
– Không!... Sao?
– Không. Thôi đành chết cả đôi.
Bỗng Lạc run run khẽ nói:
– Thằng Bò! Cái Nhớn! Cái Bé!... Không!... Anh phải sống!
Thức bỗng nhẹ hẳn đi. Cái vật nặng không thấy bám vào mình nữa.
Thì ra Lạc nghĩ đến con đã lẳng lặng buông tay ra để chìm xuống đáy sông, cho
chồng đủ sức bơi vào bờ.
Đèn điện sáng rực suốt bờ sông. Gió đã im, sóng đã lặng. Một
người đàn ông bế một đứa con trai ngồi khóc. Hai đứa con gái nhỏ đứng bên cạnh.
Đó là gia đình bác phó Thức ra bờ sông từ biệt lần cuối cùng linh hồn kẻ đã hy
sinh vì lòng thương con.
Trong cảnh bao la, nước sông vẫn lãnh đạm chảy xuôi dòng.
[Rút từ tập truyện ngắn ANH PHẢI SỐNG,
Nxb Đời nay, Hà Nội,
1934.]
eva flight
đại lý bán vé máy bay đi mỹ
hãng máy bay korean airline
mua vé máy bay đi mỹ hãng nào rẻ
vé máy bay đi canada giá bao nhiêu
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngau Hung Du Lich
Tri Thuc Du Lich