Hoa bên trời - Hoàng Phủ Ngọc Tường
Hàng năm cứ mỗi độ Xuân về tôi lại nhớ một kỷ niệm không bao
giờ quên được. Là nhận nhiệm vụ của Tổng biên tập đi ra Huế đến gặp Nhà văn
Hoàng Phủ Ngọc Tường để đặt bài Tết riêng cho báo. Công việc tiếp theo là chờ để
lấy bản thảo được viết bằng tay (qua thư ký riêng) của nhà văn , rồi còn nhiệm
vụ đánh bài lại và in ra rồi đem đọc cho Hoàng Phủ... nghe lại . Ok rồi, lúc đó
mới vội vàng Email ra
toà soạn cho kịp dàn trang bài số Tết . Bút ký " Hoa bên trời" cũng
rơi vào trường hợp khá đặc biệt. Tất cả số bài tết đã dàn trang xong, chỉ dành
riêng 2 trang vỏn vẹn bài của Hoàng Phủ... nên anh em thư ký số Tết cứ thúc bên
lưng tôi. Hơn 22 giờ đêm, tôi từ nhà Hoàng Phủ về và ra mạng ngay để gửi bài(
vì còn ba hôm nữa là báo đã đi nhà in, nên anh em toà soạn đều làm cả
đêm). Bài Email đi rồi, thấy khoẻ người về khách sạn mới cởi đồ ra định
đi tắm. Thế là Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ gọi điện cho tôi với giọng khẩn cấp:
" Quyết hả? Cháu phải sửa ngay lại từ này nhé! Cây rì rì , chứ không phải
cây ri ri mô nghe, nhớ nghe". Tôi trở lời : " Dạ cháu đánh cây rì rì
mà". Thím Dạ đầu giây nói răng thím đọc thấy viết cây ri ri" thôi thì
đúng rồi. Thím mang kính vào mới thấy. Bài bút ký " Hoa bên trời".
Tổng biên tập quyết định số tiền nhuận bút là 5 triệu đồng. Bài dành riêng cho
Báo GĐ&XH số Xuân 2005.
Giới thiệu đến những bạn đọc và những người mê văn Hoàng Phủ
... Để Tết này có vắng bài trên các báo xuân cũng đỡ thấy trống vắng...
Đã lâu tôi không hề nhắc đến hoa, và tôi cảm nhận tôi đã có lỗi đối
với những người bạn tâm tình ấy dọc suốt một quảng đời chìm đắm trong khói lửa.
Thật ra, những cánh hoa nhỏ bé và mong manh ấy đã viền con đường
tuổi trẻ đầy kham khổ của tôi. Chiến chinh qua rồi có nhiều cái tôi đã quên,
nhưng những cái hoa dại dọc đường không hiểu sao tôi vẫn nhớ như in, như thể
chúng đã được ấn vào trí nhớ của tôi thành những vết sẹo.
Trước hết tôi phải nói về những bông hoa phù dung, mà tôi đã gặp
bên một đường đồi ở Đà Lạt trước ngày tôi bỏ phố lên rừng. Thú thật là từ trước
đến nay, tôi không ngờ là có một loài hoa oái ăm đến thế: màu trắng buổi sáng,
thì tưởng như không có vật gì ở trên đời trắng hơn, màu hồng vào buổi trưa thì
quyến rũ như màu má giai nhân và màu tím vào buổi chiều luôn luôn khiến ta đau
xót, như một niềm thương tiếc khôn nguôi. Cứ ba màu như thế nối tiếp nhau, và
trải qua chỉ trong một ngày. Hoa phù dung biểu lộ với tôi lòng ham thích
cuộc sống của nó, mặt khác, hình như nó đã phải sống hụt một đời hoa. Thậm chí,
có khi ngồi buồn, tôi nghĩ rằng trong thế giới này nếu có một vật gì có vận tốc
nhanh nhất thì vật ấy chính là cuộc đời của hoa phù dung. Thấy đóa hoa trắng muốt
từ vườn nhà ai đổ nghiêng ra bên đường quá đẹp, tôi muốn hái về làm quà tặng
cho cô bạn gái, nhưng chợt nhớ ra tôi còn bận chút việc ở phố, bèn tự nhủ đợi
lúc đi phố về hẳn hái. Trưa hôm ấy, tôi gặp việc bất ngờ không trở về lối vườn
cũ như đã hẹn. Mãi đến lúc chiều xế, tôi mới trở lại, với quyết tâm hái cho được
bông hoa trắng gặp bên đường hồi sáng về tặng cô bạn gái nhân ngày sinh nhật.
Nào ngờ tìm mãi, chỉ thấy một bông hoa tím bầm héo rũ trên cành, tôi cứ nghĩ là
mình đã gặp một bông hoa khác. Sau này tôi mới hay rằng chính nó là bông hoa trắng
hồi sáng, và nó mang tên là hoa phù dung, tôi lại thấy một cảm giác rờn rợn như
đối với một số phận đầy bi thảm. Như thể rằng nó không là một loài thực vật, mà
là một thiếu nữ. Một thứ hoa khác mà tôi không thể không nhắc đến mỗi lần
nói về hoa, là hoa ngũ sắc. Nó như một thứ quà tặng mà thiên nhiên
dành cho tuổi thơ của tôi, hay nói cách
khác, chính là nhờ hoa ngũ sắc mà tuổi thơ đầy ràng buộc trong sự nghiêm khắc của
cha tôi, tôi vẫn cảm thấy tuổi nhỏ của tôi có đôi phần hoang dại. Hoa ngũ sắc mọc
hoang bên đường đi, mỗi đóa hoa chỉ lớn bằng đồng xu, với những cánh hoa nhỏ
xíu có năm màu đỏ, gạch, vàng, trắng, xanh; trái kết thành chùm khi chín màu
đen sẫm, có vị ngọt. Tôi có cái thú mỗi khi đi học về, thường tha thẩn bên những
trái chín hoặc hút chất mật ngọt cuối những cánh hoa. Trước khi lên rừng, hình ảnh
thân yêu của thành phố hiện ra đầy tâm trí tôi. Lúc tôi thong thả bước qua cầu
Trường Tiền là hình ảnh của những bông hoa ngũ sắc, mọc hồn nhiên trên nền đổ
nát của những cung điện hoang phế. Chúng sặc sỡ bên đường như một bầy trẻ con
đang ríu rít chào tôi. Trong một nỗi lưu luyến như tuồng không phải đối với những
bông hoa, tôi thì thầm với những bông ngũ sắc: "Tạm biệt nhé! Tạm biệt
tuổi thơ của ta!"
Hai loài hoa trên tuy không thuộc về thế giới khói lửa nhưng chúng đã giữ một
vai trò quan trọng trong tâm hồn tôi, và thường xuyên có mặt giữa những tổ hợp
hoa đã cấu trúc nên thế giới tình cảm của tôi trong chiến tranh, vả lại tôi
cũng e rằng tôi không còn dịp nào khác để nói về chúng.
Thời kỳ ở rừng, sáu tháng đầu, tôi vẫn được hưởng tiêu chuẩn "khách
mời" của thành phố Huế. Có một đêm tôi theo cơ quan một địa điểm xa khỏi
nơi đóng trụ sở để đề phòng địch mở cuộc càn quét. Địa điểm ấy là một cánh rừng
thưa thuộc vùng giáp ranh, mặt đất phẳng khá rộng và mọc đầy một giống hoa địa
lan lạ, trước nay tôi chưa hề thấy. Hoa gồm có một cọng dài, trên đầu nở hai tầng
hoa màu khác nhau: tầng trên các cánh hoa màu trắng, tầng dưới màu vàng cháy.
Em trai tôi đi hái chừng 5 cọng hoa cắm vào một ống giang có đuôi được vạt nhọn
để cắm xuống đất, mang đến đặt cạnh võng tôi. Đó là bình hoa đầu tiên em tôi tặng
tôi ở Trường Sơn, khi tôi đi xa chiếc bàn viết "mộng dưới hoa" của
tôi ở thành phố. Sáng hôm sau, tôi thức dậy trong tiếng chim rừng và tiếng suối
reo. Tôi xiết bao ngạc nhiên khi thấy cành địa lan gần tôi đã thay đổi màu từ
bao giờ. Màu vàng cháy phía dưới đã dâng cao lên ngọn và tầng hoa trắng phía
trên bị thu hẹp lại. Nhìn thật kỹ, tôi chợ phát hiện rằng cành lan mà lúc đầu
tôi tưởng rằng có hai màu khác nhau, hóa ra chỉ có một màu trắng và khi càng về
già, những cánh hoa trắng đều ngả sang màu vàng cháy. Tôi cảm ơn em trai tôi đã
mang tặng tôi chút dư vang thân thiết của thành phố trong những ngày tôi đi "đánh
bạn với lau lách" ở rừng Trường Sơn. Tôi còn phải sống nhiều năm với
tình bạn ấy và sau này tôi nghiệm ra rằng đấy là những năm tháng mang tất cả ý
nghĩa của cuộc đời tôi. Những năm tháng ấy giống như ý niệm hạt nhân của nguyên
tử, mang toàn bộ trọng lượng của đời tôi và nếu như loại trừ những tháng năm ấy
ra khỏi đời mình thì mọi biến cố còn lại của tôi sau này sẽ trở nên hụt hẫng mất
trọng lượng như những vật thể ở ngoài không gian.
Một hôm, tôi đi lạc vào một cánh rừng rộng đầy những cây mây song. Tôi nằm
áp mặt xuống đất, dòm nghiêng dưới chân những bụi mây, cố tìm dấu vết của những
con heo rừng thường ẩn nấp trong đó. Ở một bụi cây, tôi tình cờ phát hiện một
loại cây chi mà lá phiến tròn cuống dài trông như bụi rau má; biết đâu nếu quả
là rau má thì tốt quá; những năm này chúng tôi đang đói. Tôi nhổ một bụi cây nhỏ
và lùi ra khỏi gốc mây, mân mê nhìn kỹ. Dưới chân những cuống lá, có một đàm
hoa vàng chói; hình như những chiếc lá cố tình vươn lên cáo để giấu kín hoa. A,
đúng là hoa Păng xê, nhưng ở đây hoa không có màu tím than mà trở nên vàng
chói; tuy nhiên trông nó vẫn tinh khiết và cao sang lạ lùng. Hoa Păng xê có tên
trong danh sách những loài hoa quý mà những người yêu nhau thường tặng cho nhau
để thay lời nhắn nhủ: "đừng để ai biết chúng mình yêu nhau". Ở
giai đoạn bắt đầu, người ta thường có thói quen giấu kín người khác về tình yếu
của mình; có lẽ vì vậy mà người ta gọi tâm hồn con người là một "khu
vườn bí mật". Nhiều cô gái ở thành phố vẫn thích ghim một biểu tượng
hoa Păng xê trước ngực áo; để hé mở một chút về "khu vườn bí mật" của
mình, như vậy, trông lại càng quyến rũ. Tôi nhớ họa sĩ Đinh Cường có vẽ tặng
tôi bức sơn dầu "Bản giao hưởng bỏ dở" trong đó vẽ một hoa
Păng xê đặt trên một chiếc dương cầm với chiếc ghế ngồi bỏ trống. Có một dạo
tôi rất mê hoa Păng xê. Cô em gái của tôi bèn nhổ trộm cây hoa ấy trong vườn
hoa của bà hiệu trưởng định mang về tặng tôi. Chẳng may sự việc bị phát giác và
cô bé tội nghiệp suýt bị đưa ra tòa án về tội ăn cắp. Hoa Păng xê đã để lại một
kỉ niệm cay đắng như thế trong tâm hồn tôi, nên tôi chợt vui mừng vô kể khi gặp
lại nó giữa chốn hoang vu này. Dù nó không phải màu tím nhưng tôi cứ tin rằng
nó là hoa Păng xê thứ thiệt; biết đâu hoa Păng xê cũng có một màu khác, giống
như kỉ niệm có nhiều màu. Tôi nghĩ rằng thứ hoa thường thấy đều là hoa trang
trí nội thất, trong khi Păng xê lại là hoa trang trí tâm hồn, tôi yêu hoa Păng
xê vì nó là dấu hiệu của nội tâm thầm kín, nó mang trả cho tôi những ngày rong
chơi tha hồ khi còn ở thành phố. Tôi tình cờ phát hiện ra nó ở một cánh rừng
hoang dại mà tôi chỉ đi qua có một lần, đưa nó ra ánh sáng từ một mặt đất ẩm ướt,
dưới chân tối mờ và gai góc của một bụi mây song. Tôi ao ước một ngày chấm dứt
chiến cuộc để tôi đi lang thang trên những nẻo đường rụng đầy lá vàng tươi, hoặc
ngẩn ngơ đứng nhìn dòng sông mượt mà trôi đi với những con đò áo trắng, và tôi
sẽ hoàn toàn hạnh phúc trong thành phố của tôi, với một biểu tượng của hoa Păng
xê trên ngực. Mặt khác, tôi biết rằng tôi còn phải đánh bạn với lau lách trong
nhiều năm; vật mà tôi luôn có bên mình, chính là khẩu súng, không phải là hoa,
và còn lâu mới đến hoa Păng xê. Và đến bao giờ thì những bạn bè tri kỉ của tôi
hiện ở phố biết được rằng chính tôi đã khám phá ra một loài hoa Păng xê màu
vàng từ trong lòng một cánh rừng Trường Sơn? Ngày đó, thì chắc tôi đã già. Lau
lách trên núi cũng già. Nhưng hoa Păng xê thì mãi mãi vẫn giữ riêng một điều gì
thầm kín.
Chiến tranh càng kéo dài, những khách chiến quân thành phố
càng bị đẩy dần lên cao trên Trường Sơn; ở đó là rừng già và hoa dại càng trở
nên hiếm hoi. Thỉnh thoảng, tôi lại gặp một cây tùng độc lập, với những con đại
bàng viễn du ghé lại ăn trái tùng, hoặc những đêm ngủ rừng, thức giấc tôi nghe
cả tiếng đười ươi hú...Tôi rất ít gặp hoa nhưng âm thầm trong lòng, tôi vẫn nhớ
chúng. Cơ quan di chuyển nhiều nơi, tôi vẫn lích kích mang theo ba lô một mảnh
gỗ mộc có bám mấy sợi rễ phong lan, đem về treo lủng lẳng ở chỗ làm việc. Cái
giống Phong lan thật đời, sống không cần đất và nước, thường thì
trông xấu xí, cục mịch và im lìm đến độ tưởng rằng nó đã chết. Nhưng cứ đến mùa
thì nó lại bất ngờ ra hoa, hoa đẹp và kỳ lạ không thể tưởng. Cành phong lan của
tôi cũng thế. Một mùa xuân, nó đã nở cho tôi hai giò hoa đầy những hoa vàng với
những chấm tím. Chính nhờ có nó mà tôi biết rằng mùa xuân đã về, vì theo thói
quen, tôi làm việc không hề nhìn đến quyển lịch. Nó khiêm tốn và kiên cố như một
chân lý, cứ đúng lúc lại xuất hiện.Những lần công tác, tôi thường mang theo
dòng sông Hương chảy trên rừng. Lần ấy có Khoa cùng đi với tôi. Chúng tôi cùng
đi dọc theo bờ sông Hương đúc bằng một dãi đá liền xa đến mút mắt, lô nhô những
hòn đá nhoi cao hơn như hình những nhà sư ngồi thiền định bên sông, cạnh những ục
nước mà khi thủy triều rút xuống, còn để lại ít nước và những con cá sao chạy
loăng quoăng từ ục này sang ục khác. Trình thường đi công tác ghé qua đây, dùng
súng AK bắn thẳng vào những ục đá lớn để vớt những con cá sao nổi lềnh lềnh đem
về nấu canh với lá giang. Ở những ục đá nhỏ hơn mà nước sông đã kịp khô đi
trong ngày, tôi tìm thấy một cây gì không biết, lớn bằng que tăm với ba sợi rễ
bám vào mặt đá, mỗi cây nhỏ xíu ấy đều đội một đóa hoa nhỏ và đỏ thắm trên đầu.
Nhìn kỹ nhiều bông hoa chung quanh, tôi hiểu ra mỗi cây này chỉ sống và nở hoa
trong một ngày rồi chết, cả hoa và cây đều cùng chết một lần. Tôi chỉ Khoa xem
hiện tượng ấy, nói với Khoa rằng cây hoa này giống như con người sống để dâng
hiến cho cuộc đời một trái tim đỏ thắm rồi im lặng chết. Hãy học bài học của
bông hoa này, sống để hoàn thành hành động dâng hiến trái tim mình cho Tổ quốc,
một lần thôi. Khoa chia tay tôi lội qua sông một mình, chiếc gùi mang nặng trên
lưng. Tôi nhìn theo Khoa cho đến lúc cái bóng nhỏ của Khoa lần khuất trong rừng
già, thầm nghĩ rằng đã hết những ngày vui vẻ trên nương rẫy, chuyến về vùng sâu
lần này của Khoa là hành động nở hoa của cây cỏ dại.
Ở một quãng nào đó của sông Hương trên rừng, chúng tôi đi len
lỏi trong vài tiếng đồng hồ liền giữa một loài cây dại có lá và hoa rất đẹp: lá
thon thả hình con mắt lá răm, mặt lá bóng láng phản chiếu ánh mặt trời và hoa
có năm cánh xòe ra, màu hồng thắm đẹp và nhiều giống như hoa phượng. Chúng tôi
quen gọi là cây rì rì, tên Cà tu của nó là Arui, cũng thường dùng để đặt
cho những cô gái. Cây rì rì mọc sát bờ nước và thường lan ra ôm choàng kín những
vầng đá giữa dòng sông. Lần ấy chúng tôi đi công tác về ngang qua bãi rì rì bên
sông, bèn dừng lại tắm sông. Tôi bơi ra xa, níu cho kì được một cây rì rì đứng
an nhiên trên một tảng đá giữa lòng sông. Giữa lúc ấy thì trực thăng Mỹ chợt đến.
Tôi chẳng biết chạy đi đâu bèn đứng yên, cầm một cành hoa rì rì đỏ che trên đầu.
Bạn bè tôi đều lo cho tôi, nhưng chỉ thấy tôi vẫn tiếp tục cười nói với họ, với
cành hoa đỏ trên tay. Trực thăng đi qua, khẩu đại liên ở cửa máy bay chỉ cách đầu
tôi một quãng ngắn. Nhưng hình như tên xạ thủ súng máy chăm chú nhìn vào ven
sông nên chẳng nhìn thấy tôi đứng dưới máy bay. Máy bay đi qua, tôi đứng ngật
ngưỡng trên tảng đá, nhìn bao quát cả tầm mắt một dãy bờ sông, hoa rì rì nở thắm
cả dặm dài, giống như hoa phượng trên những đường phố. Ít ai ngờ rằng trong chiến
tranh, có một lần tôi đã sững sờ đứng ngắm những bông hoa dại này.
Tôi không thể nào không nhắc đến loài hoa núi ấy mà KanLen đã
hái tặng tôi lúc chia tay. Thú thật rằng đến bây giờ tôi vẫn không biết tên nó
là gì và có lẽ cả KanLen cũng không biết tên; mãi mãi nó là một bông hoa rừng
vô danh. Nó lớn bằng một đóa hoa hồng, có nhiều cánh, màu xanh hồ thủy (suốt một
thời gian dài ở Huế tôi chưa hề gặp một loài hoa có màu xanh cả, ngoại trừ những
bông hoa cỏ, màu xanh da trời). KanLen đã hái nó từ một bụi bờ nào đó đưa cho
tôi và nói bằng giọng huyền thoại: "Một nghìn năm hoa này mới nở một
lần".
Cuối ngày làm việc, tôi ra thung lũng chuyện trò cùng KonLài.
Như thường lệ, ông cùng cô con gái KenLen của ông ngồi chơi trong một chiếc nốn
rộng bên bờ suối Tà Lơng của thôn A Dài. Bãi cỏ ở nơi đây rộng ngút ngàng, chạy
dài suốt thung lũng, thỉnh thoảng điểm những cây ổi đầy những trái chín. Ông
KonLài có vẻ là một nhà bảo vệ văn hóa Kà Tu bằng cách đi đâu cũng lăn theo một
chiếc nón thay thế giường chiếu, và dùng một chiếc ống voọc nặn bằng đất sét
nung với cái đuôi mây dài và đánh lửa bằng đá. Ông có một bộ dụng cụ đánh lửa rất
đặc biệt. Ông dùng một lưỡi dao nặng bằng sắt quẹt mạnh vào một hòn đá, tia lửa
bắn vào một nhúm bùi nhùi kèm theo; tiếp theo, ông thổi mạnh vào nhúm bùi nhùi
làm lửa bùng lên thành ngọn cháy lan sang một đoạn dây thừng làm bằng sợi đoác
ngâm bùn và châm thuốc bằng sời dây thừng ấy. KanLen hôm nay diện một áo sơ mi
màu đen có hoa văn trắng, và một chiếc váy màu xanh; ý chừng hai cha con sang dự
hội làng ở thôn A Dài này. Trông cô thật trẻ trung và đầy sức sống. Tôi thì
theo cơ quan sang nhận một tấm rẫy cũ do đồng bào ở thôn A Dài tặng. Ngồi nói
chuyện gẫu với già KonLài một chốc, KanLen đưa mắt ra hiệu bảo tôi vào rừng.
Chúng tôi đến một bãi cỏ rộng với nền đá ẩm mọc đầy một loài hoa cỏ dại, gần giống
như hoa tường lan ở Huế; màu trắng ngà và có sáu cánh. Bãi đất này chúng tôi rất
thích ngồi chơi với nhau mỗi lần có việc rẫy phải qua A Dài. Tôi vừa được cơ
quan gọi về làm hết mọi việc thay thế cho anh em trong tòa soạn triển khai xuống
đồng bằng phát động phong trào nhân dịp địch đang hoang mang sau chiến dịch Nam
Lào. Trước mắt tôi đám hoa cỏ trắng líu ríu trong gió núi, gợi cho
tôi những bông hoa ngũ sắc ngày xưa. Tôi dối KanLen rằng tôi sắp phải về vùng
sâu công tác và phải xa nàng ít lâu. KanLen rơm rớm nước mắt vì sợ tôi sẽ chết.
Thời buổi ấy vùng sâu đầy ắp bọn bình định nông thôn. KaLen bảo tôi giọng thật
tội nghiệp:
- Nếu anh hy sinh, em sẽ dành cho anh một loài hoa khác để cắm
trên mộ liệt sĩ hoặc một mô đất nào đó ở nghĩa trang xã. Còn nếu anh vẫn sống,
lại đi yêu người khác thì em cầu nguyện cho những bông hoa trắng này chết đi,
và em sẽ chẳng bao giờ trở lại đây nữa.
eva flight
ve may bay hang eva di my
mua vé máy bay korean air
mua vé máy bay đi mỹ giá rẻ
giá vé máy bay từ tphcm đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thức Du Lịch