TTO - Cảm nhận đầu tiên của nhiều người khi đọc bài văn này,
đó là tác giả đã có một “bút lực” rất đáng nể: 15 trang. Đó là chưa kể thí sinh
còn có kiến thức chắc chắn đến mức ngạc nhiên. Và còn gì nữa?. Hãy xem các nhà
giáo, nhà nghiên cứu và giảng dạy văn học đánh giá, nhận định về bài thi này...
Hôm nay, 19-8, ĐH Huế đã công bố bài văn đạt điểm 10 của thí
sinh Nguyễn Thị Thu Trang dự thi vào khối D ngành tài chính - kế toán Trường ĐH Kinh tế
thuộc ĐH Huế. Tất nhiên trong bối cảnh không thiếu những bài văn “dựng tóc gáy”
ở lứa tuổi “cô tú cậu tú”, đây quả là một bài thi vượt trội và đặc biệt là sự vững
vàng về kiến thức.
Đáp ứng nguyện vọng của đông đảo bạn đọc, Tuổi Trẻ Online xin
đăng nguyên văn bài thi này:
Câu 1:
Xuân Diệu (1916 - 1985) - một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn
của dân tộc, đã để lại cho đời một sự nghiệp sáng tác thật lớn lao và rất có
giá trị. Hơn 50 năm lao động miệt mài trong thế giới nghệ thuật ấy, con người
và thơ văn của Xuân Diệu đã có sự chuyển biến rõ nét từ một nhà thơ lãng mạn
thành nhà thơ cách mạng.
“Tôi nghĩ rằng nếu bây giờ làm lại bài văn này, có lẽ tôi chỉ làm được
70% số điểm là cùng, chứ không hay hơn như vậy đâu. Bởi vì khi làm bài thi,
có nhiều áp lực buộc mình phải tập trung huy động tối đa mọi nguồn kiến thức;
mặt khác, lúc đó cũng có một chút “thăng hoa” nên mới làm bài được như vậy.
Tuy nhiên, sau khi thi xong, ngồi kiểm tra lại, tôi thấy câu 3 chưa thật
sự như ý muốn của mình, bởi vì lúc đó đã sắp hết giờ; nếu cho thêm 30 phút nữa,
tôi sẽ viết hoàn hảo hơn.
Riêng câu 2, tôi thật sự rất hài lòng, vì vốn rất thích truyện ngắn Vợ
nhặt của Kim Lân và đã học rất kỹ bài giảng tác phẩm này.
Hiện nay tôi đang theo ngành tài chính - kế toán nên phải dồn sức theo
học bên đó đã. Tuy nhiên, cho dù có là ngành gì đi nữa thì tôi vẫn xem văn
chương như món ăn hằng ngày. Đọc văn, tâm hồn mình trở nên phong phú và cuộc
đời sẽ đẹp hơn rất nhiều”.
|
Đó là bước chuyển tất yếu của một trí thức yêu nước, một tài
năng nghệ sĩ. Thơ văn Xuân Diệu có đóng góp lớn vào quá trình phát triển của
văn học VN. Có thể tìm hiểu sự nghiệp văn học của nhà thơ qua thơ và văn xuôi.
Về lĩnh vực thơ ca, chúng ta có thể tìm hiểu qua hai giai đoạn
chính: trước và sau Cách mạng Tháng 8 (CMT8).
Trước CMT8, Xuân Diệu là một nhà thơ lãng mạn. Các tác phẩm
chính: tập thơ “Thơ thơ”(1938) và “Gửi hương cho gió” (1945). Nội
dung của thơ Xuân Diệu trong thời kỳ này là:
Niềm say mê ngoại giới, khát khao giao cảm
trực tiếp, cháy bỏng, mãnh liệt với cuộc đời (“Vội vàng”, “Giục giã”).
Nỗi cô đơn rợn ngợp của cái tôi bé nhỏ giữa dòng thời gian vô
biên, giữa không gian vô tận (“Đời kỹ nữ”).
Nỗi ám ảnh về thời gian khiến nhà thơ nảy sinh một triết lý về
nhân sinh: lẽ sống vội vàng (“Vội vàng”).
Nỗi khát khao đến cháy bỏng được đắm mình trọn vẹn giữa cuộc
đời đầy hương sắc và thể hiện nỗi đau đớn, xót xa trước khát vọng bị lãng quên
thật phũ phàng trước cuộc đời (“Dại khờ”, “Nước đổ lá khoai”).
Sau cách mạng, thơ Xuân Diệu đã vươn tới chân trời nghệ thuật
mới, nhà thơ đã đi từ “cái tôi bé nhỏ đến cái ta chung của mọi người”
(P.Eluya). Xuân Diệu giờ đây đã trở thành một nhà thơ cách mạng say mê, hăng
say hoạt động và ông đã có thơ hay ngay
trong giai đoạn đầu. Xuân Diệu chào mừng Cách mạng với “Ngọn quốc
kỳ” (1945) và “Hội nghị non sông” (1946) với tấm lòng tràn đầy
hân hoan trước lẽ sống lớn, niềm vui lớn của cách mạng.
Cùng với sự đổi mới của đất nước, Xuân Diệu có nhiều biến
chuyển trong tâm hồn và thơ ca. Ý thức của cái Tôi công dân, của một nghệ sĩ, một
trí thức yêu nước trước thực tế cuộc sống Đất nước đã đem đến cho ông những nguồn
mạch mới trong cảm hứng sáng tác. Nhà thơ hăng say viết về Đảng, về Bác Hồ, về
Tổ quốc VN, về quá trình xây dựng CNXH miền Bắc và công cuộc thống nhất nước
nhà. Các tác phẩm tiêu biểu: tập “Riêng chung” (1960), “Hai đợt
sóng” (1967), tập “Hồn tôi đôi cánh” (1976)…
Từ những năm 60 trở đi, Xuân Diệu tiếp tục viết thơ tình. Thơ
tình Xuân Diệu lúc này không vơi cạn mà lại có những nguồn mạch, cảm hứng mới.
Trước Cách mạng, tình yêu trong thơ ông hầu hết là những cuộc tình xa cách, cô
đơn, chia lìa, tan vỡ… nhưng sau Cách mạng, tình yêu của hai con người ấy không
còn là hai vũ trụ bé nhỏ nữa mà đã có sự hòa điệu cùng mọi người. Tình cảm lứa
đôi đã quyện cùng tình yêu Tổ quốc. Xuân Diệu nhắc nhiều đến tình cảm thủy
chung gắn bó, hạnh phúc, sum vầy chứ không lẻ loi, đơn côi nữa (“Dấu nằm”, “Biển”,
“Giọng nói”, “Đứng chờ em”).
Về lĩnh vực văn xuôi, có thể nói Xuân Diệu quả thực tài tình.
Bên cạnh tố chất thơ ca bẩm sinh như thế, Xuân Diệu còn rất thành công trong
lĩnh vực văn xuôi. Các tác phẩm chính: “Trường ca” (1939) và “Phấn thông vàng”
(1945). Các tác phẩm này được viết theo bút pháp lãng mạn nhưng đôi khi ngòi
bút lại hướng sang chủ nghĩa hiện thực (“Cái hỏa lò”, “Tỏa nhị Kiều”).
Ngoài ra, Xuân Diệu còn rất tài tình trong việc phê bình văn
học, dịch thuật thơ nước ngoài. Các tác phẩm tiêu biểu: “Kí sự thăm nước Hung”,
“Triều lên”, “Các nhà thơ cổ điển VN”, “Dao có mài mới sắc”.
Dù ở phương diện nào, Xuân Diệu cũng có đóng góp rất to lớn với
sự nghiệp văn học VN. Vũ Ngọc Phan từng nhận xét: “Xuân Diệu là người đem nhiều
cái mới nhất cho thơ ca hiện đại VN”. Sự đóng góp của Xuân Diệu diễn ra đều đặn
và trọn vẹn trong các thể loại và các giai đoạn lịch sử của dân tộc. Chính vì
thế có thể nói rằng, Xuân Diệu xứng đáng là nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn.
Câu 2:
Đề thi môn Văn, khối D
(Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian phát đề)
Câu 1: (2 điểm)
Anh/chị hãy trình bày những nét chính trong sự nghiệp thơ văn của Xuân
Diệu.
Câu 2: (5 điểm)
Phân tích vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống ở các
nhân vật: Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân).
Câu 3: (3 điểm)
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Kính gửi cụ Nguyễn Du của Tố
Hữu:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày Hỡi người xưa của ta nay Khúc vui xin lại so dây cùng người! |
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm
trí Kim Lân - một nhà văn hiện thực, có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một
con người một lòng đi về với “thuần hậu phong thủy” ấy. Ngay sau
Cách mạng, ông đã bắt tay viết ngay tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”. Khi hòa bình lặp
lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và
cuối cùng, truyện ngắn “Vợ nhặt” đã ra đời.
Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của
mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của
tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu
như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả
năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã khám phá ra diễn biến
tâm lý thật bất ngờ.
Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói: “Khi viết về nạn
đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm
đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết
một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết
nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn
hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”.
Và điểm sáng mà nhà văn muốn đem vào tác phẩm chính là ở chỗ
đó. Đó chính là tình người và niềm hi vọng về cuộc sống, về tương lai của những
con người đang kề cận với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống
“nhặt vợ” tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật
tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường
nhưng có sự chọn lọc kĩ lưỡng ấy, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt ta một
không gian nạn đói thật thảm hại, thê lương. Trong đó ngổn ngang những kẻ sống,
người chết, những bóng ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng hờ khóc và tiếng gào thét
kinh hoàng của đám quạ.
Bằng tấm lòng đôn hậu chân thành, nhà văn đã gửi gắm vào
trong không gian tối đen như mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai,
những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà
văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa
trước ngọn cờ đỏ phất phới cùng đám người đói phá kho thóc Nhật ở cuối thiên
truyện.
Có thể nói rằng, Kim Lân đã thật xuất sắc khi dựng lên tình
huống “nhặt vợ” của anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật
bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử
tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo
bòng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ
ích kỷ hơn là vị tha và người ta rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ.
PGS Trần Hữu Tá:
Có chỗ non yếu, nhưng vẫn đáng điểm 10
Về mặt nội dung, kiến thức văn học sử của TS rất chắc chắn. Sự chắc chắn
ấy thể hiện rõ ở phần trả lời hai câu đầu. Mặc dù TS cũng có sơ suất: viết
dài dòng, viết những điều người ta không hỏi (như câu 1 TS phân tích khá chi
tiết những tập thơ trước và sau cách mạng, theo tôi không cần thiết lắm).
Nhưng câu 1 cũng chứng tỏ TS hiểu thấu đáo sự nghiệp thơ văn của Xuân
Diệu.
Ở câu 2 TS không những thể hiện khả năng am hiểu tác phẩm mà còn hiểu động
cơ sáng tác của tác giả, ý kiến nhận định của giới nghiên cứu cũng như những
điều tác giả tâm sự về tác phẩm của mình. Nó thể hiện sự học hỏi, nghiên cứu
công phu của TS.
Thêm nữa, TS còn trích dẫn rất chính xác những câu văn trong tác phẩm Vợ
nhặt, chứng tỏ sức nhớ khá tốt và đáng khen.
Một ưu điểm nữa là TS có cảm thụ tinh: biết nhấn đến chi tiết nghệ thuật,
đắt giá, có khả năng tổng hợp, khái quát khá tốt.
Ví dụ câu số 2 có thể có hai cách làm: cách thứ nhất sẽ đi vào từng
nhân vật. Cách này “thật thà”, an toàn nhưng dễ bị lặp lại, thiếu sức hấp dẫn.
Ở đây, TS đã chọn cách thứ hai: phân tích chung, trình bày mang tính tổng hợp
với cái nhìn khái quát.
Đặc biệt, TS có cách diễn đạt lưu loát và không có ý lặp lại về kết cấu,
đi ngay vào hai yêu cầu cụ thể của đề tuy chưa cân đối lắm (phân tích kỹ về
tình người nhưng chưa có sự kỹ lưỡng tương xứng khi đề cập đến niềm hi vọng
vào cuộc sống của ba nhân vật).
Nhưng việc chọn phương pháp thứ hai đã thể hiện bản lĩnh, khả năng làm
chủ ngòi bút của TS, thể hiện sự tự tin trong việc cảm và hiểu tác phẩm.
Ta cũng nhận ra ngay phần trả lời câu hỏi số 3 non hơn hai câu đầu. Ý tứ
chưa đầy đủ, bình giảng thiếu chặt chẽ, hệ thống, diễn đạt đôi chỗ vướng vấp.
Tuy nhiên, tôi cho rằng bài văn đáng được điểm 10.
Thầy Mai Văn Hoan (giáo viên văn Trường THPT Quốc Học - Huế):
Tôi vừa vui vừa lo
Đọc bài văn điểm 10 này, tôi vừa mừng vừa lo, vừa vui vừa buồn. Mừng và
vui vì lâu lắm rồi mới có một điểm 10 môn văn trong kỳ thi đại học.
Càng mừng và vui hơn vì trong tình trạng hiện nay rất hiếm học sinh say
mê với môn văn, lại có một học sinh chịu khó học, chịu khó đọc, đặc biệt là
có một sức viết rất dồi dào. Trong khoảng 180 phút mà viết được 15 trang như
thế quả thật đáng nể!
Nhưng tôi lại cảm thấy lo và buồn. Điều đáng lo nhất, qua bài văn này,
đó là cách trình bày vấn đề: đủ ý, nhưng dài dòng quá.
Câu 1, theo tôi, lẽ ra em chỉ cần viết một trang là đủ; nhưng em kéo đến
ba trang, và có nhiều chỗ trình bày những kiến thức không cần thiết. Về cách
diễn đạt, bài viết còn đôi chỗ vụng và hơi sáo. Và đây cũng là tình trạng
chung của học sinh hiện nay.
|
Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại như ở
các nhân vật như anh cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Chúng ta từng kinh
hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đồng”, “người lớn xanh xám như những
bóng ma”, trước “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi ngây của xác người”,
từng ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết” ấy nhưng lạ thay chúng ta
thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị
ấy của Tràng, bà cụ Tứ và cả người vợ của Tràng nữa.
Một anh thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một con
người - một thân xác vạm vỡ lực lưỡng mà dường như ngờ nghệch, thô kệch và xấu
xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp. “Cái đói đã tràn đến xóm này tự
lúc nào”, vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ trong khi anh không biết cuộc
đời mình phía trước ra sao. Tràng thật là liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng
thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình. Điều ấy thật éo le
và xót thương vô cùng.
Và dường như lúc ấy trong con người của Tràng kia đã bật lên
niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa
đựng một ao ước thiết thực về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa
đôi. Hành động của Tràng dù vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phờ tầm phào
cho vui nhưng điều ấy cũng hé mở cho ta thấy tình cảm của một con người biết
yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ.
Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã “sờ sợ”,
“ngờ ngợ”, “ngỡ ngàng” như không phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng
cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia đình trong hắn.
Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tính.
Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cộc cằn, Tràng đã sớm trở
thành một người chồng thật sự khi đón nhận hạnh phúc của gia đình. Hạnh phúc ấy
như một cái gì đó cứ “ấm áp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có bàn tay
vuốt nhẹ sống lưng”. Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến “Trong một lúc Tràng dường
như quên đi tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày đã
qua”.
Và Tràng đã ước ao hạnh phúc. Mạch sống của một người đàn ông
trong Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi rất bất ngờ nhưng rất hợp lôgich.
Những thay đổi ấy không gì khác ngoài tâm hồn đôn hậu, chất phác và giàu tình
yêu thương hay sao?
Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh
phúc ấy thật khác lạ. Tràng không phải là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây
đã là một con người có hiếu, một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý
nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn một
cảnh gia đình hạnh phúc, “Hắn thấy hắn yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng”,
“Hắn thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này”. Hắn cũng xăm xắn ra sân
dọn dẹp nhà cửa.
Hành động, cử chỉ ấy ở Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường
mà đó là sự biến chuyển lớn. Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hòa thuận
ấy đã nhen nhóm trong hắn ước vọng hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ đổi
thay khi hắn nghĩ đến đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Rồi số phận, cuộc
đời của hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế.
Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người.
Đêm tối ấy rồi sẽ qua đi để đón chờ ánh sáng của cuộc sống tự do đang ở phía
trước, trước sức mạnh của cách mạng. Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại gieo
rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình. Người vợ nhặt không phải
ngẫu nhiên xuất hiện trong thiên truyện. Thị xuất hiện đã làm thay đổi cuộc sống
của xóm ngụ cư nghèo nàn, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác u tối
của mọi người rạng rỡ hẳn lên.
Từ con người chao chát chỏng lỏn đến cô vợ hiền thục, đảm
đang là cả một quá trình biến đổi. Điều gì làm thị biến đổi như thế? Đó chính
là tình người, là tình thương yêu. Thị tuy theo không Tràng về chỉ qua bốn bát
bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta không khinh
miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kiến kia
bóp nghẹt quyền sống con người.
Thị xuất hiện không tên tuổi, quê quán, trong tư thế “vân vê
tà áo đã rách bợt”, điệu bộ trông thật thảm hại nhưng chính con người lại gieo
mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến không khí
gia đình. Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, nguồn sinh khí ấy chỉ có được
khi trong con người thị dung chứa một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống,
vào tương lai. Thị được miêu tả khá ít, song đó lại là nhân vật không thể thiếu
đi trong tác phẩm. Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là anh Tràng của ngày xưa, bà cụ Tứ
vẫn lặng thầm trong đau khổ cùng cực.
Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật này để góp
thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin ở cuộc đời
phía trước trong những con người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khi nói về ước
vọng tương lai, niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc đời, người ta dễ nghĩ đến tuổi
trẻ như Tràng và người vợ. Nhưng Kim Lân lại khám phá ra một nét độc đáo vô
cùng, tình cảm, ước vọng ở cuộc đời ấy lại được tập trung miêu tả khá kĩ ở nhân
vật bà cụ Tứ. Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ ngòi bút vững vàng, già dặn của
mình trong bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật.
Bà cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi
nhân vật này, tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ
vào trong tác phẩm, Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người
trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi bật cá tính của
mình thường đặt nhân vật vào một tình thế thật căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải
có sự đấu tranh không ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là
ngay chính trong nội tâm của nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình.
Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người
mẹ nghèo vốn thương con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một
người đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết
ngỡ ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã "cúi đầu nín lặng". Cử chỉ, hành động ấy
chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và
niềm vui nỗi buồn cứ hòa lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng.
Sau khi thấu hiểu mọi điều, bà nhìn cô con dâu đang "vân
vê tà áo đã rách bợt" mà lòng đầy thương xót. Bà thiết nghĩ "người ta
có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được
vợ". Và thật xúc động bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và có ý
nghĩa vô cùng: "Thôi, chúng mày phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng
lòng".
Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao
khi mình đang ngấp nghé trước vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người
mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải là vật cản lớn nữa. Đói rét thật nhưng trong
lòng mà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà thương con, thương
dâu và thương cho chính bản thân mình.
Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không
ngừng bùng cháy lên ngọn lửa của tình người. Bà đã giang tay đón nhận đứa con
dâu lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm chứa một sức sống thật
mãnh liệt. Chính ở người mẹ nghèo khó ấy, ngọn lửa của tình người, tình thương
yêu nhân loại ấy bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói nghèo đang hùng
hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con mình niềm tin về cuộc sống. Bà
nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi việc sinh con đẻ
cái, bà lão nói toàn truyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm hại. Bà đã đón
nhận hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình.
Đặc biệt chi tiết nồi cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ
ánh sáng của tình người. Nồi chè cám nghẹn bứ cổ và đắng chát ấy lại là món quà
của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu thương. Bà lão "lễ mễ" bưng nồi
chè và vui vẻ giới thiệu: "Chè khoán đây. Ngon đáo để cơ". Ở đây nụ
cười đã xen lẫn nước mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cuối thiên truyện không
khỏi làm chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ
song cũng dung chứa một sự cảm phục lớn ở những con người bình thường và đáng
quý ấy.
Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến
một chủ đề mới trong đề tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình
người thật thành công ở ba nhân vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là
vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất ở những
thân phận nghèo đói, thảm hại kia.
Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng những tình cảm,
lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điểm sáng mà Kim Lân từng trăn trở trong
thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề tài không mới. Tác phẩm đã thể
hiện thành công nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn
truyện của Kim Lân - một nhà văn được đánh giá là viết ít nhưng tác phẩm nào
cũng có giá trị là vì lẽ đó.
"Cái đẹp cứu vớt con người" (Đôxtôiepki). Vâng,
"vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Ánh
sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là con nguồn mạch giúp Kim Lân
hoàn thành tác phẩm. Ông đã đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài
nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên
truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn bạn đọc chính là ở điểm sáng tuyệt
vời ấy.
Câu 3:
Tố Hữu, một nhà thơ chiến sĩ, một người thư ký trung thành của
thời đại ấy đã cùng hành trình làm cách mạng tiếp cận với thơ ca. Thơ ca đối với
ông không ngoài mục đích chính trị, phục vụ cho lý tưởng của Đảng, của cách mạng.
Trong nguồn mạch về các đề tài chính trị của Đất nước ấy, Tố
Hữu đã tìm về với quá khứ lịch sử của cha ông, một thế hệ hôm nay vọng về thế hệ
cha ông xưa để đồng cảm, thấu hiểu, để tìm nguồn sinh lực mới cất bước cho cuộc
kháng chiến hôm nay. Một trong những bài thơ tiêu biểu cho đề tài này không thể
không kể đến bài thơ "Kính gửi cụ Nguyễn Du", trích trong tập
"Ra trận".
Tháng 11-1965 khi giặc Mỹ bắn phá ác liệt, nhà thơ có dịp qua
quê hương của Nguyễn Du và nhân kỷ niệm đúng hai trăm năm ngày sinh của Người,
Tố Hữu xúc động viết lên bài thơ này. Bài thơ đã thể hiện một cách cảm nhận,
suy nghĩ và đánh giá của Tố Hữu tiêu biểu cho thế hệ hôm nay nhìn về quá khứ lịch
sử của cha ông xưa để từ đó khẳng định cuộc kháng chiến chống Mỹ hôm nay của
dân tộc.
Trong tiếng vọng của tấc lòng tri âm tri kỷ ấy, Tố Hữu đã thốt
lên:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
Hỡi Người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người!
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
Hỡi Người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người!
Bài thơ trừ bốn câu thơ đầu và cuối, tất cả có năm khổ thơ với
ba cặp lục bát tương xứng. Bằng hình thức tập Kiều nhuần nhuyễn, sáng tạo, ngôn
ngữ trong sáng, giản dị, giàu hình ảnh, những so sánh bất ngờ... ấy đã diễn tả
thật thành công tấm lòng của một người con cúi mình trước đại thi hào vĩ đại của
dân tộc Nguyễn Du, một thi hào kỳ tài ấy đã chắp bút lên "Truyện Kiều",
một công trình đồ sộ và có giá trị thật lớn lao, góp phần tăng giá trị đạo đức,
nhận thức vào kho tàng văn học VN. Cảm khái và ngưỡng mộ trước tài năng ấy kết
hợp với một tấm lòng khát vọng tìm về với quá khứ xưa, Tố Hữu đã viết:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Tố Hữu đã ca ngợi giá trị nhân bản của tiếng thơ Nguyễn Du, một
tiếng thơ vang động đến hồn thiêng sông núi, đến tạo vật muôn loài. Bằng cách sử
dụng lối so sánh, ẩn dụ tài tình, nhà thơ đã nâng cao tầm vóc, giá trị của thơ
ca Nguyễn Du. Ông đã ví tiếng thơ ấy là "non nước" vọng về từ ngàn
năm trước, của thời gian xa xưa, của quá khứ.
Tiếng thơ ấy vọng về đây trong niềm tự hào, hân hoan, đón nhận
của một tấm lòng hậu thế muốn đền đáp tấm lòng cha ông xưa. Nỗi niềm ấy, tình cảm
ấy thật đáng ngưỡng vọng. Hai câu thơ không những khái quát được tầm vóc, giá
trị to lớn của tài năng Nguyễn Du mà còn thể hiện sâu sắc tình cảm cao đẹp của
Tố Hữu - thế hệ hôm nay ngưỡng vọng về quá khá của cha ông.
Lối thơ ấy, tiếng lòng hân hoan Tố Hữu lại tiếp tục rộng mở
vươn tới những giá trị vĩnh hằng khác:
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
Nghìn năm là khoảng thời gian của hồi tưởng, của ngưỡng vọng,
của khát vọng mãnh liệt, của tấc lòng tri kỷ biết ơn của thế hệ hôm nay. Đó còn
là khoảng thời gian của thế hệ hôm nay trả lời cho nỗi đau lịch sử của cha ông
trong quá khứ. Một lần nữa cảm hứng ngợi ca chấp bút cho Tố Hữu cất tiếng lòng
tự hào trong khúc hát tràn đầy hân hoan, hứng khởi, trong sự ngưỡng vọng trước
một thiên tài.
Tiếng thơ của Nguyễn Du được ví như "tiếng mẹ", mà
"tiếng mẹ" thì gần gũi, thiết tha quá. Đó là lời ru nhẹ nhàng ân
tình, chan chứa tình yêu thương và trong ấy gửi gắm bao mơ ước thật cao đẹp. Và
vì thế tiếng thơ của Nguyễn Du là tiếng ru của mẹ ân tình, ngọt ngào thổi vào
lòng bao thế hệ có sức mạnh thật lớn lao. Tình cảm ấy, khúc hát ru ân tình ấy
là lời nhắc nhở, thủ thỉ cho con - thế hệ hôm nay vững bước trưởng thành.
Tiếng lòng đồng vọng của cõi xưa nhập cùng thế hệ hôm nay để
con lại vang lên lời ca tự hào:
Hỡi người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người!
Khúc vui xin lại so dây cùng Người!
Trên trục kết cấu "xưa-nay", "con-Người"
cùng vang lên tiếng lòng khát khao tìm kiếm tri âm. "Con" sẽ cùng
"Người" hát tiếp khúc tráng ca ấy chào đón cách mạng. Chữ
"cùng" đã thể hiện đầy đủ ước vọng của chúng con và Người. Tình cảm ấy,
nghĩa cử ấy thật đáng tự hào và trân trọng.
Sáu câu thơ, ba cặp lục bát song hành ấy là tình cảm, tiếng
lòng của chúng con thế hệ hôm nay đáp lời quá khứ. Đó cũng là lời hứa chân
thành nhất của thế hệ hôm nay cùng ngân vang theo nhịp đập của quá khứ.
Bằng lối tập Kiều nhuần nhuyễn, sử dụng hình ảnh có tính gợi
hình, giọng điệu ân tình, ngọt ngào, đậm chất dân tộc, khổ thơ đã thể hiện trọn
vẹn phong cách thơ Tố Hữu: khuynh hướng thơ trữ tình - chính trị, một giọng điệu
tâm tình ngọt ngào và đậm đà tính dân tộc. Khổ thơ khép lại nhưng lại mở ra một
chân trời mới, tương lai mới trong hành trình chống Mỹ hôm nay:
Sông Lam nước chảy bên đồi
Bỗng nghe trống giục ba hồi gọi quân
Bỗng nghe trống giục ba hồi gọi quân
hãng bay eva
vé máy bay đi california
hãng korean airlines
mua vé máy bay đi mỹ
vé máy bay đi canada giá bao nhiêu
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngẫu Hứng Du Lịch
Kien Thuc Du Lich