GS Hoàng Ngọc Hiến gửi trò Vũ Ngọc Tiến:
“kể
lại nội dung” và “viết nội dung”
Vấn đề phân biệt hai cách viết văn xuôi : “kể lại nội dung”
và “viết nội dung” tôi đã có dịp nêu lên trong một cuộc hội thảo về thời sự
văn học của Khoa Văn Đại học Sư phạm Hà nội (khoảng cuối năm 1988). Bài phát
biểu ý kiến của tôi trong cuộc hội thảo sau đó đã được đăng với nhan đề Hai
tác giả mới trong một nền văn xuôi đang đổi mới trong thông báo khoa học
(Những vấn đề thời sự văn học) của trường ĐHSP Hà nội I, số 3-1989,
xuất bản tháng 4 năm 1989. Tôi xin phép trích một số đoạn trong bài báo để
trình bày mấy ý niệm sơ bộ về vấn đề này.
“...Đánh giá văn xuôi xô viết
hiện đại,nhà văn Xôlôukhin có đưa ra một nhận xét thú vị: 90 phần trăm nhà
văn Liên xô kể lại nội dung, chỉ có 10 phần trăm viết nội dung. Theo
ý riêng của tôi, sự phân biệt hai phạm trù “ kể lại nội dung”, “viết nội
dung” là một mặt quan trọng trong sự đánh giá tình trạng văn xuôi
hiện nay. Tôi hiểu như thế này : “kể lại nội dung” chỉ quan tâm đến việc: kể
cái gì, “viết nội dung” còn quan tâm đến mặt : kể như thế nào. Tâm thế “kể
lại nội dung” dễ đưa văn xuôi trôi trượt theo văn đưa tin, loại
văn này bao giờ cũng có độc giả của nó, nếu đưa tin những chuỵện có ý nghĩa
giáo huấn sẽ được đánh giá là cần thiết .có ích, kịp thời...,nếu đưa tin những
chuyện lạ, giật gân có khi sẽ được công chúng rộng rãi mến mộ. Trong
văn xuôi “viết nội dung”,sự kết hợp “viết cái gì” và “viết như thế nào” tạo
ra sức căng cho câu văn,mạch văn,làm cho câu văn có giọng, có hồn, không bị
“bẹt”, bị ỉu sìu. Tôi xin phép nêu một ví dụ để làm rõ ý kiến của mình. Tiểu
thuyết Cha và convà...của
Nguyễn Khải là “viết nội dung”.Về chủ đề tư tưởng, đây là cánh én đầu tiên
trong sự đổi mới văn học;về mặt văn chương, đây là một tác phẩm hay.
Cuối tác phẩm, phần giới thiệu lai lịch Thượng Hoánh, có mươi trang “kể lại nội
dung”(trong tác phẩm nào cũng vậy có những “nội dung” được thông báo cốt để độc
giả biết và theo dõi chuyện). Văn xuôi của ta hiện nay - do sự
phát triển ào ạt của ký báo chí (không mấy bài đạt được tính chất nghệ thuật),
do áp lực của thói “ nỗ lực càng ít càng tốt” đối với cảm hứng nghề nghiệp,
do sự à uôm của những người biên tập và phê bình – một số người
không bao giờ phân biệt được cách kể này và cách kể kia –
trong tình hình như vậy xu hướng “kể lại nội dung” phát triển tràn lan...”.
Cũng trong tình hình như vậy, Phạm Thị Hoài và Nguyễn Huy Thiệp chọn loại văn
xuôi “ viết nội dung”, chính vì vậy,hai tác giả này được bạn đọc chú ý...”(số
Thông báo khoa học đã dẫn,tr.64,65)
Bài
phát biểu ý kiến của tôi được nhiều người chú ý nhưng những người đến gặp để
trao đổi ý kiến chỉ hỏi về Nguyễn huy Thiệp, về Phạm Thị Hoài không một ai nhắc
đến vấn đề phân biệt “kể lại...vàviết...” mà tôi hết sức tâm đắc. Mãi mấy năm
sau một người Mỹ tên là Peter Zinoman
( hiện nay là giáo sư trường Đại hoc Berkeley, bấy giờ đương làm luận án
tiến sĩ) đến Hà nội ngỏ ý muốn gặp tôi để hỏi về những quan điểm văn học của
tôi. Tôi cứ đinh ninh anh sẽ hỏi tôi về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ
nghĩa, chủ nghĩa hiện thực phải đạo...nhưng không ...gặp tôi anh chỉ hỏi mỗi
một câu: “ Cháu đã đọc bài báo của chú, muốn chú nói thật rõ “kể lại nội
dung” khác “ viết nội dung” như thế nào?”.Từ đó đến nay, mười mấy năm, ngoài
Peter Zinoman không một ai hỏi tôi về vấn đề này.Mãi gần đây giáo sư Trần
Đình Sử gọi điện thoại mời tôi viết bài về vấn đề “kể... và viết...”tham
gia hội nghị khoa học về Tự sự học sẽ được tổ chức đầu tháng 11 năm nay.
Những
ý kiến sơ bộ của tôi về vấn đề này còn sơ sài.Ngay việc phân biệt “viết cái
gì” và “ viết như thế nào” dễ làm lạc hướng độc giả.Và nếu như hiểu cái
gì là nội dung thì dễ quan niệm có một nội dung ở ngoài sự
viết như thế nào.Thực ra, trong tác phẩm văn học, “viết như
thế nào” để lại dấu ấn sâu sắc ở nội dung, là một bộ phận cốt yếu của nó,thậm
chí là linh hồn của nó.Có thể nói rằng nếu như “viết như thế nào” không
ra gì thì nội dung cũng chẳng là gì cả.
Đến
đây có thế nói rõ hơn, sát hơn về hai cách tự sự mà Xôlôukhin nêu lên trong
bài báo (mà rất tiếc là tôi quên mất nguồn, vả lại, tác giả cũng chỉ nêu lên
như là một nhận xét tạt ngang, không cung cấp khái niệm để xác lập căn cứ lý
thuyết cho chúng). Trong cách tự sự “kể lại nội dung”, nội dung (trước hết là chủ
đề tư tưởng, chủ đề cốt truyện, chi tiết hơn, có thể bao gồm cả
tính cách những nhân vật, thậm chí ngoại hình của chúng ) hầu như là có
sẵn, là những dữ kiện có sẵn trong đầu của người viết, nội dung này như
vậy là đã có tương đối ổn định trước khi viết, người viết
đặt bút viết với tư cách kế lại nội dung ấy và công việc viết là tìm từ,
đặt câu để biểu đạt nội dung.
Dĩ nhiên là trong quá trình viết có sự thêm bớt, có sự sáng tạo nhưng đây là sự sáng tạo trong khuôn khổ, khuynh hướng định trước, với những dữ kiện có sẵn. Tóm lại có sự sáng tạo nhưng tình thần sáng tạo “xanh rờn” với hứng phiêu lưu, với những sự xuất thần, sự ngẫu hứng thì không có hoặc ít và yếu. Với cách tự sự “viết nội dung” thì nội dung không có sẵn trước khi viết mà viết đến đâu thì nội dung hình thành đến đấy, viết không phải là biểu đạt (exprimer) nội dung mà là sản sinh (produire) nội dung. Với cách tự sự “viết nội dung”, dĩ nhiên, người viết cũng có dự đồ hoặc ý đồ ban đầu (projet initial) trước khi viết,nhưng dự đồ này thường là rất mơ hồ và tạm bợ không thể xem là nội dung được; dĩ nhiên, người viết không cầm bút với một cái đầu trống rỗng,có thể hình dung được trong đó là cả một khối hỗn mang những cảm xúc, hình ảnh ,hồi ức...Sự cộng sinh của ý đồ ban đầu với “khối hỗn mang...” ,đăc biệt với ngôn ngữ đem lại những gì cho sự sản sinh nội dung trong quá trình viết, điều này sẽ nói ở phần sau. Có thể so sánh hai cách phát biểu ý kiến để thấy rõ hơn sự khác biệt giữa hai cách tự sự. Có thể viết sẵn bài phát biểu ý kiến và lên diễn đànđọc bài.Có một cách khác là lên diễn đàn nói vo (không kể là trước đó không chuẩn bị hay có chuẩn bị, thậm chí có thể chuẩn bị rất kỹ,viết bài hẳn hoi).Với cách phát biểu đọc bài, “nội dung có sẵn” gò người nói – ở đây điều quan trọng không phải là nó “có sẵn” mà là ở chỗ nó gò người nói – và ở thì hiện tại của sự nói thì người nói hầu như không phải động não. Với cách phát biểu nói vo, “nội dung có sẵn”, nếu có, chỉ là sự tập dượt và khi người nói bước lên diễn đàn nói vo, anh ta bước vào một cuộc phiêu lưu mới “xanh rờn” với những sự bất thần, những ngẫu hứng và nội dung được hình thành trong cuộc phiêu lưu mới này có những điều mới mẻ, tươi tắn, riêng về thần thái, chắc chắn là khác hẳn.Và nếu như so với trường hợp thứ nhất,ở đây lời nói của người nói có sức căng và sống động hơn, điều này hoàn toàn có thể giải thích được:ở thì hiện tại của sự nói, người nói vo thực sự động não và sống lời nói của mình. Trên đại thể ,cách tự sự “ kể lại nội dung” (ở trường hợp giới hạn của nó) gần với cách phát biểu đọc bài, cách tự sự “ viết nội dung” gần với cách phát biểu nói vo.
Tôi
hiểu rõ hơn quan niệm về hai cách tự sự của Xôlôukhin nhân đọc bài diễn từ
Nobel của Claude Simon.Nhà văn Pháp nổi tiếng này sinh năm 1913, ông ở trong
số những đại diện chân chính của tiểu thuyêt mới Pháp, trào lưu này
nổi lên trong những năm 50 thế kỷ trước. Ông được tặng giải thưởng Nobel văn
học năm 1985.
Trong
bài diễn từ Nobel 1985 của ông có những quan điểm và quan niệm quan trọng
về văn học làm sáng tỏ đề tài và những vấn đề chúng ta đang quan tâm.
Trong
việc tìm hiểu tác giả, tác phẩm, câu hỏi mà độc giả hay đưa ra: “ ...tác giả
muốn nói gì?”, về câu hỏi này Claude Simon dẫn câu trả lời của Valéry:
“Nếu
như (...) người ta hỏi tôi, Paul Valéry viết, (...)về những gì tôi đã muốn
nói (...), tôi xin trả lời là tôi đâu có đã muốn nói mà tôi đã
muốn làm và chính cái ý định làm đã muốn những
gì tôi đã nói.”[i] (tr.11)Tôi hiểu câu nói có phần lắt
léo này của Valéry như sau. Valéry cho rằng điểm xuất phát của sự sáng tạo tác
phẩm nghệ thuật là “ý định làm” tác phẩm chứ không phải là
“có điều muốn nói”.ở đây cần phân biệt “muốn nói” và “muốn làm”, những
gì tôi đã muốn nói và những gì tôi đã nói. Muốn nói là
nói chủ đề tư tưởng,muốn làm là làm tác phẩm.Những gì tôiđã muốn
nói là chủ đề tư tưởng có trước khi viết tác phẩm; những gì tôiđã nói là
tác phẩm đã được viết.Valéry không thừa nhận loại chủ đề tư tưởng mà nhà văn
“muốn nói” trước khi viết tác phẩm (“tôi đâu có đã muốn nói”), trong quan niệm
của ông chủ đề tư tưởng là cái được xác định,được hình thành ngay trong khi
viết tác phẩm, chủ đề tư tưởng là bản thân tác phẩm, là toàn bộ tác phẩm. Đến
đây có thể liên hệ đến sự khó chịu của Lev Tolxtoi khi có ngừơi đề nghị ông
trình bày tóm tắt chủ đề tư tưởng một tác phẩm của ông. Ông trả lời rằng:nếu
trong vài ba câu mà trình bày được chủ đề tư tưởng thì hà tất phải viết cả một
tác phẩm mấy trăm trang đế thể hiện nó và độc giả nào muốn biết ông “muốn nói
gì” qua một tác phẩm của ông thì tốt nhất là đọc toàn bộ tác phẩm ấy từ dòng
đầu đến dòng cuối. Trong thể loại truyện ngụ ngôn, chủ đề tư tưởng thường
được nêu lên ở cuối truyện như là bài học luân lý được rút ra từ truyện và
trong văn bản thì hiện hữu tách bạch với truyện;nhưng trong quá trình
sáng tác truyện ngụ ngôn thì chủ đề tư tưởng thực ra lại được xác định trước
và truyện được kể là để minh hoạ chủ đề tư tưởng , tức là bài học luân
lý đã được soạn trước.
Có những cuốn tiểu thuyết được viết theo mô hình của truyện ngụ ngôn (tìm chủ đề tư tưởng trong loại tác phẩm này rất dễ, dĩ nhiên nó không hiện hữu một cách tách bạch như trong truyện ngụ ngôn mà nó được gửi khá lộ liễu vào phần mở nút thường là ở cuối truyện,độc giả không cần tinh ý lắm cũng có thể từ mở nút rút ra được “bài học luân lý” đúng như dụng ý của tác giả ) và độc giả quen với mô hình của truyện ngụ ngôn sẽ bực mình khi đọc truyện (ngắn, vừa, dài) không thấy chủ đề tư tưởng được trình bày lộ liễu như trong truyện ngụ ngôn. Với cách tự sự “ viết nội dung”, tương quan giữa chủ đề tư tưởng và truyện rất khác so với mô hình của truyện ngụ ngôn:chủ đề tư tưởng không được xác lập trước khi viết truyện để chi phối sự viết truyện mà truyện viết đến đâu thì chủ đề tư tưởng được hình thành và xác lập tới đó và đến khi truyện được viết xong thì chủ đề tư tưởng được xác định trọn vẹn, nó thể hiện ở toàn bộ truyện.
Trong
diễn từ của Claude Simon có đoạn viết: “Do một sự tiến triển chậm, chức
năng của người hoạ sĩ dường như bị đảo ngược và...ý nghĩa đã chuyển từ phía
bên này sang phía bên kia của hành động, có trước hành động trong
một thời gian đầu, gây ra hành động, để rồi cuối cùng trở thành kết quả của bản
thân hành động, nó (tức hành động) chẳng còn biểu đạt ý nghĩa nữa mà sản sinh
ra ý nghĩa”(tr.10). Như vậy trong lịch sử tiến triển của hội hoạ có sự đảo ngược
tương quan giữa ý nghĩa (của tác phẩm) và hành động (vẽ của
hoạ sĩ). Trong thời gian đầu ý nghĩa có trứơc hành động; về sau, nó lại là kết
quả của hành động. Cùng với sự đảo ngược tương quan nói trên, chức năng của
hành động đối với ý nghĩa thay đổi: thời gian đầu, hành động biểu đạt ý
nghĩa, về sau, hành động sản sinh ý nghĩa. Tác giả Diễn
từ thấy trong văn học cũng có tình hình tương tự như trong hội hoạ.Nếu
như trong văn học, ý nghĩa là nội dung (phần cốt yếu của
nội dung) và hành động là viết thì, quả nhiên, trong sự tiến
triển của văn học cũng có sự thay đổi tương quan giữa nội dung và viết và
tương ứng là sự thay đổi của chức năngviết. Cũng như trong hội hoạ, ở đây có
hai loại tương quan : nội dung có trước viết và nội dung là kết
quả của viết ,và hai loại chức năng của viết: biểu đạt nội dung và sản
sinh nội dung. Điều thú vị là hai cách tự sự được phân biệt ở trên
tương ứng với hai loại tương quan và hai loaị chức năng vừa được nêu lên. Cách
tự sự kể lại nội dung tương ứng với tương quan nội dung có trứơc
viết và chức năng biểu đạt nội dung của viết, cách tự sự viết
nội dung tương ứng với tương quan nội dung là kết quả của viết và
chức năng sản sinh nội dung của viết.
Một
đoạn khác trong Diễn từ Nobel văn học1985:
“...một ghi nhận đầu tiên:đó
là người ta không bao giờ viết (hoặc miêu tả) điều gì đó xảy ra trước công
việc viết, mà người ta viết đúng vào những gì xảy ra ...trong tiến trình của
công việc này,ở thì hiện tại của công việc này ,những gì là kết quả,
không phải của sự xung đột giữa dự đồ ban đầu (projet initial) rất mơ hồ và
ngôn ngữ, mà của sự cộng sinh giữa hai cái này, điều này làm cho, ít
ra là ở tôi, kết quả phong phú hơn dụng ý ngàn vạn lần ”(tr.
12). Từ ghi nhận này, có thể hình dung đúng hơn thế nào là “nội dung”: tác giả
nhấn mạnh nội dung là những gì xảy ra trong tâm trí người viết đương
khi viết.
Có
những ý kiến trong Diễn từ...giúp chúng ta hình dung đầy đủ hơn sự phức
tạp, sự phong phú của “viết nội dung”.Sau khi đặt câu hỏi:“làm” tác phẩm “bằng
gì?”,tác giả trả lời:
“..., khi tôi đứng trước trang
giấy trắng của tôi,tôi đối diện với hai món: một món là khối magma [ii] hỗn tạp những cảm xúc,ký ức,
hình ảnh ở bên trong tôi và món kia là ngôn ngữ, là những từ mà tôi tìm
kiếm để tôi nói, là cú pháp trong đó những từ sẽ đựơc sắp đặt, dường như sẽ
được kết tinh ở ngay trong lòng của nó (cú pháp) ”(tr.12) (H.N.H.in chữ
đậm).
Để
giải thích sự phong phú lạ thường của kết quả “viết nội dung”
(“phong phú hơn” dự đồ ban đầu “ngàn vạn lần”) tác giả nhấn
mạnh vào “ sự cộng sinh giữa dự đồ ban đầu rất mơ hồ và ngôn ngữ”.
Trong
quan niệm của Claude Simon ngôn ngữ hầu như là tất cả. Ngôn ngữ không chỉ là
công cụ diễn đạt, truyền đạt,chuyển tải...;ngôn ngữ là công cụ nhận
thức,khám phá...Ngôn ngữ không chỉ biểu đạt mà nó còn sản sinh ý
nghĩa.Ngôn ngữ không chỉ là những “ký hiệu”, nó còn là những “nút
nhiều mối ý nghĩa” (Lacan) (xem tr.14).Có thể nói đến năng khiếu ngôn từ ở những
ngừơi làm “nghệ thuật ngôn từ”.Claude Simon hiểu năng khiếu ngôn từ như một sự
nhậy cảm thường trực với toàn bộ màng lưới ngôn ngữ mà người viết sử dụng.
“...nhà văn, - tác giả viết - hễ cứ bắt đầu viết một từ lên trang giấy là đụng
ngay đến cái tổng thể kỳ diệu này, cái màng lưới kỳ diệu những quan hệ được
xác lập bên trong và bởi ngôn ngữ này, nó, như người ta nói, “đã nói trước
chúng ta” bằng phương tiện những cái mà ngừơi ta gọi là những “từ thuật”
(figure), nói một cách khác những phép chuỷên nghĩa (trope), những hoán dụ và
những ám dụ, không một cái nào trong số đó là hiệu quả của sự tình cờ mà ngược
lại chúng là bộ phận cấu thành cuả nhận thức về thế giới và các sự
vật,cái nhận thức mà con người dần dần thu nhận được” (tr.14).
Như vậy năng khiếu ngôn từ không chỉ là năng lực tài tình biểu đạt “nội dung”, có hình dung được tác động tích cực của cả màng lưới kỳ diệu ...của ngôn ngữ thông qua sự nhậy cảm thường trực của người viết với cả màng lưới ngôn ngữ đương khi viết thì mới thấy năng khiếu ngôn từ là một năng lực mạnh mẽ tham gia vào sự sáng tạo nội dung. Nếu như mỗi từ là một “nút nhiều mối ý nghĩa” thì người viết thường xuyên đứng trước “ngã năm, ngã bảy” ý nghĩa, nơi thường xuyên có những vận động và trao chuyển ý nghĩa. Con đường sáng tạo nội dung đi qua sự sống của ngôn ngữ trong tâm trí ngừơi viết. Và hoạt tính của ngôn ngữ trong tâm trí người viết lệ thuộc vào việc ngừơi viết đã sống những từ ngữ trong cuộc đời và trong văn học như thế nào. Vốn sống ở người viết văn bao gồm cả vốn sống những từ ngữ và những yếu tố khác trong ngôn ngữ trong những tình thế khác nhau của cuộc đời (đây là chỗ khác biệt cơ bản giữa vốn sống của người có năng khiếu văn học và vốn sống ở những ngừơi khác).Mặt khác, không thể coi thường việc sống những từ ngữ trong văn học.Claude Simon nhấn mạnh tác động của việc đọc văn học tới ham muốn viết: “...có thể nói nghệ thuật tự sản sinh bằng cách bắt chước bản thân nó: cũng như không phải ham muốn tái hiện tự nhiên làm ra hoạ sĩ mà đó là sự hấp dẫn mê hồn của viện bảo tàng, trong văn học cũng vậy, chính lòng ham muốn viết được gây ra bởi sự hấp dẫn mê hồn của cái đã được viết làm ra nhà văn...”(tr.4) Bàn về bất cứ vấn đề nào trong văn học mối quan tâm hàng đầu của nhà văn Claude Simon bao giờ cũng là ngôn ngữ. Cứ mỗi lần văn học “ làm thay đổi ít nhiều mối quan hệ với thế giới mà con người duy trì bằng ngôn ngữ , Claude Simon viết, thì nó có đóng góp trong một chừng mực khiêm tốn thôi vào sự làm thay đổi thế giới” (tr.16) (H.N.H.in chữ đậm).Có lẽ, đặt vấn đề tác động cải tạo thế giới của văn học như vậy thì trúng hơn.Nghệ thuật ngôn từ trứơc hết làm thay đổi những quan hệ với thế giới đựơc duy trì bằng ngôn từ.Đối với nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, ngôn ngữ không phải là tất cả mà hầu như là tất cả.Quan niệm của ông được trình bày qua những suy nghĩ của nhà văn họ Vũ (Vũ Trọng Phụng?) về công việc viết văn trong truỵện Bài học tiếng Việt. “Vũ cảm thấy chàng là một nhà ngôn ngữ hơn là một nhà văn”... “Văn học chỉ là từ ngữ.Như những ngọn gió...”. Vũ viết văn vì tình yêu tiếng Việt...Nghĩ đến đây, có lẽ do bản năng sợ khoa trương, Vũ đính chính ngay: không phải yêu tiếng Việt... chàng thích sự chính xác của từ ngữ,,,Và đối với Vũ “sự chính xác của từ ngữ” là tất cả: “chính xác về tình cảm, chính xác về cấu trúc, tóm lại là nghệ thuật”. Viết lời đề từ cho truyện ngắn mang tính chất tuyên ngôn văn học này Nguyễn Huy Thiệp dẫn câu thơ của Lưu Quang Vũ: “ Ta là chim.Tiếng Việt là rừng.”
“Viết
nội dung” bao hàm sự tham gia trực tiếp của ngôn ngữ vào sự sáng tạo
nội dung.So sánh hai cách tự sự “viết...” và “kể...” thì trong cách “viết...”
ngôn ngữ có tác động mạnh mẽ hơn, tích cực hơn, trực tiếp hơn tới sự sáng tạo
nội dung.Tuy nhiên cả hai cách tự sự đều có đòi hỏi cao về năng
khiếu ngôn ngữ của người viết, tức là sự nhậy cảm thường trực với màng lưới kỳ
diệu...của ngôn ngữ được dùng để viết. Không có năng khiếu này thì tự sự theo
cách nào cũng dở. Tôi viết bài báo này với mong muốn năng khiếu
ngôn ngữ sẽ đựơc coi trọng hơn nữa trong đời sống văn học của chúng ta.Người
viết văn không có năng khiếu ngôn ngữ không có gì đáng trách cả, vì năng khiếu
ngôn ngữ là bẩm sinh và, như người ta vẫn nói, trời sinh ra họ như vậy và nếu
như không có năng khiếu họ vẫn cứ viết thì đó là quyền
của họ. Đáng trách là những nhà phê bình, nghiên cứu văn học, những giáo viên
văn học ...không hướng dẫn công chúng và công luận văn học phân biệt
những người viết có năng khiếu ngôn ngữ và những người viết không có, sự phân
biệt này quan trọng hơn sự phân biệt cách tự sự này và cách tự sự kia rất nhiều.
Bởi lẽ sự phân biệt cách này và cách kia không có ý nghĩa phân biệt về thứ
bực, đáng lưu ý khi nó trở thành khác biệt về “gu” (gôut), quen thửởng thức
và thích thú nội dung “được viết” thì đọc nội dung “đựơc
kể lại” dễ ngán, ngay khi nội dung hấp dẫn và cách kể lại hay thì ở người đọc
có “gu” với cách tự sự kia, trong sự hào hứng vẫn có ít nhiều “dư vị ngán”.
Trước
nhận xét của Xôlôukhin về văn xuôi Liên xô (trước đây) không khỏi liên hệ đến
tình trạng văn xuôi Việt Nam đương đại: chắc chắn số phần trăm tác giả “ kể nội
dung” cao hơn. Người Việt đến nay vẫn thiên về “văn hoá kể”. Người Việt
Nam không thoải mái khi phải làm việc với những hình thức tư duy khác tư duy
“kể”. Cho nên viết báo cáo là kể thành tích; viết lý luận là kể ý
này, ý nọ, luận điểm này, luận điểm nọ, không ngờ rằng nội dung cốt yếu của
lý luận lại là ở sự khớp nối (articulation) giữa những ý ,những
quan điểm và sự khớp nối này bao giờ cũng phức tạp và không kể được; với
văn hoá kể xem phim là để kể lại truyện trong phim, bộ phim nào xem xong
không kể lại được thì không thích... Ngay “trữ tình” trong bản chất là “kháng
kể” thì cũng dễ chuyển thành kể tình cảm, cảm xúc, kể tâm trạng, nỗi niềm; đặc
biệt chửi là “thể loại” mạnh mẽ và phổ cập nhất của trữ tình thì khi kéo dài
bao giờ cũng chuyển thành kể, từ phong cách chửi của người Việt có thể nhận
ra được một đặc điểm quan trọng của văn hoá Việt. Nhìn chung trình
độ văn hoá càng cao thì ngừời ta càng ngại kể và sợ bị nghe kể: tư duy của
người “có trình độ” thiên về dựng, về kết cấu hơn là kể.
Để
kết thúc tôi xin phép đặt ra một câu hỏi : trong 90% nhà văn Liên xô “kể lại
nội dung” có bao nhiêu ngừời phân biệt được cách tự sự này và cách
tự sự kia. Tôi có cách hiểu riêng của tôi về hai cách tự sự.Bài tiểu luận này
được viết với hy vọng gợi ra được những cách hiểu khác của những bạn
đồng nghiệp quan tâm đến những vấn đề tôi quan tâm.
Thư hồi âm trong đêm vắng của trò Vũ Ngọc Tiến:
Kính gửi GS Hoàng Ngọc Hiến!
Thưa thầy kính mến,
Em đã đọc rất nhiều lần bài viết của thầy. Quả thực là bài
viết thầy công bố đã rất lâu mà em chưa từng được biết đến. (Từ rất lâu rồi
em chán đọc báo Văn Nghệ). Và vì thế, thưa thầy, nó rất mới với em, có giá trị
lý luận và truyền nghề nhiều lắm. Cái điều kỳ diệu là toàn bộ vấn đề gọi là
“Thi pháp trong văn xuôi” mà anh Trần Đình Sử đề xướng, với hàng chồng lý
thuyết hàn lâm, song có phần nào chắp vá và rối rắm, không ngờ lại được thầy
diễn nôm, gói gọn bằng 2 khái niệm “viết truyện” và “kể chuyện”. Để làm rõ 2
khái niệm đó, thầy cũng tinh tế đưa ra vài thí dụ dễ hiểu như: đọc bài viết sẵn
– nói vo; muốn làm (làm việc viết truyện) – muốn nói (nói về một chủ đề),
truyện ngụ ngôn, đặc biệt là sức chứa, lực đẩy của ngôn từ… Em càng đọc càng
vỡ ra nhiều điều sâu sa mà thầy vốn kiệm lời nên nói ít để em hiểu nhiều. Tất
cả những gì trong bài viết đặc sắc này của thầy em sẽ nghiên cứu nghiêm túc bởi
đây chính là bài giảng hay nhất về nghề văn mà em từng đọc.
Thưa thầy kính mến,
Em hiểu thâm ý của thầy muốn em tham khảo bài viết này cũng
là để thầy muốn nói rằng một vài truyện em viết, cách kể có thể hơi bị thật
thà, làm giảm đi cái đắt giá của những tình tiết lạ, cái sâu sắc của chủ đề vốn
có. Điều này cũng đã có một vài bạn văn góp ý, nhưng em vẫn kiên trì cách viết
truyện của mình. Em luôn tâm đắc với Xec-nư-xev-ski rằng: “Cái đẹp là cuộc sống.
Một thực thể đẹp là thực thể làm tái hiện cuộc sống đúng như nó vốn có hoặc
khiến ta nghĩ về cuộc sống đang hiện hữu.” Còn Kant thì nói: “Cái đẹp là tự
nó. Cái đẹp vượt lên phơi phới trên biên giới không gian, thời gian.” Nói
vo đương nhiên hấp dẫn hơn đọc, nhưng nói vo cũng phải tựa
vào chủ đề và dàn ý có sẵn rồi ngẫu hứng phát triển rộng ra khi nói trước
công chúng. Quan trọng ở chỗ khi nói vo, diễn giả có tài nhiều khi ngẫu
hứng nhào nặn lại ý tưởng, dàn ý ban đầu trong cuộc giao lưu với thính giả ở
thì hiện tại của ngôn từ.
Muốn làm việc viết truyện vẫn phải xuất phát từ ý tưởng muốn nói một điều gì đấyvề cái đã hoặc đang tồn tại. Em đã từng học về địa chất- địa vật lý nên rất hứng thú với hình tượng khối magma ý tưởng, hình ảnh, sự kiện xuất hiện trong đầu người đang viết. Nó réo sôi, quằn quại tận thẳm sâu từng con chữ để làm ra nội dung. Ở đây nói có nhiều cách: nói trắng phớ ra mọi điều mình trải, mình nghĩ; nói bằng nghệ thuật ẩn dụ hay thả nổi sự kiện, nói bằng hiện thực kỳ ảo hay bằng tân hình thức, bằng hậu hiên đại…đều phải do tạng bút người viết mà chọn thôi. Tạng bút ấy xét cho cùng lại chính là sự tự biến thành khối magma ý tưởng theo cách cảm, cách nghĩ của riêng mình về đời sống hiện ra trước mắt người cầm bút đang như kẻ nhập đồng.
Thưa thầy kính mến,
Em đã vài lần định đến thăm thầy lại bị nhỡ vì có việc cần
gấp. Mong sẽ có dịp thăm viếng thầy và gia đình mới bày tỏ rõ thêm quan niệm
về viết truyện của mình, nhất là được nghe thầy dạy bảo, chỉ vẽ thêm về nghề.
Người viết luôn muốn tự làm mới ngòi bút của mình. Những gợi ý của thầy là rất
quý báu để em tiếp tục làm mới mình thêm nữa.
Kính chúc thày mạnh khỏe, gia đình hạnh phúc!
|
Thứ Tư, 27 tháng 5, 2015
Cuộc trò chuyện văn chương trong đêm thu
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch
Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
vé máy bay eva air khuyến mãi
vé máy bay đi mỹ bao nhiêu
hãng máy bay korean airline
khuyến mãi vé máy bay đi mỹ
giá vé máy bay từ tphcm đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thuc Du Lich