Đây thôn Vỹ Giạ trong phong trào thơ mới 1932-1945 có lẽ
là một trong vài bài thơ phổ biến nhất, đã được đem ra giảng dạy tại nhà trường
dưới nhiều chế độ khác nhau, có thể vì nhiều lý do khác nhau. Bài này chỉ nêu
lên giá trị nghệ thuật, trên nhiều địa tầng khác nhau.
Bài thơ làm khoảng nửa sau năm 1939, khi tác giả đã bị bệnh
phong hủi nặng, đang điều dưỡng tại Quy Nhơn. Thơ làm khi nghĩ tới, hay để
gửi cho người tình trong mộng là Hoàng Cúc sau khi nhận được một tấm bưu ảnh bà
gửi từ Huế.
Tiểu truyện kể lại rằng, trước đó, 1932, chàng 20 tuổi, nhà
nghèo, làm ở sở đạc điền Quy Nhơn. Nàng mười tám, mười chín, gia đình khuê các,
thân phụ là cấp trên của Hàn. Hai người có lúc cùng ở chung đường. Tình thơ mộng,
đơn phương của tuổi hoa niên. Chàng đã từng làm nhiều thơ ca ngợi :
Xiêm áo đêm nay tề chỉnh quá
Muốn ôm hồn cúc ở trong sương
Muốn ôm hồn cúc ở trong sương
Sau đó, 1934, chàng bỏ việc vào Sài Gòn viết văn làm báo. Khi
sức khỏe suy yếu, có thể biết mình bị chứng nan y, 1936, Hàn về lại Quy Nhơn.
Nàng rời Quy Nhơn theo gia đình về Huế. Sau đây là lời Hoàng Cúc, tên thật là
Hoàng Thị Kim Cúc, trong một lá thư gửi cho Quách Tấn ngày 15-10-1971.
(Sau khi được tin Hàn bị bệnh nặng) « thay vì viết thư
thăm, tôi gửi bức ảnh phong cảnh vừa bằng cái carte visite. Trong ảnh có mây,
có nước, có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò, có mấy khóm tre, có cả ánh trăng
hay ánh mặt trời chiếu xuống nước. Tôi viết sau tấm ảnh mấy lời hỏi thăm sức khỏe
Tử rồi nhờ Ngâm trao lại. Sau đó một thời gian, tôi nhận được bài thơ Đây thôn
Vĩ Dạ và một bài khác nữa do Ngâm gửi về… ». (Hoàng Tùng Ngâm, bạn thân của
Hàn, là em con chú
với bà Kim Cúc).
Chứng từ giúp ta hiểu thêm hoàn cảnh sáng tác, nhưng bài thơ
không phải là minh họa cho tấm bưu ảnh. Điều đặc biệt là không khí trong sáng,
dịu dàng của tác phẩm hoàn toàn tương phản với căn bệnh ngặt nghèo đang vào thời
kỳ cuối của tác giả, lúc đó. Theo hồi ký của Nguyễn Bá Tín, em ruột:
« Những năm 1938-1939, nhất là năm 1939, anh đau dữ dội
hơn hết. Tâm trạng anh biến đổi nhiều qua thơ anh. Giai đoạn này anh sống nửa
mơ nửa thực, thường hay xuất thần không biết gì (tr.90).
Trích dẫn hai khổ thơ đầu, ông Tín cho thông tin: «Hai
loại thơ nói trên được sáng tác trong cùng một giai đoạn, trong cùng một hoàn cảnh
bệnh tật. Cùng trong túp lều tranh xơ xác, dưới cây phượng vĩ tàn tạ, bên bờ biển
hoang vắng mà hai trạng thái tâm hồn hoàn toàn khác biệt nhau tùy theo cảm hứng.
Tâm trí anh từ ngày đau nặng, vẫn mơ ước thoát khỏi thân tàn ma dại, khỏi không
gian và thời gian… »
1. Trong một hồi ký vừa được in thành sách mới đây, 2010, Bùi Tuân, bạn thân Hàn Mạc Tử đã xác nhận đời sống cơ cực này, tại một xóm nghèo cạnh Quy Nhơn.
1. Trong một hồi ký vừa được in thành sách mới đây, 2010, Bùi Tuân, bạn thân Hàn Mạc Tử đã xác nhận đời sống cơ cực này, tại một xóm nghèo cạnh Quy Nhơn.
Như vậy, chúng ta đă có cái khung về hoàn cảnh sáng tạo bài
thơ, giữa 1939. Nhưng văn bản xuất hiện lần đầu, ở đâu, thì chúng tôi không biết,
chỉ dựa theo văn bản trong sách Trần thanh Mại, 1941. Ông xếp bài thơ vào thi tập Xuân
như ý, dưới tên Đây Thôn Vỹ Giạ (tr.223), chúng tôi tôn trọng chính tả
này. Ấn bản sau đó, 1942, Hoàng trọng Miên xếp vào tập Đau Thương, dưới
chính tả Vỹ Dạ, thịnh hành ngày nay, và dưới tên Hàn Mặc Tử.
Ngày nay, bài thơ được đưa vào chương trình giảng dạy cấp ba,
nhiều soạn giả, như Hà minh Đức, xếp bài thơ vào thời điểm sáng tác 1937, trong
đặc san Nắng Xuân, là không đúng.
Là một trong dăm ba câu thơ đẹp và trong sáng nhất trên nền
trời thơ Việt Nam.
Thần diệu trong đơn giản, câu thơ gợi lên một không gian đơn sơ nhưng tuyệt vời
– và không gian ngoại thành Huế ấy cũng là phong cảnh quê hương chung của chúng
ta, mà có lần Văn Cao đã khắc họa trong bài hát« bóngcau với con
thuyền, một dòng sông ».
(Ghi chú ngoài lề : Văn Cao « khám phá » thơ
Hàn Mạc Tử trong chuyến thăm chơi Huế, 1941.)
Đây Thôn Vỹ Giạ gồm 3 đoạn đều cấu trúc trên nhiều câu hỏi,
mở đầu bằng chữ Sao. Chữ sao, nghi vấn và biểu cảm, khơi nguồn một
bài thơ, sẽ là một đặc sắc của thơ mới:
Sao buổi đầu xuân êm ái thế… (Xuân Diệu)
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong… (Thâm Tâm)
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong… (Thâm Tâm)
Nhạc điệu tân kỳ : câu thất ngôn Việt Nam nhịp
3/4 ; câu thơ đường luật nhịp 4/3. Câu thơ Hàn Mạc Tử khác lạ, khoan thai,
tự nhiên 2/3/2
Sao anh /
không về chơi / thôn Vỹ
Sáu âm bằng liên tiếp, nhịp những bước chân đều, dừng lại ở
âm trắc cuối câu. Mãi sau này ta mới gặp âm điệu ấy ở Nguyễn Đình Thi:
Ngôi sao trong đêm không bao giờ tắt
Hay trong Bên kia Sông
Đuống của Hoàng Cầm:
Anh đưa em về sông Đuống…
…Ai về bên kia sông Đuống
…Bao giờ về bên kia sông Đuống
…Ai về bên kia sông Đuống
…Bao giờ về bên kia sông Đuống
Độ dài ngắn từng câu có phần xê xích, nhưng âm hao thì gợi nhớ
câu thơ Hàn Mặc Tử.
Địa danh sông Đuống đưa âm trắc bất thường về cuối câu, nhắc
đến tên thôn Vỹ.
Trần Thanh Mại
2. là người uyên bác và đã dày công đưa ra chuyên luận đầu tiên về một nhà thơ đương đại, và đề cao Hàn Mạc Tử, từng ca ngợi bài thơ này như một «viên ngọc vô ngần quý giá (tr.60), nhưng lại chê câu đầu là một «sơ suất»: câu ấy là một câu nói thường chứ không thể là một câu thơ, « Vỹ » cũng không vần với «lên» với «điền» hay với «ngọc» được (tr.224).
2. là người uyên bác và đã dày công đưa ra chuyên luận đầu tiên về một nhà thơ đương đại, và đề cao Hàn Mạc Tử, từng ca ngợi bài thơ này như một «viên ngọc vô ngần quý giá (tr.60), nhưng lại chê câu đầu là một «sơ suất»: câu ấy là một câu nói thường chứ không thể là một câu thơ, « Vỹ » cũng không vần với «lên» với «điền» hay với «ngọc» được (tr.224).
Hàn Mạc Tử hoàn toàn theo đúng âm luật khi dùng vần trắc như
thế, như ông đã làm nhiều lần: «trăng nằm sóng soải trên cành liễu»,
và như Huy Cận viết « sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp». Chỗ này,
ngược lại, là một «sơ suất» của chính Trần Thanh Mại, có lẽ vì chủ
quan và viết vội. Còn nói rằng, đây « là một câu nói thường,
không thể là một câu thơ » là một lỗi thẩm âm. Thơ hay, là khi câu
thơ đi gần tới văn xuôi mà không phải văn xuôi ; văn xuôi hay là khi câu
văn đi gần tới thơ nhưng không là thơ. Ví dụ từ Xuân Diệu:
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
Đã vắng người sang những chuyến đò
Câu trước văn vẻ, trau chuốt, hay cái hay thông thường của
văn chương ; câu sau hồn nhiên, hay cái hay kỳ diệu của chất thơ, một nghệ
thuật vượt qua kỹ thuật. Câu thơ hay thường khi là ngôi sao sáng một mình, mà Roman Jakobson
gọi là hiện tượng câu thơ mồ côi, không phải trường hợp câu «sao anh
không về chơi thôn Vỹ», vì âm điệu mà ông Mại cho là « trái
tai », đã chuẩn bị cho một câu khác, ở phần sau, cũng ngoại luật:
Mơ khách đường xa khách đường xa
Bình thường, theo âm luật, thì trong câu thơ thất ngôn, chữ
thứ hai và thứ sáu phải cùng một thanh, hoặc bằng, hoặc trắc.
Bài Đây thôn Vỹ Giạ là một trong ba bài Trần Thanh
Mại đưa ra để chứng minh rằng « hầu hết thơ bảy chữ của Hàn Mạc Tử
không kể bài thơ dài ngắn, đều đã theo luật bằng trắc của Đường thi (…) âm điệu
hiển nhiên, bất di bất dịch, không còn bác bẻ được nữa » (tr.222). Nhưng…
Hàn đã bác bẻ : bài thơ thôn Vỹ gồm ba đoạn mà cả hai đoạn đầu … không
niêm. Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính… không bao giờ làm thơ «thất
niêm» như vậy.
Ngoài ra, trong thơ bảy chữ của Hàn, đây đó, nhiều câu lạc vận.
Nêu lên vấn đề này, không phải để đôi co với Trần Thanh Mại –
người tôi cảm phục – mà chỉ để nói rằng, trên câu thơ mở đầu một bài thơ được
truyền tụng vẫn có đôi điều cần thưa đi gửi lại.
Ngay từ Sao khơi nguồn bài thơ đã là một từ ý nhị
và tế nhị. Bình thường nó là từ nghi vấn. Nhưng khi viết «Ôi nắng
vàng sao mà nhớ nhung » thì Huy Cận không hỏi ai điều gì.
Trong truyện Kiều, Nguyễn Du dùng chữ sao 73 lần,
có khi trong 4 câu liên tiếp : « khi sao…, giờ sao… mặt sao…
thân sao…», nhưng thường dùng trong chức năng biểu cảm.
Từ sao đầu bài thơ dào dạt nhiều tâm tình, chủ yếu
là lòng chờ đợi, mà ta đã gặp trong những bài thơ đầu tay của Hàn
như trong Tình Quê :
…Cách nhau ngàn vạn dặm
Nhớ chi đến trăng thề
Dầu ai không mong đợi
Dầu ai không lóng nghe…
Nhớ chi đến trăng thề
Dầu ai không mong đợi
Dầu ai không lóng nghe…
Hai khổ thơ sau cũng cấu trúc trên thể nghi vấn, «thuyền
ai… có chở… ai biết », nhưng không để hỏi, dù là tự hỏi, mà chỉ thể hiện lời
đối thoại nội tâm, như những vòng sóng gợn lăn tăn trên mặt hồ. Những trầm tư
hòa điệu kỷ niệm với ước mơ, những tiếc nuối mông lung, nhớ nhung bàng bạc, những
tình cảm không tên, có khi đã man mác trôi qua hay chập chờn chưa hình thành.
Những dự phóng, hồi quang dang dở. So đo, đem từng câu thơ ra diễn giảng một
cách duy lý là không thể. Dịch ra tiếng nước ngoài cũng khó.
Sao anh không về chơi thôn Vỹ
Thanh điệu làm nổi bật chữ «về», dấu huyền, giữa
câu, đáng lẽ phải là âm trắc theo quy luật Gió theo lối gió, mây đường mây.
Chữ «về», đắc địa và đắc ý, là một từ rất Huế. Người Việt dùng chữ
về để diễn tả sự trở lại : về nhà, về làng, về nước, về nguồn…; người
Huế, đi đến nhà bạn, ở xa, cũng dùng chữ « về », thân ái, tâm tình. Mỗi
tình bạn là một quê hương, một đợi chờ, « một cõi đi về » như tên bài
hát người Huế Trịnh Công Sơn. Lại mang máng nhớ thêm : «Sao em không
về…Trong cơn đau vùi…Làm sao có nhau… ». Phạm Duy, không phải người Huế,
cũng viết Về Miền Trung, và đã tế nhị lập lại nhiều lần động từ về trong
nghĩa tâm tình đó. Mà về, thôn Vỹ xa xuôi, chỉ để « nhìn nắng
hàng cau, nắng mới lên».
Tiếng Việt phân biệt nắng với mặt trời. Thấy nắng trước khi
thấy mặt trời ; câu thơ diễn tả niềm vui, có khi là hạnh phúc, khi bắt gặp
tia nắng trên đọt câu, rồi mới ý thức được ánh sáng ngoại giới, êm ả như cảnh Nắng
trong vườn của Thạch Lam. Nắng đẹp thường là nắng mới, và nắng sớm ;
và đẹp nhờ thiên nhiên phản chiếu. Cây cau đẹp vì thân mảnh mai cao vút, cắt những
tàu lá nhọn rủ xuống trên nền trời ; lá trúc cũng vậy. Tàu cau,
cành trúc giúp ta yêu một màu trời, nâng tầm nhìn và tầm suy nghĩ lên cao để
yêu một khóm mây, một làn gió, một tia nắng quái, một mảnh trăng non.
Người Huế, chính xác hơn là người Vỹ Dạ, Bửu Ý đã có lời ca
ngợi tàu cau trong bóng nắng chiều thậm hay: «Ở làng quê, cây mau
cao nên chiều mau xuống (…). Tàu cau nhễu bớt bụi sáng xuống nụ tầm xuân. Chị
ru em bằng tiếng hát bèo trôi»
3. Nắng mới lên thoạt tiên trên những đọt cau có khi còn lóng lánh sương đêm, rồi mới xuống dần, xuống dần, theo từng đốt thân cau, cao và thẳng đứng, xuống dần đến mảnh vườn xanh như ngọc.
3. Nắng mới lên thoạt tiên trên những đọt cau có khi còn lóng lánh sương đêm, rồi mới xuống dần, xuống dần, theo từng đốt thân cau, cao và thẳng đứng, xuống dần đến mảnh vườn xanh như ngọc.
Vườn ai mướt quá…
Từ « ai » đã từng gây hiểu lầm. Nó là từ phiếm định,
không chỉ riêng vườn của một chủ nhân nào cụ thể, mà có nghĩa là một mảnh vườn
nào đó, của ai đó, như chữ ai trong câu cuối tiểu thuyết Đôi Bạn của
Nhất Linh « đèn nhà ai mới thắp, yếu ớt trong sương, trông như một nỗi
nhớ xa xôi đang mờ dần…». Vì tính cách phiếm định đó mà trong các bản
dịch ra tiếng Pháp của nhà xuất bản Ngoại văn, Hà Nội (1975, tr. 438), hay
Gallimard-Unesco, Paris (1981, tr. 149), người dịch đã sử dụng số nhiều
« les jardins », thậm chí «mặt chữ điền» cũng số nhiều. Bản
Peras và Vũ thị Bích, Paris (2001, tr.161) dịch vườn ai thành «un
jardin» cũng trong thể phiếm chỉ.
Sở dĩ phải dài dòng như vậy, vì gần đây, Nguyễn Bá Tín giải
thích «vườn ai » là ám chỉ vườn bà Kim Cúc, mà ông có đến viếng, khiến
bà đã bất bình; vì vườn bà, không trồng cau, là loại cây «bình
dân», «và cũng không ai trồng cau ở Vỹ Dạ»
4. Gần đây, người trong gia đình bà Kim Cúc cho tôi biết, khu vườn Hàn Mạc Tử đã đến 1936, và nơi ông Tín đến, 1985, cùng thuộc Vỹ Dạ, là hai chốn khác nhau, và bà không nói những câu ông Tín nêu lên.
4. Gần đây, người trong gia đình bà Kim Cúc cho tôi biết, khu vườn Hàn Mạc Tử đã đến 1936, và nơi ông Tín đến, 1985, cùng thuộc Vỹ Dạ, là hai chốn khác nhau, và bà không nói những câu ông Tín nêu lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Vườn. Ôi vườn xưa trong những bóng trưa ! Người xưa tượng
trưng hạnh phúc địa đàng trong một khu vườn. Tôi mường tượng là một khu vườn
thôn Vỹ, đơn sơ như lời tả của Bửu Ý, bạn tôi : bụi hóp sống chung với
hàng chè tàu, vườn trước thì nở tằn tiện một hai khóm hoa đủ làm vui mắt người
đi đường. Đã có người gọi đồng bằng sông Cửu Long là văn minh Miệt Vườn, cũng
có người gọi văn hóa Huế là văn hóa Vườn, mà Lê quý Đôn đã từng ca ngợi.Vườn ai
mướt quá… Âm hao mềm mại, óng ả, lưu luyến nhờ những nguyên âm đôi, làm nổi bật
chữ ai dịu dàng, tình tứ, rất Huế : ai ngồi ai câu, ai sầu
ai thảm, ai thương ai cảm, ai nhớ ai mong… thuyền ai thấp thoáng trên
sông.
Lá trúc che ngang… Lá trúc ở đây, là rào dậu, phân định ranh
giới của vườn. Không rào dậu thì không thành vườn.Vườn là một địa phận môi giới,
giữa cõi trong và cõi ngoài, chưa phải là cõi riêng nhưng không còn là của
chung. Là trung gian giữa thiên nhiên và văn hóa. Là nhân loại chuyển mình từ đời
sống du mục sang đời sống định cư, là giấc mơ đoàn tụ giữa Chức Nữ với Ngưu
Lang, lời tình tự lứa đôi, có cu gáy và bướm vàng nữa chứ…( Huy Cận). Là hạnh
phúc có khi đang thực tại, có khi trong ước mơ hay niềm tiếc nuối một thiên đường
đã mất. Thiên đường xanh những mối tình thơ dại, chẳng hạn, như thơ
Baudelaire, một trong những bậc thầy Hàn Mạc Tử.
Hãy trả lại cho Hàn Mặc Tử hàng cau thôn Vỹ trong những vườn
trăng: «ai nói vườn trăng là nói vườn mơ. Ai nói bến mộng là
nói bến tình. Người thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo».
Câu văn này, mở đầu lời Tựa tập Thơ Điên, tình cờ
thôi, như cô đọng cả bài thơ Thôn Vỹ, một dòng suối tuôn ào ra khỏi tâm tư. Nó
là một tâm cảnh, một thực thể duy nhất, cần được nhìn và cảm nhận như một tổng
hòa toàn bích, và cảm nhận bằng trực quan thẩm mỹ.
Một tác phẩm nghệ thuật, bản nhạc, bài thơ, bức tranh, là
sáng tác của một cá nhân nghệ sĩ, trong một khoảnh khắc, một địa phương nhất định,
nhưng đồng thời nó cô đúc rung cảm của nhân loại từ muôn nơi, muôn thuở. Câu
thơ:
không khỏi gợi nhớ một câu của Trương Nhược Hư (đời Đường, đầu
thế kỷ 8) trong Xuân giang hoa nguyệt dạ (Đêm hoa trăng trên sông
xuân, nguyên là tên một điệu hát xưa) :
Thùy gia kim dạ thiên chu tử
Hà xứ tương tư minh nguyệt lâu.
Hà xứ tương tư minh nguyệt lâu.
(Nhà ai đêm nay dong thuyền nhỏ
Chốn nào tương tư lầu sáng trăng)
Chốn nào tương tư lầu sáng trăng)
Không cần dịch khó khăn, tôi bê nguyên si câu thơ Hàn Mặc Tử
vào:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
(Trăng sáng lầu ai thương nhớ ai)
(Trăng sáng lầu ai thương nhớ ai)
Xem đại ý, thậm chí lấy từng chữ ra mà so, cũng không xê xích
bao nhiêu. Mà cũng chưa chắc Hàn Mạc Tử đã biết Trương Nhược Hư. Nghệ thuật quả
là một thế giới đồng cảm kỳ diệu.
Thuyền ai đậu bến sông trăng…
Còn nhắc câu thơ Tản Đà dịch Phong kiều dạ bạc của
Trương Kế đời Đường :
Thuyền ai đậu bến Cô Tô…
Câu này thì Hàn chắc biết.
Sau đó:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Là một câu thơ khó hiểu. Ai mơ, chủ từ của động ngữ là
gì ? Người dịch ra tiếng nước ngoài, để tạo mạch lạc với câu tiếp theo,
thường cho khách đường xa làm chủ từ. Đây là một trong nhiều cách tiếp
cận ; nhưng câu thơ có thể không duy lý, mà chỉ là lời lẩm bẩm trong một
giấc mơ thức tỉnh, và cả đoạn thơ chập chờn như một giấc mơ, gợi nhớ đến bài Mon
rêve familier (Giấc mơ thân thuộc) của Verlaine, thậm chí bài Nắng mới của
Lưu Trọng Lư «chập chờn sống lại những ngày không», dĩ nhiên
là nội dung khác biệt.
Khách đường xa có thể là hồi âm câu đầu sao không về,
qua một không gian đã trùng trùng xa cách.
Áo em trắng quá: trắng màu trinh nguyên, ngây thơ, vô
nhiễm, linh hiện trong giấc mơ vô tội. Áo trắng đơn sơ mộng trắng
trong… (Huy Cận) lung linh, huyền huyền ảo ảo, mờ sương mờ khói.
Sương khói ở đây là thời gian xa cách, che lấp và bôi
nhòe, tan biến. Như ý một câu thơ cổ, trong Hoa Tiên : đã sương đã
khói đã vài năm nay. Nhân ảnhlà từ hán việt duy nhất trong bài thơ, một từ
uyên bác trong cõi nôm na, tạo thêm nét cổ kính, trang trọng cho một lời tâm sự
đơn giản. Có lẽ tác giả đã mượn ở Cung oán ngâm khúc một hình ảnh vô
cùng hợp tình hợp cảnh: Ai đem nhân ảnh nhuốm mùi tà dương. Trong
bài thơ thôn Vỹ, chữ nhân ảnh có nghĩa là hình bóng người xưa, một
chút nghĩa cũ càng đang mờ dần nhạt dần với thời gian. Nhưng hiểu rộng ra,
trong kinh Phật, nó còn diễn tả kiếp sống mong manh, có có không không. Các cụ
sẽ xem câu thơ đây là điềm dữ cho tác giả, một câu thơ « trệ », báo
hiệu việc không may. Như cái chết sắp đến.
Hiểu như vậy là lìa xa văn bản, nhưng xích gần lại định mệnh
thảm khốc của nhà thơ.
Vì chỉ khoảng một năm sau khi sáng tác Đây thôn Vỹ Giạ,
Hàn Mặc Tử qua đời, đi vào Vườn trăng Vĩnh viễn.
Đặng Tiến
1. Nguyễn Bá Tín, Hàn Mặc Tử anh tôi, tr.94. Nxb Tin,
1990, Paris
2. Trần Thanh Mại, Hàn Mạc Tử, 1941, nxb Võ Doãn Mại, tái
bản 1942, Sài Gòn.
3. Bửu Ý, Dạ khúc, báo Văn, 1965, in lại trong Ngày
tháng thênh thang, tr. 48, nxb Văn Học, 2011.
4. Nguyễn Bá Tín, Hàn Mặc Tử trong riêng tư, phần 4, trên
mạng lưới dunglac.org. Đã in, NXB Hội nhà văn,1994, Hà Nội.
Đây thôn Vỹ Giạ
Sao anh không về chơi thôn Vỹ,
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên ?
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc,
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây ;
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Mơ khách đường xa, khách đường xa ;
Áo em trắng quá nhìn không ra.
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà ?
Hàn Mặc Tử
vé máy bay eva airlines
giá vé máy bay đi mỹ hãng eva
giá vé korean airlines
vé máy bay đi mỹ giá rẻ
mua vé máy bay đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngau Hung Du Lich
Tri Thuc Du Lich