Tư tưởng và nghệ thuật trong Gió Thu của Tản Đà
Trong phạm vi bài viết ngắn
này, tôi xin phép hạn chế không đề cập tới Nhà Văn, Nhà Báo, Nhà Lý Số, Nhà Soạn
Tuồng... Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu.
Tôi chỉ nói sơ lược về Tản
Đà trong tư cách một người: Người Làm Thơ đã có chỗ đứng riêng biệt và vững
vàng ở đầu thế kỷ XX. Giai đoạn này là sự chuyển mình lớn của văn học Việt Nam,
tiếp nhận ào ạt các luồng ánh sáng văn hóa, luận lý phương Tây sau khi đã tinh
lọc các hương sắc của văn hóa, triết học Trung Hoa và một phần nhỏ từ Ấn Độ qua
tư duy Phật Giáo.
Tuy bộ máy cầm quyền của bọn
thực dân Pháp hết sức cấm đoán lưu hành một số sách báo có tư tưởng tiến bộ và
cố gắng duy trì hệ thống kiểm duyệt gắt gao, song chúng
không thành công bao nhiêu vì các cơn gió tư tưởng khoáng đạt, nhân bản,... này
du nhập và thẩm thấu vào nước ta từ nhiều hướng khác nhau, bằng mọi phương tiện
khác nhau; gây thành một trào lưu mạnh mẽ và có tác động trực tiếp vào thế hệ của
Tàn Đà.
Tản Đà là một trong lớp người
"nửa cũ, nửa mới" làm việc chữ nghĩa – theo Nguyễn Tuân –
như Tú Xương, Phan Khôi, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Huỳnh Thúc Kháng... Hay đứng
hơn là Cũ nhiều hơn Mới. Cũ đây so với cái mới của thế hệ kế cận
như Tự Lực Văn Đoàn; thực ra ông có những suy nghĩ, cảm xúc khá mới sánh với
các tiền bối khác như Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, Chu Mạnh Trinh... chẳng hạn.
Nguyễn tiên sinh sinh năm
1888 tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, con của Án Sát Nguyễn
Danh Kế. Nguyễn Khắc Hiếu lấy tên núi Tản Viên (hay Ba Vì) và sông Đà (còn gọi
là Hắc Giang) ghép lại thành bút hiệu. Vì ông thuộc gia đình khoa bảng, quan lại
nên được tập ấm trường Hậu Bổ. Ông từng là "sĩ tử lôi thôi lều chỏng"
và khi giấc mộng tiến thân bằng thi cử theo khuôn sáo "Không Mạnh viết"
vừa tàn thì ông quay sang học quốc ngữ tại trường Tân Quy phố Gia Ngư Hà Nội.
Ngay trong những năm học
"chữ nước ta" Tản Đà đã làm thơ, viết báo và tự học Pháp ngữ bằng tự
điển của Trương Vĩnh Ký. Đây là một bài thơ mang dấu vết của thời chuyển hóa ấy:
Mười mấy năm xưa ngọn bút
lông
Xác xơ chẳng bợn chút hơi đồng
Bây giờ anh đổi lông ra sắt
Cách kiếm ăn đời có nhọn không?
Xác xơ chẳng bợn chút hơi đồng
Bây giờ anh đổi lông ra sắt
Cách kiếm ăn đời có nhọn không?
Chúng ta có thể bảo Nguyễn
Văn Vĩnh (qua các bài dịch thơ ngụ ngôn của La Fontaine), Phan Khôi, Tản Đà...
là những kẻ tiên phong dựng các tiêu hướng cho phong trào Thơ Mới. Rồi từ đấy
xuất hiên một loạt các ngôi sao rực rỡ, những chiến tướng lừng lẫy là Thế Lữ,
Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Vũ Hoàng Chương, Xuân Diệu...
Sở dĩ tôi chỉ bảo Tản Đà là người cắm cọc nhận đường, phác lối chứ không phải
là người xây nền móng thi ca vì nền móng của thơ Việt Nam đã hiển hiện hàng
nghìn năm qua, đã nhật tân, hựu nhật tân; mỗi năm lại tái bồi và mở rộng.
Xét về hình thức, thể loại,
bất cứ giai đoạn văn học sử nào cũng có những nhà thơ có thiên khiếu đầy tài
năng đã cải cách hoặc đã phá vỡ các sợi trói buộc từ ngữ, hạn định sự thăng
hoa, bay bổng của ngôn từ. Họ không muốn chấp nhận cái khung bảo thủ của tiền
nhân một cách thiếu sáng suốt, cứng nhắc nữa mà vươn lên, trổi dậy từ đầu bút,
từ trang giấy tức là từ nghĩ ngợi, từ rung cảm của mình.
Tản Đà đã than thở trong Thơ
Mới theo thể loại Trường Đoản Cú như sau:
Đờn
là đờn
Thơ là thơ
Thơ thời có chữ, đờn có tơ
Nếu không phá cách vứt điệu luật
Khó cho thên hạ đến bao giờ?
Bá Nha xa
Lý Bạch Khuất
Thơ có họ Phan, đờn có họ Quách
Thơ có chữ
Đờn có tơ
Đờn thời ngơ ngẩn, thơ vẩn vơ
Tài từ văn nhân nhường rứa rứa
Bút huê ngao ngán hận đề thơ
Thơ là thơ
Thơ thời có chữ, đờn có tơ
Nếu không phá cách vứt điệu luật
Khó cho thên hạ đến bao giờ?
Bá Nha xa
Lý Bạch Khuất
Thơ có họ Phan, đờn có họ Quách
Thơ có chữ
Đờn có tơ
Đờn thời ngơ ngẩn, thơ vẩn vơ
Tài từ văn nhân nhường rứa rứa
Bút huê ngao ngán hận đề thơ
Chúng ta thấy Tản Đà làm rất
nhiều thể loại, có những táo bạo bất ngờ làm ta kinh ngạc và thán phục và đều
có những thành tựu ngang nhau, không có thể loại nào vượt trội hẳn.
Xin tạm đưa ra một thí dụ được
trích trong bài Thăm Mả Cũ Bên Đường để chứng minh thi tài Tản Đà có lúc ngẫu hứng
xuất thần phá tan bức tường rêu phong của niêm luật cấm kỵ cổ điển:
Tài cao phận thấp chí khí uất
Giang hồ mê chơi quên quê hương
Giang hồ mê chơi quên quê hương
Chúng ta nhận thấy câu thơ
trên chỉ có hai từ bình thanh và có tới năm từ trắc. Câu sau là toàn thượng
bình và hạ bình thanh. Hai câu này chủ ý dùng âm thanh để diễn cảm hoàn cảnh,
tâm tư. Các cụ vẫn dặn người làm thơ nên tránh khổ độc, tức là có ba chữ cùng dấu
liền nhau và không đặt nhiều từ trắc cạnh nhau cho khỏi mất nhạc, làm người đọc
khó đọc, khó ngâm.
Song phận thấp chí khí
uất đã được cứu khỏi sự ngắc ngứ, khấp khểnh vì hai từ tài cao, nhất
là hạ bình tài trên đầu câu thơ; đồng thời câu sau cũng hỗ trợ cho việc
làm cân bằng về kỹ thuật và nội dung do các từ bình thanh.
Nhìn chung,
thơ TảnĐà rất chú trọng tới nhạc tính và dùng vần chính thống nên lượn sóng từ
ngữ nhịp nhàng, mềm mại. Ông viết khá nhiều bài theo thể hát nói, ca sẩm, ca
lý, từ khúc... Vài bài đã được phổ tân nhạc.
Sau này Xuân Diệu cũng viết:....
Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi...
(Nhị Hồ)
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi...
(Nhị Hồ)
Tôi mạo muội ghi ra những
nhân tố nào hình thành, tạo nên một phong cách Tản Đà:
a- Do truyền thống gia hệ,
do nòi tình thừa kế của cha mẹ (bà Phủ Ba thân mẫu Nguyễn Khắc Hiếu xuất thân từ
Bình Khang).
b- Do cá tính, tức là có lý tưởng dân tộc, có ý chí kiên quyết, ham học hỏi, thích quảng giao, có óc thông minh...
c- Do môi trường thuận lợi là cái nôi văn học thời ấy: Hà Nội.
d- Do sống trong "giai đoạn quá độ", được tiếp thu hai nền văn hóa Đông Tây.
e- Do bất đắc chí trong khoa cử triều Nguyễn.
g- Do thất tình với cô Đỗ Thị bán sách phố hàng Bồ.
b- Do cá tính, tức là có lý tưởng dân tộc, có ý chí kiên quyết, ham học hỏi, thích quảng giao, có óc thông minh...
c- Do môi trường thuận lợi là cái nôi văn học thời ấy: Hà Nội.
d- Do sống trong "giai đoạn quá độ", được tiếp thu hai nền văn hóa Đông Tây.
e- Do bất đắc chí trong khoa cử triều Nguyễn.
g- Do thất tình với cô Đỗ Thị bán sách phố hàng Bồ.
Suốt đời Tản Đà sống thanh bạch
nhưng không quá nghèo khổ vì luôn luôn có các vị Mạnh Thường Quân mến tài giúp
đỡ. Ông khoan hòa, ưa thanh tĩnh, thẳng thắn, hay kết bạn dù là bạn vong niên,
tận tình giúp đỡ mọi người... có hai mẩu chuyện được lưu truyền về Tản Đà như
sau:
1- Tản Đà mua một bộ bàn ghế
về; để lại có hai ghế, còn hai chiếc kia đem
vất đi vì cho rằng đời mấy ai tri âm, tri kỷ; nên chỉ dành một cho khách và một
cho mình mà thôi.
2- Một vị chủ báo ở Nam Kỳ biếu Tản Đà một nghìn đồng làm lộ phí. Trên tầu hỏa ông đem phân phát gần hết cho các người nghèo. Chúng ta nên biết giá trị một đồng bạc thời đó rất lớn.
2- Một vị chủ báo ở Nam Kỳ biếu Tản Đà một nghìn đồng làm lộ phí. Trên tầu hỏa ông đem phân phát gần hết cho các người nghèo. Chúng ta nên biết giá trị một đồng bạc thời đó rất lớn.
Tóm lại chúng ta nên kết luận
Tản Đà là một nghệ sĩ và vì là một nghệ sĩ đích thực nên đôi lúc ông tỏ ra
ngông nghênh, bất cần đời và chán nản cuộc đời.
Trong sự nghiệp thơ của Tản
Đà tôi thích đến thuộc lòng những bài sau đây: Vịnh Bức Dư Đồ Rách, Thúy
Kiều Hầu Rượu Hồ Tôn Hiến, Thề Non Nước, Cảm Thu, Tiễn Thu, Tống Biệt, Thăm Mả
Cũ Bên Đường và Gió Thu.
Bài Gió Thu là bài
thơ gồm hai đoạn tứ tuyệt, mỗi đoạn ba vần rất đúng niêm luật, có hơi thơ dịu
dàng, đĩnh đạc và đơn giản:
Trận gió thu phong rụng lá
vàng
Lá rơi hàng xóm lá bay sang
Vàng bay mấy lá năm già nửa
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng
Lá rơi hàng xóm lá bay sang
Vàng bay mấy lá năm già nửa
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng
Trận gió thu phong rụng lá hồng
Lá bay tường bắc lá sang đông
Hồng bay mấy lá năm già nửa
Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng trông
Lá bay tường bắc lá sang đông
Hồng bay mấy lá năm già nửa
Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng trông
Trước hết chúng ta phải hiểu phong là
loại cây giống như cây bàng, có người bảo đó là cây bàng. Phong như:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ
lâm
(Hạt sương như ngọc, rừng cây phong héo hắt buồn bã)
Thu Hứng bài I của Đỗ Phủ
(Hạt sương như ngọc, rừng cây phong héo hắt buồn bã)
Thu Hứng bài I của Đỗ Phủ
như:
Giang phong ngư hỏa đối sầu
miên
(Cây phong bên sông và ánh lửa chài đối giấc ngủ sầu)
Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế
(Cây phong bên sông và ánh lửa chài đối giấc ngủ sầu)
Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế
và:
Người lên
ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du
(Vũ Hoàng Chương đã lấy từ đầu của câu tám đặt tên cho tập thơ Rừng Phong)
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du
(Vũ Hoàng Chương đã lấy từ đầu của câu tám đặt tên cho tập thơ Rừng Phong)
Cây ngô đồng, cây phong, cây
hoa cúc, cây liễu... là loại thực vật chủ yếu làm bối cảnh trong cảm hứng sáng
tác cho các thi sĩ đời Đường, Tống; rồi trở thành ước lệ cho nhiều nhà thơ cổ
điển và cận đại của nước ta khi viết về mùa thu.
Đáng lẽ hai câu của hai đoạn
thơ tứ tuyệt phải có dấu phẩy sau gió thu, song làm như vậy nhịp câu thơ sẽ bị
ngắt làm ảnh hưởng đến sự diễn tả nhẹ nhàng liên tục của gió thu.
Bài thơ mang mang buồn rầu,
chứa chan hoài vọng và xen lẫn sự trách móc kín đáo. Gió thu gỡ lá phong từ sân
bên nhà hàng xóm dìu sang sân nhà. Màu vàng của lá phong như lá ngô đồng báo trời
đã sang thu mà người thiếu phụ ấy sớm quên lời thề ước xưa với tình nhân chắc
đã đi lấy chồng. Lại một trận gió thu nữa mà khoảng cách thời gian so với trận
gió trước có thể từ một, hai tháng vì bây giờ lá phong của trời vào thu vàng úa
nay đã thẫm hồng sắp rụng. Lá phong lần này từ hướng khác, căn cứ theo đoạn thơ
trên thì nhà người hàng xóm ở phía tây hoặc phía nam của người viết hoặc của
nhân vật trong thơ, từ phương bắc bay qua phía đông mà không bay lạc vào sân
nhà mình nữa trong lúc trời chuyển sang mùa đông. Hai đoạn thơ khác nhau cả về
thời gian lẫn không gian, đoạn thơ trên xác định hơn. Bây giờ "trời cuối
thu rồi" tức là đã hết "mùa cưới" mà ai vẫn đứng trông tức là đứng
không, đứng trơ vơ giữa đất trời, sống cô đơn giữa cuộc đời. Đại từ ai trỏ
nghiêng về giới phụ nữ thì đúng hơn. Như thơ Xuân Diệu trong Mùa Thu Tới:
Dăm cô thiếu nữ buồn không
nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?
Tản Đà hạ từ vẫn khiến chúng
ta phải hiểu là người đàn bà, cô gái ấy đứng chờ đã lâu lắm rồi mà người tình
đã ra đi, chưa hay không trở lại nối lại duyên xưa, thực hiện câu hứa hẹn năm
nào. Chàng đã đi "theo lời gió nước" hay chính chàng đã phụ phàng?
Chúng ta nhận thấy tác giả
dùng từ trận (trận gió) làm chúng ta liên tưởng tới những hồi, những
đợt liên tiếp đang thổi trên thiên nhiên cảnh vật, thổi vào lòng đôi lứa đang hờn
giận, yêu thương, xa cách... và thổi vào tâm hồn nhân ái, mong chưa xẻ từng hồi,
từng trận không dứt, từ từ, thanh thoáng của tác giả.
Gió thu trong bài này khác với
gió thu trong bài Cảm Thu, Tiễn Thu:
Vèo trông
lá rụng đầy sân
Công danh phù thế có ngần ấy thôi
Công danh phù thế có ngần ấy thôi
Trong Gió Thu Tản
Đà dùng 26 từ trắc trong tổng cộng 56 từ của bài thơ, tức là thanh bình tương đối
nhiều hơn thanh trắc. Tôi cố hết sức thử tìm để có thể đổi được thêm từ trắc
nào sang từ bình thanh không mà đành chịu! Tác giả đã chọn lựa kỹ càng, tiết kiệm
tối đa từ trắc để diễn tả sự im nhẹ của khung cảnh dù không có một từ nào gợi đến
âm thanh, song bởi sự tĩnh lặng đó mới có thể gây cho độc giả các ý tưởng về âm
thanh. Bài thơ không gợi đến cảm giác trực tiếp mà tất cả chỉ bao gồm hình ảnh
và tình cảm rất chủ quan và cũng rất khách thể. Tác giả, nhân vật, cảnh vật và
tình cảm quấn quyện vào nhau như một nỗi niềm thống nhất.
Song từ bắc làm
cho chúng ta nghĩ ngay đến cơn gió bấc sắp thổi đến cùng với mưa phùn xứ bắc se
se ấm lạnh.
Nhưng có thực bài Gió
Thu hoàn toàn chỉ là một bài thơ lãng mạn, chỉ là một sản phẩm của tình
yêu nam nữ chăng? Tôi xin thử tìm hiều thêm ý nghĩa ẩn dụ của bài thơ với thái
độ nghiêm chỉnh chứ không phải "vẽ rắn thêm chân".
Trước hết chúng ta thử giải
thích các danh từ và các đại từ thiếp, chàng, lá, ai, hàng
xóm, bắc và đông thì chúng ta mới hy vọng hiểu được tâm sự
của tác giả đối với đất nước.
Hàng xóm là đồng chí,
là "'đồng hội đồng thuyền" mà cũng có thể là hai nước Miên, Lào cùng
bị thực dân Pháp cai trị dưới chiêu bài khai hóa. Thiếp là dân tộc Việt
Nam đang sống trong cảnh nô lệ. Chàng là tổ quốc Việt Nam. Ai là
định mệnh, là vận hội. Bắc là Trung Hoa. Đông là nước Nhật
Bản. Lá là những Kẻ Sĩ, những người làm cách mệnh hay là các nhân
tài. Như:
Hào kiệt như sao buổi sớm,
nhân tài như lá mùa thu
(Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi)
(Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi)
Vậy bài Gió Thu chúng
ta có thể hiểu thêm một ý nghĩa khác đại khái như sau:
Trong thời kỳ bị Pháp đô hộ,
có những phong trào hay có những cá nhân đứng dậy khởi nghĩa, hoạt động quang
phục đất nước đã bị hy sinh (rụng) hay rốn lánh lén lút (sang) để tránh sự truy
tầm của Pháp. Nhưng lại có nhiều kẻ bán nước cầu vinh như Hoàng Cao Khải, Nguyễn
Thân, Tôn Thọ Tường... cam tâm làm tay sai cho giặc và cũng như bao nhiêu kẻ
khác quên cái nhục mất nước (phụ). Chủ nghĩa cơ hội này của Tôn Thọ Tường đã bị
Phan Văn Trị bác bỏ, đập nát qua lời biện bạch, trần tình bằng thơ của Tường,
ví dụ bài Tôn Phu Nhân Quy Thục.
Trước khi Pháp chiếm nước ta
sĩ phu Việt Nam coi nước Trung Hoa là chúa tể, là cái rốn của nhân loại, tất
nhiên trừ một vài người sáng suốt như Nguyễn Trường Tộ. Vì thế nhiều thanh thiếu
niên bỏ nước sang Tàu mưu cầu phục quốc như một số vua quan ngày trước. Nhưng rồi
chính nước Tàu cũng bất lực, cũng bị xâu xé, khinh miệt nên các vị tiền bối
cách mạng ấy lại quay sang đất nước của Minh Trị Thiên Hoàng để tìm sự trợ giúp
của "dân tộc da vàng tiên tiến và anh dũng". Đó là phong trào Đông Du
với Đông Kinh Nghĩa Thục đáp ứng sự nồng nhiệt ấy.
(Theo Nguyễn Mạnh Bổng và
nhiều tác giả khác, Tản Đà có liên hệ công khai và bí mật và đã "dấn
thân" vào cao trào yêu nước bằng hình thức này hay hình thức khác).
Vậy ai cũng là dân
tộc Việt Nam trong giai đoạn bị trị, chưa đủ sức đánh đuổi Phú Lang Sa nên có mặc
cảm phụ phàng và cũng đang ngóng trông các người ở hải ngoại sớm về giải phóng
quê hương, tổ quốc; vẫn thơ thẩn mong mỏi các cánh hồng tuyệt vời bay
về chốn cũ, làm nên lịch sử hào hùng như cha ông thuở trước. (Đại loại như tuyệt
đại đa số đồng bào ở nước ngoài hiện nay đang thơ thẩn ngẩn ngơ, tiêu cực, bàng
quan, đứng trông chế độ Cộng Sản hành hạ đồng bào quốc nội và đứng trông các
chiến sĩ tự do tiên phong cứu nước).
Trở lại phần kỹ thuật bài
thơ ngắn này, chúng ta nhận thấy tác giả chọn vần rất khéo. Vần cuối của đoạn
trên có dấu huyền (chàng) – Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng – như một
tiếng thở dài sầu thảm. Vần cuối của đoạn dưới không có dấu huyền (trông)
– Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng trông –, âm sắc được nâng cao, khiến
câu thơ dàn trải, ngân nga, vang xa hơn... Và từ già (Vàng bay mấy lá
năm già nửa/ Hồng bay mấy lá năm già nửa) cũng đắc địa lắm, nó xui ta hiểu
nghĩa tuổi tác già nua của con người và nghĩa dằng dặc già cỗi của thời gian chờ
đợi.
Bài thơ Gió Thu còn
có một đặc điểm nữa. Đó là hình ảnh chuyển động của chiếc lá rơi xuống đất. Mỗi
đoạn có bốn danh từ lá. Trong câu thứ nhất láđứng thứ sáu. Trong câu
thứ hai lá xếp thứ nhất và thứ năm. Và câu thứ ba lá đứng
thứ tư. Bây giờ chúng ta nồi liền và vòng các từ lá từ câu thơ thứ nhất
đến câu thơ thứ ba của mỗi đoạn. Chúng ta sẽ thấy gì? Phải chăng chúng ta được
một chữ tương tự như chữ S, chữ Chi của Hán tự, đó là hình ảnh
chuyển động của chiếc lá từ trên cao rơi xuống.
Theo chỗ tôi biết, trong kho
tàng văn chương của chúng ta không có một dụng tâm tương tự.
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu đã
không thực hiện được giấc mộng con là đỗ đạt, lấy được người mình yêu, là đời sống
phong lưu..., nhưng ông lại thành công khi đạt được giấc mộng lớn là sự nghiệp
văn chương và trong tư cách trong sáng, khá mẫu mực vì suốt đời Tản Đà phụng sự
lẽ phải, phụng sự Chân Thiện Mỹ và phụng sự dân tộc Việt Nam.
Tiên sinh mất đến nay đã hơn
ba phần tư thế kỷ (ngày 17 tháng 6 năm 1929 tại Ngã Tư Sở Hà Nội) nhưng Tiếng
Thơ Văn của Tản Đà vẫn lồng lộng, hùng vĩ như núi Tản Viên; vẫn bát ngát, cuồn
cuộn như mặt sông Đà. Bút hiệu của ông xứng đáng và vinh danh núi Tản sông Đà
quê hương.
Phần lớn thơ văn của Tản Đà
trụ lại với thời gian, vẫn còn phù hợp với cảm quan của chúng ta ngày nay và
tôi tin rằng nhiều thế hệ sau vẫn yêu thích thơ văn Tản Đà.
Tìm hiểu toàn diện cuộc đời
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu không phải một hai người có thể làm được một cách
nghiêm chỉnh, đầy đủ; phân tích về thơ Tản Đà cũng không thể đơn thân vì sẽ rơi
vào sơ lược, lệch lạc, thiếu sót... bởi vì tính chất thơ Tản Đà rất phong phú,
sâu sắc và cao cả.
Tội viết bài đọc ngắn này
quanh bài Gió Thu, coi nhưmột nén hương tưởng niệm một nhà thơ lớn của dân
tộc, thân yêu và đáng kính nhớ mãi là Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu.
eva airline vietnam
cách mua vé máy bay đi mỹ
đặt vé máy bay korean air
vé máy bay đi mỹ
săn vé máy bay giá rẻ đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich