Tháng 10/1998, Bùi Giáng nằm xuống và chúng ta cúi đầu đưa tiễn
người thơ về phía bên kia (khác với bên này). Đến từ lộn
chộn một thiên thu lá đỏ, Bùi Giáng đã rong chơi hí lộng, càn khô túy lúy giữa
cuộc trần gian, đã đi hết đời thơ, và định mệnh của mình. Và, người đi mây trắng
cuối trời nhưng thơ còn ở lại, những “Mưa nguồn. Lá hoa cồn, Ngàn Thu Rớt Hột,
Rong rêu …” để cuộc tồn sinh của Thơ vẫn nao nức.
Lỡ từ lạc bước bước ra
Chết từ sơ ngộ Màu Hoa Cuối Cùng
(Chớp biển)
Xuân về xuân lại xuân đi
Đi là đi biệt từ khi chưa về
(Lời cố quận)
Thơ tưởng chừng ngớ ngẩn, người tưởng quá cuồng
điên khi chưa về đã biệt. Nhưng không, cái thâm sâu tàng ẩn mà dị kỳ mê hoặc của
Người & Thơ Bùi Giáng nằm ở đây. Nguời thơ đã nhảy vọt để băng
qua dung nhan thường lệ, tiếp giáp với mạch tồn tinh thể uyên nguyên nên cứ cái
lý (raison) và lẽ (cause) của thường tục thì không thể diễn dịch (deduire). Giả
thử hỏi ông từ đâu đến, Bùi Giáng sẽ mỉm cười: từ cái “liên tồn” Phùng Khánh
nên…gọi Phùng Khánh bằng mẫu thân, ấy là đạo vậy. (Thi ca Tư tưởng – Đoạn
Trang Tử ). Thanh Tâm Tuyền đã vẽ Bùi Giáng bằng một nét duy nhất: ngủ
ra thơ, thở ra thơ, đi ra thơ, đứng ra thơ. Phạm Thiên Thư thì gọi họ Bùi là dế
điên, dế què, dế sương mù, dế nội đồng, dế đá trời bốn mùa ca hát:
ta thấy anh - là dế sương mù
hát ca ầm ỉ suốt mùa thu
anh mơ hồ cả đêm xoè nguyệt
vàng cả Kim Cương mở lối tu
(Bùi Giáng Bốn Mùa)
Còn Bùi Giáng thì tự giới thiệu mình, tên mục tử chăn
trâu lấy thơ mà gạ gẫm chuồn chuồn châu chấu: " Thơ
tôi làm...là một cách dìu ba đào về chân trời khác. Ði vào giữa trung tâm bão
giông một lúc thì lập thời xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức. Tôi gạ gẫm
với châu chấu chuồn chuồn, đem phó thác thảm họa trần gian cho chuồn chuồn mang
trên hai cánh mỏng bay đi. Bay về Tử Trúc Lâm, bay về Sương Hy Lạp, ghé
Calvaire viếng thăm một vong hồn bát ngát, rồi quay trở về đồng ruộng làm mục tử
chăn trâu…” (Thi ca tư tưởng ).
Nếu Trịnh Công Sơn là kẻ hát rong giữa chợ đời
thì Bùi Giáng là người ném thi ca vào giữa cuộc lữ lấm lem,
ném cả tồn sinh tím vỉa hè, ném ngữ ngôn vào chốn tuyệt trù cheo
leo.
Chấm ngòi bút sắt se vào mực
Viết ra câu thúc giục sương mù
(Mùa xuân chiêm bao)
Qua chiêm bao là la đà mộng, rừng mù sa và ni
cô tháp tùng, nghi hoặc:
Ghì môi cơn mộng la đà
tiêu dao suốt cõi mù sa bên rừng
nửa vời trăng rộng mông lung
Mai Thảo của nhóm Sáng Tạo cũng không thể im lặng trước
một tài hoa hiển lộ như nhiên “có ông, thi ca mới đích thực có
biển có trời" ( Một vài kỷ niệm với Bùi Giáng). Với tôi, Bùi Giáng là người
thơ và thơ là thứ thiệt. Đời và thơ của “Trung niên thi sĩ”
trong chừng mực, đã khai thị những bội số ý nghĩa thi ca, cũng hé mở cánh cửa
bước vào mối quan hệ bất khả ly giữa thơ & người thơ.
1- Thơ là gì?
Là tro than thơ thẩn, là mộng tàn chiêm bao,
là cuộc sinh tử dị kỳ từ mộng ban đầu vùi lấp mấy lớp sóng biển
xanh dâu.
Thơ là thẩn vậy tro than
Tàn canh con chết trên tàn mộng kia.
(Thích Phùng Khánh Ca)
Lọc đi cái lớp vỏ quạnh quẹo của ngôn từ, nhìn vào
trong, ta nhận ra: Thơ là người, người tro than cát bụi, thẩn
thơ sấp ngửa chợ đời, cười khóc mộng mị với đủ hỉ nộ ái ố thất tình,
cả những cơn điên…Thơ, trùng khít lên thân phận người. Nói như Trần Dần,Thơ là
mạng sống, là lý lịch thật đời tôi. ( Sổ bụi 1988) Chúng ta tìm thấy một
thiền sư Không Lộ với “trường khiếu nhất thanh hàn thái hư”, một Hàn Mạc Tử
với rời rụng vầng trăng đau chảy máu, một Xuân Diệu thanh xuân lời yêu gối mị
trăm năm, một Bích Khê với Tinh huyết đau thương mà trụy lạc. Thế đó, thơ
là người. Nguời chiến sĩ có thơ chiến sĩ, viên chức có thơ công dân, kẻ ẩn
ức tình dục thì nôn thốc tháo những thịt đùi mông ngực, kẻ cháo lão mưu sinh
thì thơ quẹo lưỡi tụng ca… Còn người thơ Bùi Giáng thì như con chim đơn sơ mùa
xuân líu la, ngứa cổ hát chơi, hát vào cuộc Lễ Hội Trần Gian. Khi gió nắng
vào reo um khóm lá? Khi trăng khuya lên ủ mộng xanh trời? Chim ngậm suối đậu
trên cành bịn rịn? Kêu tự nhiên nào biết bởi sao ca? Tiếng to nhỏ chẳng xui chùm
trái chín? Khúc huy hoàng không giúp nở bông hoa? ( Đi vào cõi thơ).
Không, Bùi Giáng chưa một lần cực nhọc hô hào nhiệm vụ giáo
dục quần chúng, rêu rao văn dĩ tải đạo nhưng phóng mình lên đỉnh núi
thon von của CÁI ĐẸP, của TỰ DO tư tưởng & yêu thương, cho trong chiêm
bao thơ về lãng đãng thì từ đó vẫn bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm bao”. Khái niệm Thơ
là người đồng thời bao hàm thái độ sống. Sống, không hận thù, không đấu
đá, không bè phái, không khen chê, không kêu rêu khóc lóc van cầu. Bùi Giáng đã
ở trọ hơn bảy mươi năm cuộc đời với nguyên vẹn một hồn tinh khôi, niềm
vui bờ ngập và bày biện cuộc chơi giữa lấm lem mặt người: cởi quần áo giữa lớp
học, tắm nơi công cộng, ngủ vỉa hè, trở thành hành khất túy lúy, mặc áo rằn ri
lính ngụy chỉ đường giao thông...Tất cả là vui thôi mà (2 ). Ông vui
và thơ vui, vui bất tận, một vĩ đại vui .
Ðiên chơi cho bớt điên đầu /điên đầu cho bớt điên rầu rĩ
chơi/... Buồn vui ai biết đâu ngờ/ nằm trong tử diệt nhớ giờ tái sinh.
Rũ bỏ tất cả các lớp ngoài( hình hài ngữ ngôn
cử động…), Bùi Giáng đang trên đường tìm đến bản chất, bản lai
diện mục, tiến gần đến bờ của một tuyệt đối tự do.
Thưa em buổi trưa đi vào giữa lòng lá nhỏ
Tiếng kêu kia còn một chút mong manh
Dòng nức nở như tia hồng đốm đỏ
Lạc trời cao kết tụ bóng không thành
(Hư vô và vĩnh viễn – Mưa nguồn)
Người thơ đã hoan hỉ sống như trẻ thơ, vượt lên phiền
trược, không câu không chấp. Đố ai tìm được một câu thơ ông trách phiền nhân
gian. Thơ, trong trang nghiêm vẫn ẩn giấu nụ cười “niêm hoa vi tiếu” của Hoan hỉ
Phật. Nầy là khúc hát nửa đêm, bồ tát và sắc nhan cụng cựa.
Nửa đêm Bồ tát đề huề
Ði tu một trận còn mê khuynh thành
(Sa mạc phát tiết)
Kính ái mà vẫn tếu táo, Bùi Giáng dành riêng cho Ni
cô Trí Hải một chỗ đứng trong dòng chảy đời mình:
Ra sông nằm ngũ rập rình
Mẫu thân Phùng Khánh đẻ mình ra sao.
(Sa mạc trường ca)
Không phải khi nào cũng quàng xiên loe choe tréo ngọe, Bùi
Giáng rộn ràng sớm mai nâng niu từng nụ tình mới chớm, mơ màng với lớp lớp sóng
lục vô chừng & nụ cười mây mọng:
Em có nụ cười buồn mây mọng
Em có là mi khép lá cây rung
Em có đôi mắt như sầu xanh soi bóng
Hồ gương ơi! Sao sóng lục vô chừng!.
Niềm vui còn đầy vun hoa cỏ bốn mùa, vui với lũ chó sủa
inh oang phố thị, lủ khỉ leo trèo, với châu chấu chuồn chuồn và với bầy vịt… nhựa
và đặc biệt, với lũ bò đen,vàng, trắng… chăn dắt buổi chiều về.
Này em Đen chiếc vòng vàng tươi lắm
Này em Vàng chiếc trắng há mờ đâu
Này em Trắng chiếc hồng càng lóng lánh
Này đây em Hoa Cà hỡi! Chiếc nâu
(Nỗi lòng Tô Vũ)
Và này là một chút nắng màu sông, khói vàng rơm rạ,
bến cũ gốc đa, bóng tre đầu làng… đi vào thơ ông
như thịt xương núm ruột:
Con đường bờ ruộng khúc sông...
Bóng tre, màu rạ như trong ruột rà
(Martin Heidegger và Tư Tưởng, Hiện Ðại
2)
Người thơ Bùi Giáng không hề tính toán so bì kiểu Lý Bạch
“hồ vi lao kỳ sinh”. Ông chán ngấy chán phèo cái “buồn nôn” của Sartre, cười
ngay mũi Nietzsche vì cứ cực đoan xô đẩy Thánh Thần Tiên Phật, và không bao giờ
“xa lạ” với cuộc đời như Albert Camus. Giữa nắng mai phơ phất lạ, trí huệ mở ra
trăm mắt ngàn ngày, Bùi Giáng đi thăm một bờ sông gió thổi, chiếc bàn đá, lũ trẻ
con và nhận biết hiện thể của mình, đâu đó, im ỉm nằm khèo trong lá nắng…
Hỏi tên, rằng biển xanh đâu
Hỏi quê, rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên, rằng một hai ba
Ðếm là diệu tưởng, đo là nghị tâm!
Quê nhà giấc mộng phù du bay, thân xác chỉ là hư
huyễn nỗi đời tục lụy. Và người thơ ngẩng mặt mà đi, mắt gửi một
lời chào .
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Bản thể trụi trần và nhân tính đã hiện hình lồ lộ.
Vâng, nhân văn chẳng phải đội mũ cao áo dài và rao giảng những
nhân danh… Nở một nụ cười, vẫy một bàn tay, Bùi Giáng đi hết những
phong ba đời mình, như thế. Buổi chiều, một chai bia, thếp giấy, một chỗ ngồi
ông viết cho đời những câu thơ tụng ca cái đẹp.
Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không
Ta đi gửi lại đôi dòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù
(Mưa nguồn)
Và chúng ta yêu Thơ và Người Bùi Giáng
trong màu trăng châu thổ, trong mông quạnh đìu hiu chiều những lá hoa cồn,
yêu cả những cơn say và mê tỉnh của ông dù ông chẳng đăng đàn tuyên bố, lên báo
lập ngôn nửa chữ về mục đích thơ .
Bắt chước ông Khổng Tử
Con chim thì ta biết nó bay
Con cá thì ta biết nó lội
Thằng thi sĩ thì ta biết nó làm thơ
Nhưng thơ là gì
Thì đó là điều
Ta không biết
Thơ là thơ và thi sĩ là thằng
làm thơ, không cần vo viên thơ thành đạn chì đạn ống đạn thiếc bắn
vào ai cũng chẳng truyền đạo đức cho ai… Người thơ và thơ giăng tay để yêu hết
vô cùng:
(...) Xin yêu mãi yêu và yêu nhau mãi
Trần gian ơi! Cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại
Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn
(Mưa nguồn)
2- Thơ dị kỳ, người dị thường
Nhưng mà vũ trụ sao bay, ngân hà cuộn chảy,
âm dương dịch chuyển, đất kia thương hải tang điền rộn rịch nguồn cơn bối rối, Người
& thơ Bùi Giáng cũng đi về thể lệ lâm li, đi đi suốt cõi lời
nghi vấn lời. Từ buổi ban đầu, hồn trong veo, thơ tinh khiết, người
& thơ Bùi Giáng cũng lấm lem bùn đất nhân sinh mà mang máng sầu, vương
vướng hoài nghi, ăm ắp những chiêm bao phờ phạc. Hơn ai hết, Bùi Giáng đã thức
ngộ thị phi đen trắng, những xoang điệu đười ươi
Ấy là thơ thuở chưa điên
Ở trong dấu ngoặc quàng xiên reo cười
Bây giờ xoang điệu đười ươi
Ðiệu hoa lầu các ngậm ngùi dấn thân
Thanh xuân tươi đẹp, nhưng cái tang của người vợ yêu dấu
khiến ông thảng thốt khuya khoắt mờ sao. Hai lần đứng trước cổng
trường Đại học, ông từ chối bước vào vì nhận ra cuối cùng là “trường trại lao
xao”, ôm đồm mấy nhúm à uôm chữ nghĩa, sẽ bất lực để giải thích cội nguồn chân
mây, bất lực để khai thị một tâm thức . Bỏ đi thôi. Lang thang làm mục tử, đi
tìm con đường khai phóng cho mình
Buổi đầu sơ ngộ là cánh én viên thành một
mùa xuân:
Én đầu xuân tuyết đầu đông
Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa
(Mưa nguồn)
Thơ, theo nhịp chân ngày lập lờ những ẩn ngữ &
mật mã, những dấu hỏi hoang mang, lơ lửng hỏa mù những tuệ cảm
trắng phau, những huyền ẩn kinh xanh như là.
Hỗn mang về giữa hiên nhà
Bây giờ cố quận tên là chiêm bao
Cố quận, quê nhà, phố thị được lặp lại với
tần sô cao và độ rung tăng dần mạnh mẽ, lung lay từng khóm rễ chịt chằng của vô
thức. Bên cạnh, thời điểm “nguyên xuân” cũng là cái khoảnh khắc thâm tàng
bất lộ… Bùi Giáng cho rằng cần “phải trở về bủa rộng chiêm bao để thiết lập mộng
luân lưu giữa thời gian bay múa: và có như thế thì “cuộc tồn hoạt của tồn sinh
[mới] được tiếp xúc trở lại với hương màu vạn cổ...”. Cho nên, những vần thơ cứ
mọc lên những giấc mơ ngày, ngây dại với chiêm bao, tạo thành một thế giới ảo
hóa từ thiên thu về, từ độ non cao, có cả Như Lai với Phật Chúa hiện tiền.
Ở góc độ này, thơ tưởng như đã thoát ly hiện thực: không cơm áo mưu
sinh, không máu me xương xẩu chiến tranh, không hận thù phân chia, không gian
thương lừa lọc. Nhưng không, người thơ không ảo, cũng không biện bày ảo
thực dị kỳ để hoa mắt rối lòng người. Hãy nghe người thơ nhắn nhủ với Xuân Diệu
cũng là thầm thỉ với mình. Nhưng rồi phong ba cứ dồn dập, càng ngày càng
mang tính cách nhố nhế thêm ra, tủn mủn đầu độc thêm ra, thì ưu tư khắc khoải trở
thành chuyện tầm phào, siêu thi, siêu tưởng, siêu triết… trở thành chuyện đĩ điếm.
Văn chương văn nghệ trở thành chuyện bán cá ngoài chợ. Nợ tang bồng vay trả trả
vay, trở thành chuyện phỉnh phờ con nít. Lưu thủ đan tâm, trở thành chuyện tán
gái đâm toang. Chiếu hãn thanh, trở thành chiếu chăn mài cọ lầu xanh meo mốc.
(Thi ca tư tưởng).
Một chút ngông ngôn, dăm lời giễu nhại, rồi liều & loạn những
từ ngữ lạc lầm cộng lại thành nỗi đoạn trường đau mà âm vọng là miền miền
tuyệt đối hoang mang. Hoang mang vì tất cả là nhố nhuế, tủn mủn, phỉnh phờ…
Danh vọng, bạc tiền, ngựa xe, cửa nhà như khói mây. Nên con đường người
thơ chọn. “Thơ tôi làm... là một cách dìu ba đào về chân trời khác”. Bằng
cách xô đẩy ngữ ngôn ( lặp, láy, nhại, dùng ẩn dụ/ hoán dụ…), Bùi
Giáng khiến nó nhảy nhót đu bay, biến hóa trùng trùng sóng bể, tung hê lên
như ức vạn hạt cát li ti, thúc đấy ý lực của bài thơ và mang đến cho người đọc
những giá trị cảm thức sâu sắc, những bàng hoàng hoài cảm, những tưởng vọng
mênh mông. Hư không đối diện, vạn đại thánh thót, vân mồng lạnh lẽo như phi vào
chốn tuyệt mù của đường bên kia.
Người đã bỏ đường kia ở lại
Ðể đi vào đối diện hư không
Bờ thánh thót thu sau về vạn đại
Lời chào kia nức nở lạnh vân mồng
(Lá Hoa Cồn)
Cười khóc là cuộc tồn lưu kỳ thú mà Bùi
Giáng ghi nhận cho mình lên trắng tường vôi, lên hồng lục lá và rồi tự đốt
tự hũy như một định mệnh tất nhiên để bao giờ bao giờ dấy lên nghi hoặc
suốt cả cổ độ nghìn thu:
Bằng bút chì đen/
Tôi chép bài thơ/
Trên tường vôi trắng
Tôi chép bài thơ/
Trên tường vôi trắng
Bằng bút chì trắng/
Tôi chép bài thơ/
Trên lá lục hồng
Tôi chép bài thơ/
Trên lá lục hồng
Bằng cục than hồng/
Tôi đốt bài thơ/
Từng giờ từng phút
Tôi đốt bài thơ/
Từng giờ từng phút
Tôi cười tôi khóc bâng quơ
Người nghe cười khóc có ngờ chi không
(Bao giờ)
Thơ đã dị kỳ mà người còn dị thường/
dị hợm hơn. Tóc dài đạo sĩ, túi xách vai đeo, thêm vào cây gậy, Bùi
Giáng lê la góc hẻm phố thị, làng mạc ruộng đồng, đi qua đường trần ẩn
mật và để lại bao nhiêu nghi vấn nghi hoặc nghi ngờ. Bậc thức giả ngợi ca
ông như là bậc trích tiên, chiếc bóng của Trang- Lão; kẻ phàm phu bảo ông điên
ông cuồng, kẻ trưởng giả học làm sang chê ông bẩn thỉu không xứng chung bàn đối
ẩm, lại thêm nhà văn nọ còn cố gán ghép ông đồng sàng dị mộng với thời
cuộc, là nạn nhân của thời đại (3). Không, Bùi Giáng chỉ là kẻ tự lưu đày mình
trong cái hữu hạn trần gian cầu tìm lại bản thể của mình! Bi kịch, có chăng là Tấn
trò đời (4) muôn thuở của nhân thế với sinh lão bệnh tử và cả một đống núi
lo toan ngờ hoặc. Làm người đã khó, làm người thơ càng khó gấp vạn bội
phần. Bùi Giáng dị thường /dị hợm ở cái vẻ ngoài nhưng là thực sự phi thường trong
việc vượt thoát lên hai bờ sống chết, chẳng phí toan lo, là chim phỉ thuý
thơ thẩn bờ xanh, kẻ lang thang ham chơi đi qua “sa mạc phát tiết”*
mà thổ ra tinh hoa đất trời.
Một bàn chân, một lộ khe, một làn nuớc lạnh rồi đè
lên nhau mà vỡ ra những tưởng niềm với dị mộng, hoác mở cả âm
dương dịch biến mấy mùa.
Người con gái lội qua khe
Bàn chân với nước lạnh đè lên nhau
Nỗi niềm tưởng lại xưa sâu
Trên “con đường ngã ba”, ông tỉnh ông thức rồi
trút linh hồn oái ăm cho một ngẩn ngơ lá nằm.
Phải rằng nắng quáng dập dồn?
Hay là đèn trút linh hồn oái oăm?
Phải là nguyệt giữa đêm rằm?
Nguyên tiêu lãng đãng lá nằm ngẩn ngơ?
(Con đường ngã ba)
Rượu uống thơ tràn, hơi thở đục, mỏng xiêm y, Bùi
Giáng đã sống hết mình và cháy đến tận cùng buổi hạ nắng. Quỷ ma
đi đời, càn khôn tàn cuộc chén rượu túy lúy.
Thưa em rượu uống bây giờ
Là trăm năm gục hai bờ tử sinh
Ðộng hờ hững chúa điêu linh
Em làm Hoàng Hậu mọc tình cỏ phơi
Nhà ma cửa quỷ đi đời
Chìm hơi thở đục trong lời xuân xanh
Càn khôn xiêm mỏng che mành
Về trong thiên hạ em thành thiên thân.
(Rượu uống)
3- Thơ là người
Tôi thực sự muốn khóc khi gặp bài viết của Na Thị Chua
với cái trò chơi chữ nghĩa lem nhem, những cảm xúc rồng rắn ngụy tạo
lầy lụa xác thịt:
Cái L không biết đẻ mới chính cống L hư
Sinh ra để làm có nhiêu chuyện đó mà còn
không biết
Biết ăn thằng C phải biết ị ra thằng người
Ăn mà không ị là L bị trĩ
Gọi là L tắc tị
(Ca dao, tôi & tôi) (5)
Ôi chao, ở đây không phải L tắc tị mà là thơ …tắc
tị, người tắc …ị Bùi Giáng thì không cần biết hiện hay hậu đại, cũng bất kể
trường phái linh tinh với dăm ba lý thuyết biện & chứng. Thơ, đơn giản là
tâm tình, một thổ lộ rất người
Lời tỉnh táo lời mê man
Ðiệu thê thiết rống điệu bàng hoàng ca
(Y ư mộng du ư mê)
Bùi Giáng đã hoác ngộ ra, mình chẳng là gì cả,
chẳng qua một cái túi da rồi ngày mai nằm xuống chương phình để trào
lộng tuyệt cùng giữa bi đát, siêu thoát ngay giữa một tồn sinh tinh mật. Nhưng
dù thế nào thiên đường vẫn ở ngay trần thế nầy để ông phiêu lãng ta bà hí lộng
với đám trẻ con bụi phố, với chuồn chuồn châu chấu với Rừng Marylyn, Biển Brigitte
Bardot, với Kim Cương, Phùng Khánh và với thơ bay, thơ say.
Cá ở ngoài khe có ít nhiều
Cồn lau cỏ lách có hoang liêu
Em về có hỏi răng ri rứa
Nhắm mắt đưa chân có bận liều.
Đọc những cái tên miền đất trong thơ ông, vọng từ ký ức
quê nhà, reo vang những buớc chân xa :Mỹ Tho, Cần Thơ, Sài Gòn, Vạn Hạnh …mới
hiểu nhà thơ gắn bó thế nào với “đất- tâm hồn” .
Điện Bàn Đại Lộc Duy Xuyên
Xiết bao tình nghĩa thần tiên mộng đầu
Vĩnh trinh Lệ Trạch Thanh Châu
Thi Lai Hà Mật nhìn đâu dáng người
Người đầu tiên đã mỉm cười
Nhìn tôi tưởng thấy niềm vui vô cùng…
(Ký Ức)
Sống chân thực, yêu chân thực kiểu “răng ri rứa”, Bùi
Giáng chẳng thèm đeo mặt nạ đạo đức tồng ngồng, chẳng cần ngụy tạo
khăn đóng áo dài và bẩm báo dạ thưa. Ông sẵn sàng nói ngay
với ai đó khi đem cái đẹp nhúng vào bùn, đem lọ lem quệt bẩn mặt thi ca.
Hỡi những thi sĩ của hôm nay ( kiểu Na Thị Chua …), truớc khi đem thơ
rao bán, đánh liều đổi chác hãy lắng nghe Bùi Giáng than khóc cho Thúy Kiều “Thế
còn chi là hồng nhan em Thúy? Tha hồ mà đo đếm đuổi xô. Ðem bụi lầy bết vào
thân tiên tử, đem bùn-đen trát vào mình mẩy mềm mại của giai nhân, rồi la to: -
Con đĩ kia ơi! Mày hãy đưa tứ chi cho ông xiềng xích lại, rồi vào ngục tối mà nằm”. (Martin
Heidegger và Tư Tưởng, Hiện Ðại 1).
Người thơ đã đi rồi với cỏ lau nhưng thơ vẫn còn ở lại
giữa chúng sinh mặt người. Xin hãy nhìn lại, một lần, đời thơ đời người củatrung
niên thi sĩ họ Bùi, người lang thang trong cõi thi ca và tư tưởng
nhưng lúc nào cũng quay về cuộn mình “tròn trịa méo mó” để nằm trong vòng
nôi của ngôn ngữ dân tộc, vần lục bát ca dao đượm tình, thơm nhân tính …
(Nhân ngày giỗ lần thứ 11 của Bùi Tiên Sinh (ngày
17/8 Âm lịch)
2- Câu trả lời với Mai Thảo
về chuyện thơ
3- Mai Thảo, Viết văn trở
lại
Và ở Sài
Gòn vẫn còn Bùi Giáng
Tối tối về chùa đêm làm thơ
Ngày ca múa khóc cười giữa chợ
Kẻ sĩ điên thế kỷ mù rồi
4- Tác phẩm của Honoré
Balzac
5- Ca dao Tôi & tôi (Có jì dung jì có nấy dùng nấy)
Lê Vũ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét