“Cáo tật thị chúng” là một bài kệ nổi tiếng nhất của một thiền
sư đời Lý, thiền sư Mãn Giác. Sư xuất thân từ một gia đình hoàng tộc, cha
làm chức cao trong triều. Khi còn trẻ đã có tài cao học rộng nên được vào cung
thân cận với vua, sau này xuất gia sư trở thành bậc thầy của vua Lý Nhân Tông
và Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan.
Một ngày mùa đông, vào tháng 11 năm 1096, lúc ấy Sư được
44 tuổi, thấy trong người yếu mệt và lâm bịnh. Biết duyên trần đã dứt, Sư gọi
các đệ tử đến, nói một bài kệ rồi an nhiên thị tịch:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Xuân qua trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai
Từ trước tới nay, đã có bao nhiêu giấy mực viết về bài kệ
này, nhất là trong những ngày cuối năm, khi trời đất đang giao mùa để đón chào
một vòng vận hành mới. Viết thêm về bài thơ này có dư thừa không? Theo thiển ý, một bài thơ Thiền, một câu kệ hay câu kinh dù có nói đến ngàn lần
cũng vẫn là mới mẻ, vì mỗi người đều có những cảm nhận riêng biệt, có nhắc lại
cũng không trùng hợp- cũng như một cảnh đẹp có thể được nhìn qua nhiều
lăng kính khác nhau, dù có được ghi lại bằng hình ảnh hay tranh vẽ tới
bao nhiêu lần cũng vẫn đem đến một cái nhìn mới lạ cho người thưởng ngoạn.
Thơ thiền thường diễn tả thiên nhiên, nhưng tuy nói đến cảnh
mà thật ra là không phải tả cảnh bên ngoài, mà nói lên cảnh giới “Tâm Cảnh
Nhất Như” của sự thấy biết vô tâm vô sự, không có niệm khởi phân biệt, tâm cảnh hòa đồng với nhau, như Thiền Lão Thiền Sư đã nói trong câu thơ:
Thuý trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt hiện toàn chân
Trúc biếc hoa vàng chẳng cảnh ngoài
Trăng trong mây bạc hiện toàn chân
Xuân là nguồn cảm hứng vô tận. Bài “Cáo tật thị chúng”
tuy mang nhiều nét xuân nhưng lại là một bài kệ thị tịch, chứng tỏ thiền sư đã
đạt đến mức tự tại tuyệt đỉnh ngay cả trước cái chết. Thiền sư đứng bên bờ sinh
tử, phía sau là quá khứ mịt mù, phía trước là cõi không vô tận, hành
trang đem theo là gì, để lại là gì? Gói ghém trong vài câu thơ kệ vắn
tắt là tinh tuý của tri kiến một đời mà thiền sư muốn trao truyền lại cho kẻ hậu
học. Kẻ hậu học viết bài này chỉ mong cảm nhận được phần nào tâm ý của thiền
sư để rút tỉa từ đó những điều ích lợi ứng dụng vào cuộc sống thế gian này.
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Mùa xuân đến cây cối đâm chồi nẩy lộc, trăm hoa đều đua nở,
xuân qua rồi thì cành trơ trụi lá, trăm hoa cũng đều tàn rụng theo. Hoa không tự
đến tự đi được, mà chỉ khi xuân đến hoa mới kết nụ mãn khai được, và xuân
đi là hoa phải tàn úa. Đó là cảnh trí của thiên nhiên theo quy luật luân
hồi biến dịch, trùng trùng duyên khởi. Cuộc đời của con người cũng có
khác gì cảnh sắc xuân hạ thu đông, sinh ra, phát triển và trưởng thành rồi chết
đi theo quy luật “thành trụ hoại không” hay “sinh lão bệnh tử”. Tất cả đều
từ nhân duyên khởi và cũng tan hoại theo nhân duyên. Tất cả mọi việc đến
đi đều theo quy trình và thời điểm của nó. Nếu biết chấp nhận và sống tuỳ
thuận theo duyên thì mọi hoàn cảnh trước mắt đều xem như nước chẩy mây trôi,
không vướng mắc vào những thăng trầm mà chìm đắm trong vui mừng hay đau khổ. Tổ Đạt Ma đã nói như sau về Tuỳ Duyên Hạnh: “Tất cả những sự đau khổ
và vui sướng mà ta kinh nghiệm đều tùy thuộc vào nhân duyên. Nếu chúng ta
được một phước báu, như được hưởng sự vinh quang, phú quý, thì đó là quả của
nhân lành ta đã gieo từ trước. Khi duyên hết, mọi sự sẽ chấm dứt. Cần gì phải
vui mừng khi nó đến? “
Những gì đến rồi sẽ đi như một giòng nước chẩy qua không bao
giờ trở lại. Con người bị cuốn hút theo những hoàn cảnh trước mắt, quên
đi giòng thời gian vô tình trôi qua mang theo tất cả vào dĩ vãng nhanh như gió
thổi, để rồi một lúc chợt nhận ra tuổi già đã đến lúc nào.
Tuổi già là một trong những cái khổ căn bản của con người
trong tiến trình sinh lão bệnh tử. Tất cả đều mất mát, tàn hoại, để cuối
cùng không còn lại gì. Một con người sinh ra rồi lớn lên với bao nhiêu diễn biến
trong cuộc đời, bỗng chốc mọi sự đều xóa sạch, con người ấy cũng biến mất trên
thế gian này. Đối với phàm nhân như chúng ta, đây là cả một viễn tượng hãi hùng
không ai muốn nghĩ đến. Tuổi đời càng chồng chất, người ta càng bám víu
vào những gì đã qua, có khi chỉ còn muốn sống trong quá khứ của thời vàng son
xa xưa.
Còn thiền sư thì sao?
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Thiền sư sống giữa thế gian vẫn phải đối phó với những vấn đề
của một con người nhưng không vướng mắc vào đó. Những việc đến rồi
đi mãi sẽ không bao giờ trở lại, quá khứ không nắm bắt được, tương lai
cũng không thể biết được, chỉ có hiện tại là lúc để sống thực và làm những
gì có thể làm. “Trên đầu già đến rồi”, đó là điều tự nhiên như thời
tiết bốn mùa, như ngày đêm sáng tối, có gì phải sợ hãi, buồn phiền –
trong mọi lúc, thiền sư vẫn “sống bất biến trong giòng đời vạn biến”, bởi vì đã nhận ra được cái thường hằng ngay trong cái thường biến, đã thấy được
chân lý của đời sống để có được cái nhìn Như Thị đối với vạn pháp.
Nhưng đến một lúc nào đó, ngay cả tuổi già cũng chấm dứt, và
người ta đối diện với một viễn ảnh đáng sợ nhất, đó là cái chết của chính bản
thân mình. Con người chết đi có phải là mất hết tất cả không? Có gì còn lại
khi thân xác này đã trở về cát bụi, khi tâm trí này đã tan vào hư vô? Câu
hỏi đặt ra khẩn thiết nhất cho mỗi người, dù bất cứ ở giai đoạn nào của cuộc đời,
là “làm sao đối phó với sự sống chết của mình”? Đó cũng là cỗi rễ, là
nguyên nhân khiến Thái Tử Tất Đạt Đa xưa kia đã từ bỏ hết cung vàng điện ngọc,
vợ đẹp con ngoan để đi tìm một con đường giải thoát vượt ngoài sinh tử.
Thiền sư đã biết được bộ mặt thật của sinh tử nên khi thị tịch
rời bỏ báo thân cũng nhẹ nhàng và tự nhiên như chiếc lá rụng, như cánh
hoa rơi. Nhưng khác với cánh hoa tàn úa vô tình rơi trở về lòng đất, thiền
sư vượt ra ngoài cái hữu hạn của mọi duyên hợp giả tạm để trở về với cái vô hạn
của bản tánh bất sinh bất diệt.
Đêm qua sân trước một cành mai
Trong cảnh héo úa của xuân tàn hoa rụng, nổi bật lên hình ảnh
một cành mai tươi mát không nhuốm mầu thời gian, tượng trưng cho một cái gì vững
chãi, thường hằng và bất sinh bất diệt. Cái vô sinh diệt ấy ở đâu? Những
gì làm nên sắc thân ngày nay không phải ngẫu nhiên hay tự nhiên có được, mà do
những yếu tố, những nhân duyên từ quá khứ vô cùng vô tận hợp thành. Cái gì đã
hiện hữu trước khi con người ngày nay có mặt sẽ vẫn còn đó khi con người ấy mất
đi. Cái không hình không tướng, không sinh không diệt ấy được gọi là Bộ Mặt
Thực Nguyên Thủy, hay Bản Lai Diện Mục trong Thiền môn. Bản lai diện mục chỉ được
nhận ra nơi chính tự thân mình, không thể tìm ở đâu thấy được. Xưa kia, Tổ
Huệ Năng khi bị Tuệ Minh đuổi theo sát nút để dành lấy y bát, đã thức tỉnh Tuệ
Minh với câu nói như sau:
“Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là Bản Lai Diện Mục
của Thượng Tọa Minh?”
Cành mai của bản tính vô sinh vô diệt bao giờ cũng có sẵn
trên đất tâm từ nguyên thuỷ. Tâm thường được ví như đất, nơi gieo trồng đủ
mọi hạt giống thiện hay ác - nếu nuôi dưỡng hạt giống thiện sẽ trở thành thánh,
thành Phật, còn nuôi dưỡng hạt giống ác sẽ trở thành ma thành quỷ - vì thế,
sự đau khổ hay an lạc là do chính chúng ta tạo ra cho mình vậy. Như Tổ Bồ
Đề Đạt Ma đã nói trong Ngộ Tánh Luận: “Khi tam độc có trong tâm, đó gọi
là quốc độ (đất) ô uế bất tịnh. Khi tam độc không có trong tâm, đó gọi là quốc
độ thanh tịnh. Kinh nói: "Nếu quốc độ tràn ngập những ô uế bất tịnh thì
không thể có chư phật thế tôn xuất ra từ đó được." Ô uế bất tịnh đó là vô
minh và tam độc. Chư phật thế tôn đó là tâm giác ngộ thanh tịnh vậy.”
Sân trước tượng trưng cho tâm đối cảnh của con người – ngay
trong tâm đối cảnh đầy vọng động đó vẫn có tâm giác ngộ như một cành mai bất
sinh bất diệt hiện diện – vì thế, tìm Phật là ở ngay nơi tâm bình thường của
chúng ta chứ không phải ở đâu khác, như Tổ Đạt Ma đã nói: “Trực chỉ Nhân
Tâm, kiến tánh thành Phật”.
Nhưng cành mai đã ở đó từ đêm qua - tại sao là đêm qua? Đêm
qua là quá khứ, một quá khứ từ vô thủy, cho nên cũng kéo dài đến vô
chung. Từ quá khứ vô thủy, bóng tối dầy đặc của vô minh đã che khuất tâm
ta, nhưng tánh giác ngộ vẫn luôn ở đó, không bao giờ mất đi - tựa như núi
bị mây che khuất bao phủ, nhưng núi vẫn có ở đó, không mất đi.
Nói đến hoa mai ở đây, chữ “Mai” theo Hán tự không phải là loại
mai vàng thường nở vào dịp Tết ở miền Nam Việt Nam, mà thuộc về giống cây “mơ”
hay “mận” – hoa thường kết nụ trong những điều kiện khắc nghiệt của những ngày
cuối đông, nên ngay trong vẻ đẹp mong manh của hoa đã hàm chứa một sức sống
mạnh mẽ và kiên cố. Vì thế, tuy cành mai của bản chất bất sinh bất diệt
bao giờ cũng thường trú nơi chúng ta, nhưng bởi vì những vọng tưởng sâu dầy từ
muôn đời muôn kiếp đã che lấp nên nhận ra được bản chất ấy không phải là
điều tự nhiên dễ dàng, nếu không có một quá trình công phu điều ngự tâm thức.
Tổ Hoàng Bá nói trong câu thơ sau:
Bất thụ nhất phiên hàn triệt cốt
Chẩm đắc mai hoa phát tị hương
Nếu không một bận thấu sương lạnh
Sao được trước mũi ngát hương mai
Nếu không năng ra sân trước, làm sao thấy được mai nở cuối đông? Không thường
quán chiếu thân tâm, làm sao thấy được bản lai diện mục? Chỉ cần phát tâm
Bồ Đề kiên cố, quyết đi theo con đường giải thoát, một lúc nào đó
tuệ giác được khai mở, bừng ngộ bản tính vô sinh vô diệt nơi tự thân, là như
hoa mai kia hé nhụy, nụ sen kia tỏa ngát hương thơm, vạn pháp đều hiển lộ chân
lý rõ ràng trong ánh sáng thường chiếu của Tánh Giác như nắng ban mai. Đó
là sự bừng nở đóa hoa chân thường của tâm giác ngộ - khi nở ra sẽ mở một
con đường thoát ly khỏi mê hồn trận của những kiếp đời trầm luân trong nghiệp
báo vay trả. Và đột nhiên, chuyện sinh tử bỗng trở thành giấc mộng hôm
qua. Hoa nở thấy Phật, chẳng phải chúng ta vẫn thường nói đến điều đó
trong câu kinh tụng thường nhật này hay sao?
Ngọc Bảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét