Lược khảo nội dung bàn về
nhà nho Việt Nam đầu
Trong suốt 17 năm tồn tại
(1917 – 1934) với 210 số, Nam Phong tạp chí đã giành một dung
lượng không nhỏ để đăng tải các bài viết biên khảo, dịch thuật liên
quan tới Nho học nói chung và Nho học Việt Nam nói riêng, ở cả phần
chữ Hán (do Nguyễn Bá Trác chủ bút) và chữ Quốc ngữ (do Phạm Quỳnh
chủ bút). Ta có thể tạm phân chia nội dung Nho học trên Nam Phong
tạp chí thành sáu mảng:
1. Khảo luận về triết học tư tưởng Khổng Mạnh và Nho giáo (gồm các bài chuyên khảo của học giả Việt Nam và dịch thuật các bài viết của học giả người Pháp, Nhật và Trung Quốc).
2. Truyện ký về Khổng Tử và các danh Nho Trung Quốc, Việt Nam. 3. Khảo luận về vấn đề nhà Nho Việt Nam đầu thế kỷ XX.
4. Khảo về giáo dục Khoa cử Nho học.
5. Phiên dịch kinh điển Nho gia (gồm Luận ngữ (một phần), Mạnh tử (toàn văn)và Xuân thu Tả truyện (một phần), cùng các cách ngôn danh cú tuyển chọn từ thư tịch cổ).
6. Phiên dịch trước tác văn chương của các nhà Nho.
1. Khảo luận về triết học tư tưởng Khổng Mạnh và Nho giáo (gồm các bài chuyên khảo của học giả Việt Nam và dịch thuật các bài viết của học giả người Pháp, Nhật và Trung Quốc).
2. Truyện ký về Khổng Tử và các danh Nho Trung Quốc, Việt Nam. 3. Khảo luận về vấn đề nhà Nho Việt Nam đầu thế kỷ XX.
4. Khảo về giáo dục Khoa cử Nho học.
5. Phiên dịch kinh điển Nho gia (gồm Luận ngữ (một phần), Mạnh tử (toàn văn)và Xuân thu Tả truyện (một phần), cùng các cách ngôn danh cú tuyển chọn từ thư tịch cổ).
6. Phiên dịch trước tác văn chương của các nhà Nho.
Có thể thấy, Nam
Phong tạp chí là một bộ tư liệu quý trong số các công trình
nghiên cứu, biên khảo của Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX nghiên cứu
về Nho học, cần được chúng ta đặc biệt chú ý. Bởi lẽ các bài viết
của tạp chí này mang nhiều yếu tố mới mẻ trong việc phản tư, nhìn
nhận lại địa vị, vai trò, cùng sự ảnh hưởng của Nho học và nhà Nho
truyền thống đối với nền học thuật và xã hội Việt Nam hiện đại.
Trong bài viết này, chúng tôi hướng đến tìm hiểu một số bài viết
liên quan đến nhà Nho Việt Nam đầu thế kỷ XX, thuộc một trong sáu
mảng nội dung nói trên. Đây là vấn đề mang đậm tính thời sự, được
giới trí thức Nam Phong quan tâm bàn luận. Trong giai đoạn bản lề lịch
sử đầy biến động, trí thức Nam Phong đã tiến hành phân tích hiện
trạng của tầng lớp nhà Nho Việt Nam trong cuộc đại khủng hoảng, suy
cứu nguyên nhân thất bại, đồng thời họ đã tiến hành đánh giá lại
vai trò, vị thế của nhà Nho xưa nay, để nhằm đưa ra giải pháp vãn
hồi tình thế, tìm kiếm một lối thoát cho các nhà Nho khỏi cơn bĩ
cực. Do dung lượng có hạn, nên trong bài viết này, chúng tôi mới chỉ
tập trung tìm hiểu các bài viết trực tiếp bàn về vấn đề nhà Nho
Việt Nam đầu thế kỷ XX thuộc phần Quốc ngữ của Nam Phong tạp
chí, cụ thể gồm 5 bài viết:
1. Mấy lời trung cáo với các bạn nhà Nho, nguyên tác Hán văn của Nguyễn Bá Trác, Tú tài Nguyễn Đôn Phục dịch ra Quốc ngữ, số 51, tháng 9 năm 1921; 2. Học phong và sĩ khí của Phạm Quỳnh, số 79, tháng 1 năm 1924; Nhà Nho có lẽ chịu sầu của Trúc Hà, số 130, tháng 6 năm 1928; Nhà Nho của Phạm Quỳnh, số 172, tháng 5 năm 1932; Phái nhà Nho khoảng 30 năm nay đối với sự học cũ của Phạm Quỳnh, số 195, tháng 5 năm 1934. Hy vọng bài viết có thể đóng góp một tiếng nói nhỏ cho những ai cùng chung vấn đề quan tâm.
1. Mấy lời trung cáo với các bạn nhà Nho, nguyên tác Hán văn của Nguyễn Bá Trác, Tú tài Nguyễn Đôn Phục dịch ra Quốc ngữ, số 51, tháng 9 năm 1921; 2. Học phong và sĩ khí của Phạm Quỳnh, số 79, tháng 1 năm 1924; Nhà Nho có lẽ chịu sầu của Trúc Hà, số 130, tháng 6 năm 1928; Nhà Nho của Phạm Quỳnh, số 172, tháng 5 năm 1932; Phái nhà Nho khoảng 30 năm nay đối với sự học cũ của Phạm Quỳnh, số 195, tháng 5 năm 1934. Hy vọng bài viết có thể đóng góp một tiếng nói nhỏ cho những ai cùng chung vấn đề quan tâm.
1. Hiện trạng nhà Nho
Việt Nam trong buối giao thời đầu thế kỷ XX dưới ngòi bút của Nam
Phong tạp chí
Chúng ta biết, năm 1915 (Duy Tân 9) và năm 1918 (Khải Định 3), Bắc kỳ và
Trung kỳ lần lượt diễn ra hai khoa thi Hương cuối cùng. Và đến năm 1919,
(Khải Định 4), triều đình tổ chức khoa thi Hội cuối cùng trong lịch sử Việt
Nam, và cũng là kỳ thi cuối cùng trong lịch sử khoa cử hơn 800 năm của Việt
Nam. Sự kiện chấm dứt khoa cử này được ban hành theo chỉ dụ của vua Khải Định
vào ngày 4/11/1918. Khoa cử chấm dứt cũng đồng thời đánh dấu sự suy tàn
và chấm hết của ý thức hệ Nho giáo tồn tại ở Việt Nam hơn 1000 năm. Sự
cáo chung của Nho giáo truyền thống, cùng sự du nhập văn minh Tây
phương vào Việt Nam trong buổi “giáp hạt” [2] đầu thế kỷ XX,
đã khiến học giới nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm
trọng. Cựu học đang trong giai đoạn suy tàn, phải hứng chịu những búa
rìu phê phán hết sức nặng nề từ phái Tân học. Trong quan niệm của
Tân học, Cựu học chỉ là “thứ giây ác nghiệp để buộc trói
thiên hạ trong vòng chuyên chế” [3], hay chỉ là
một thứ học thuyết “hủ lậu”, đáng bị phỉ báng. Trong đám Tân học
ấy, có những kẻ thậm chí “vừa nhào được trong cái hình thức
tân học thì đã quay đầu thóa mạ cựu học”. Còn Hán văn thì bị coi
là “cái văn tự vô dụng”. Trong bối cảnh đó, số phận của
phần lớn tầng lớp nhà Nho – vốn là những “giáo sĩ truyền đạo
Khổng Mạnh”, là một “giai cấp trong xã hội, tức là hạng
thượng lưu trí thức trong nước”, vốn giữ một chức vụ cao quý
làm “hướng đạo cho quốc dân, làm tiêu biểu cho cả nước” trong
xã hội Việt Nam, phải gánh một số phận nghiệt ngã, bế tắc, đứng
trước bờ vực diệt vong. Thậm chí, nhà Nho đã phải chịu mang tiếng “làm
mất nước” như có người từng kết án. Mở đầu bài viết Mấy
lời trung cáo với các bạn nhà Nho[4], Nguyễn Bá
Trác đã ngậm ngùi than cho tình cảnh của lớp nhà Nho Việt Nam trong
buổi cáo chung của Nho giáo Việt Nam đầu thế kỷ XX rằng: “Than
ôi, bạn nhà Nho ta bấy lâu dùi mài kinh sử, chất bằng kim thạch, con
nhà thánh hiền có đâu đến nỗi lông bông hư hỏng bao giờ; chẳng may
gặp phải thời buổi gạn lọc, cái đời ao nghiên ruộng sách của anh
đồ, đã là cái đời gác đi, chẳng những cái địa vị ăn sung mặc sướng
trên xã hội chẳng đến mình, thậm chí cái đường tìm vành ấm no,
cũng vì buôn trái nghề bán trái nghiệp, thợ chẳng hay, cầy chẳng
biết, dở dở dang dang mà phải chịu thu tay bó gối, ngày nay trông
thấy đã nhiều”. Và ông nhận định rằng: “Cứ cái tình thế hiện
nay xem ra thì phàm những phái nhà Nho, và những phái không phải nhà
Nho chăng nữa, trông thấy cơ mần thất bại ấy, ai chẳng bảo là cái
hồi ách vận, cái cuộc bi quan của phái nhà Nho, nhà Nho vì thế mà
tủi phận hờn duyên, mà người ngoài cũng vì thế mà thương vay khóc
mướn”.[5] Ông thấy các nhà Nho hiện thời: “Bao nhiêu học
vấn, bao nhiêu kiến thức thủa bình sinh của nhà Nho, tự khi khoa cửa
đã bỏ đi rồi, phàm những người có tâm với Hán học thì chẳng qua
chỉ thở ngắn than dài, viết ra bài phú thương thời, hát lên câu thơ
cảm sự đó thôi; nếu chẳng thế, thì lại cho đời mình là cái đời bỏ
đi có làm chi nữa, thà rằng ngao du tiêu khiển, thôi dũng đành dứt
tình với đời Hán học rủ nhau cùng về đến cõi hư không đấy thôi; lục
kinh còn hay mất, chẳng hỏi chi nữa; đạo đức hay hay dở, chẳng kể chi
nữa”.[6]
Còn Phạm Quỳnh nhận xét: “Nhà Nho có lẽ đến nay là cùng vận. Con nhà Nho bây giờ là cái vật trái mùa, còn ai là người quý chuộng. Dẫu còn thoi thóp dăm ba kẻ, cũng tự mình không tin mình rồi, còn mong gì kẻ khác trọng nữa”.[7] Nguyễn Bá Trác thì cho rằng phái Hán học “ngày nay đã thuộc về thời kỳ trở về già sắp sửa hết duyên, lại còn cắm sào đợi ai nữa?”, và hiện giờ quang cảnh của phái đó chỉ là “ một sợi tơ mành vắt ngang trời đất”, hay là “một sợi tóc rong với quả chì”[8] mà thôi. Còn Nguyễn Đôn Phục đã tổng kết thân phận của nhà Nho Việt Nam trong khoảng 30 năm đầu thế kỷ rẳng họ phải “trải đủ mọi đường vinh nhục thăng trầm”, và ông đoán biết rằng “phái nhà Nho tự nay trở đi, như ông sao lúc gần sáng, chắc là ít dần đi”. Trong con mắt của thanh niên đương thời, nhà Nho được Nam Phong tạp chí miêu tả như sau: “Kể về tư cách thì là một bọn hủ Nho sốc nổi, kể về tài tình thì chỉ biết chiều lụy người trên, hách dịch kẻ dưới, mà nói về học thức thì có gì đâu, ngày như đêm, đêm như ngày, gào chữ như quốc, dùi sách như mọt, để mưu lấy cái chức vị trong triều đình, và khi đã đạt đến cái mục đích ấy rồi, thế là toại chí thỏa lòng, không còn hoài vọng gì cao xa hơn nữa.”[9] Người đương thời tân tiến khinh rẻ nhà Nho như vậy, còn bản thân nhà Nho trong cái “hồi ách vận, cái buổi bi quan” ấy cũng mang nặng một tâm lý bất đắc chí, “tự rẻ rúng mình” mà “tủi phận hờn duyên”, đành ngao ngán cam chịu một bề “thu tay bó gối”. Trước sự thoái trào của Cựu học, Nguyễn Đôn Phục thừa nhận đó là xu thế tất yếu của thời đại: “Đối với con đường cũ, đã thuộc về cái thời thế nó áp bách, chẳng phải đợi ai phá hoại mà đã có thế tiêu hao”.[10] Tuy nhiên, theo Phạm Quỳnh, ngoài vấn đề thời thế, nguyên nhân“bày ra cái cảnh tượng điêu tàn như bây giờ”, cũng thuộc về trách nhiệm của nhà Nho: “Tựu trung bởi thời thế không lợi cũng có mà bởi nhà Nho tự khinh phần nhiều vậy”. Ca dao xưa có câu: “Chẳng ham ruộng cả ao liền, ham về cái bút cái nghiên anh đồ”, hay “Chẳng ham vựa lúa anh đầy, ham ba hàng chữ cho tầy thế gian”, thì tới nay, chúng ta thấy, cái thủa vàng son “ao nghiên, ruộng sách” của “anh đồ” Việt Nam đang lùi xa dần vào quá khứ.
Còn Phạm Quỳnh nhận xét: “Nhà Nho có lẽ đến nay là cùng vận. Con nhà Nho bây giờ là cái vật trái mùa, còn ai là người quý chuộng. Dẫu còn thoi thóp dăm ba kẻ, cũng tự mình không tin mình rồi, còn mong gì kẻ khác trọng nữa”.[7] Nguyễn Bá Trác thì cho rằng phái Hán học “ngày nay đã thuộc về thời kỳ trở về già sắp sửa hết duyên, lại còn cắm sào đợi ai nữa?”, và hiện giờ quang cảnh của phái đó chỉ là “ một sợi tơ mành vắt ngang trời đất”, hay là “một sợi tóc rong với quả chì”[8] mà thôi. Còn Nguyễn Đôn Phục đã tổng kết thân phận của nhà Nho Việt Nam trong khoảng 30 năm đầu thế kỷ rẳng họ phải “trải đủ mọi đường vinh nhục thăng trầm”, và ông đoán biết rằng “phái nhà Nho tự nay trở đi, như ông sao lúc gần sáng, chắc là ít dần đi”. Trong con mắt của thanh niên đương thời, nhà Nho được Nam Phong tạp chí miêu tả như sau: “Kể về tư cách thì là một bọn hủ Nho sốc nổi, kể về tài tình thì chỉ biết chiều lụy người trên, hách dịch kẻ dưới, mà nói về học thức thì có gì đâu, ngày như đêm, đêm như ngày, gào chữ như quốc, dùi sách như mọt, để mưu lấy cái chức vị trong triều đình, và khi đã đạt đến cái mục đích ấy rồi, thế là toại chí thỏa lòng, không còn hoài vọng gì cao xa hơn nữa.”[9] Người đương thời tân tiến khinh rẻ nhà Nho như vậy, còn bản thân nhà Nho trong cái “hồi ách vận, cái buổi bi quan” ấy cũng mang nặng một tâm lý bất đắc chí, “tự rẻ rúng mình” mà “tủi phận hờn duyên”, đành ngao ngán cam chịu một bề “thu tay bó gối”. Trước sự thoái trào của Cựu học, Nguyễn Đôn Phục thừa nhận đó là xu thế tất yếu của thời đại: “Đối với con đường cũ, đã thuộc về cái thời thế nó áp bách, chẳng phải đợi ai phá hoại mà đã có thế tiêu hao”.[10] Tuy nhiên, theo Phạm Quỳnh, ngoài vấn đề thời thế, nguyên nhân“bày ra cái cảnh tượng điêu tàn như bây giờ”, cũng thuộc về trách nhiệm của nhà Nho: “Tựu trung bởi thời thế không lợi cũng có mà bởi nhà Nho tự khinh phần nhiều vậy”. Ca dao xưa có câu: “Chẳng ham ruộng cả ao liền, ham về cái bút cái nghiên anh đồ”, hay “Chẳng ham vựa lúa anh đầy, ham ba hàng chữ cho tầy thế gian”, thì tới nay, chúng ta thấy, cái thủa vàng son “ao nghiên, ruộng sách” của “anh đồ” Việt Nam đang lùi xa dần vào quá khứ.
Trước bối cảnh đó, thế
hệ nhà Nho “thất thế” của Việt Nam đầu thế kỷ XX, đang từng bước
phân hóa, chuyển đổi thành những thành phần khác nhau. Sự phân
loại, mô tả, bình giá tầng lớp nhà Nho thời kỳ này trên Nam
Phong tạp chí, có thể giúp ta biết hơn về hiện trạng của nhà
Nho, cũng như thái độ của giới trí thức cấp tiến đối với nhà Nho
Việt Nam trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt quan trọng.
Thứ nhất, trong bài Nhà
Nho có lẽ chịu sầu?, Trúc Hà đã phân chia lớp nhà Nho đang tách
thành “ba bè bảy đảng”thành hai nhóm chính sau: “Ngày nay đã
chia ra ba bè bảy đảng, có đảng chứa chan những hy vọng cao xa, đương
hăng hái trên con đường tân học” và “có đảng còn đang yên vị
trong nho trường mà than dài, mà thở vắn”.Đối với lớp trước thì ông
khen ngợi “có cái tâm chí cao thượng ấy, thật đáng kính phục
thay”. Còn đối với lớp sau, ông bày tỏ “nghĩ cũng ái ngại
xót xa thay”.[11]
Thứ hai, trong bài Phái
nhà Nho khoảng ba mươi năm nay đối với sự học cũ, Nguyễn Đôn Phục
đã tiến hành tổng kết và phân chia nhà Nho thành 3 phái: phái duy
tân, phái lười biếng, bạc nhược và phái a dua. Đồng thời, tác giả
đã tiến hành phân tích, bình luận về ba phái nhà Nho này:
1. Phái
duy tân: “Phái này thì nhờ về cái tinh hoa của Khổng giáo, biết
đạo minh đức, biết nghĩa tùy thời. Kịp khi gặp có phong trào duy tân
của Trung Quốc, tỉnh ngộ ra rằng lối khoa cử là hủ bại, không đủ
ứng tiếp với thời đại đua chen, cực lực hô hào công kích lối cũ,
hoan nghênh lối mới, để làm tai làm mắt, hướng đạo cho quốc dân. Cuốn
sách họ Khang họ Lương chẳng khác gì cuốn kinh nhật tụng, hai chữ duy
tân chẳng khác gì hai chữ thần thánh”. Ông ca ngợi phái này “thực
cũng có can đảm đứng giữa trần ai, không bị sóng gió của thời thế
cuốn đi, mà dám tự tin rằng mười lăm năm về trước hễ người nào nói
được chữ duy tân là thánh nhân chi đồ; mười lăm năm về sau hễ người
nào nói được chữ thủ cựu là thánh nhân chi đồ vậy”. Tuy nhiên,
nhược điểm của phái duy tân này là bởi sự cực đoan: “Nhất thiết
lối học cũ đều cho là hủ bại hay là nhi hí. Thậm chí có danh từ
là thủ cựu quỉ để chê những kẻ nhà Nho không biết duy tân. Trong khi
hô hào đó không khỏi có lời thiên lệch quá đáng, nhưng lạ gì uốn
cong thì phải quá thẳng, cũng không trách gì những kẻ nhà Nho bấy
giờ”. Và cái kết quả duy tân mà phái nhà Nho này nhận được có
lẽ trái với mong muốn của họ: “Trong khi khuynh hướng về đường
tân đó, tiếp thụ được cái tinh thần thì phần ít, cúi nhặt được cái
vỏ cặn thì phần nhiều, những trò nực cười của xã hội, mới hằng
ngày diễn ra, khiến cho chữ tân cũng ít có giá trị gì nữa. Trước
kia vẫn tưởng phái thủ cựu là hủ bại, ngờ đâu ngày nay phái duy tân
hủ bại hoặc lại có phần hơn”.Song tác giả cũng khẳng định: “Đó là
cái thông tệ của thời đại cải cách mới cũ giao nhau”. Đồng
thời, ông nói:“Phái nhà Nho ấy biết rằng cái thời đại tự khoảng hai
mươi năm nay là đã thuộc về thời đại nghiên cứu, thời đại lo toan,
thời đại vãn hồi, thời đại kiến thiết, không phải là thời đại hô
hào, thời đại phá hoại như hai mươi năm về trước nữa”. Vì tình
thế thời cục đã thay đổi, phái nhà Nho duy tân “nên chi phải châm
chước tình thế mà thay đổi phương châm. Đối với phương diện mới thì
phải để lòng suy xét, đối với tinh túy cũ thì phải hết sức bảo
tồn, một bước không dám tiến liều, một lời không dám cẩu thả. Ngày
trước nói duy tân, ngày nay nói thủ cựu, trước sau là một người mà
chủ nghĩa không trái ngược nhau gì cả; vì như thế mới là chủ nghĩa
cứu thời cứu thế, mới là con người không phụ quốc dân”. Đó là
lời khuyên nhủ tâm huyết của Nguyễn Đôn Phục giành cho phái các nhà
Nho duy tân thứ nhất.
2. Phái
lười biếng, bạc nhược: Phái này “Tuy là danh hiệu nhà Nho, nhưng
kỳ thực cũng không phải là chí khí nhà Nho. Cái thân phận các ông
ấy chỉ theo phong trào của thời đại mà lên xuống. Thời đại dùng chữ
Nho thì các ông ấy túa lên như mây, thời đại không dùng chữ Nho thì
các ông ấy cái tinh thần chết hẳn. Hoặc là đủng đỉnh trong ngõ cúc
tùng, hoặc là tiêu dao trong làng túy hương, hoặc là nằm co trong miền
sơn dã, hoặc là khốn quẫn về đường y thực, như đại khái là cầm cái
nghĩa yếm thế, tỏ ra bi quan; về đường đạo đức thì cũng nửa thanh
nửa trọc; về đường học thuật văn chương thì dường như pháo tịt ngòi.
Thậm chí hoặc có ông cho mình là lầm, học sách thánh hiền là hớ,
theo đòi chữ Nho là vô ích, há chẳng nực cười thay!”. Đối với
phái này tác giả tỏ ý chê bai đã rõ.
3. Phái
a dua: “Phái ấy chỉ biết theo đời mà không biết vãn cứu cho đời.
Phái ấy thường có cái kỹ dạng nghênh hợp phong trào, và cái tâm lý
sách ẩn hành quái. Nên chi ở thời đại nào cũng cũng mở mang miệng
lưỡi, vẽ vời văn chương, khác với phái nhà Nho lười biếng”. Phái
này trong buổi đầu“đương lúc dân trí còn chửa khai, vạn sự còn ê
trệ, phái ấy hô hào duy tân, công kích thủ cựu, ai bảo rằng không
phải.” Tuy nhiên, “kịp khi cái cảnh tượng trong thời gian nó
đã biến đổi, gián cách kể đã ba mươi năm, tình trạng trong xã hội
ngày nay không phải như tình trạng ngày trước nữa. hai chữ duy tân đã
thành hủ sáo”, thì phái này chỉ biết “hô hào với cổ động
suông”, còn đối với “phần văn hóa của Đông phương, học thuyết
của tiền triết, gốc nhà gốc nước, quốc hồn quốc túy của quốc dân,
phái ấy có từng để ý bảo tồn vãn cứu cho quốc dân nhờ đấy không?
Hay là chỉ khư khư giữ lấy cái thuyết tòng tân xả cựu là cái thuyết
trần hủ ngoại 20 năm về trước?”. Và cái tội của phái này được
quy kết là “a dua thời thế”, không biết tìm cách “giàng
buộc tiếp nối cái dây cựu học sắp đứt”mà lại còn “toan cầm dao
cắt đứt đi”, không có cái nghĩa “cứu thế, giúp dân” nữa.
Có thể thấy, tác giả đã kịch liệt phê phán, công kích, vạch trần
bản chất hủ bại của phái nhà Nho a dua này.
Thứ ba, trong bài viết Nhà
Nho, Phạm Quỳnh đã mô tả hiện trạng và phân lớp nhà Nho Việt Nam
từ khi thời thế thay đổi như sau: “Nay nhà Nho ta, từ khi thấy
thời thế thay đổi, tự xét mình không đắc dụng với đời nữa, sinh ra
chán nản, trước sau chỉ biết giữ một cái thái độ tiêu cực. Thảng
hoặc cũng có kẻ hăng hái, không muốn cam tâm chịu tiêu cực nữa, thì
lớp trước kia hô hào cải cách, rủ nhau xuất dương rồi mà sở chí sở
sự không thành, kết cục đến kẻ bôn ba nơi hải ngoại, người ủ dột
chốn lao lung, còn ai sống sót thì cũng là đem cái thân tàn mà ngậm
ngùi với nước non bạc bẽo, nghĩ càng thêm cảm lại thêm thương; lớp
sau này thời có kẻ hiểu lầm cái nghĩa tùy thời, cũng a dua theo đời
mà học đòi những cách cầu danh trục lợi, không xứng đáng với cái
bản sắc nhà Nho, hay cao hơn một tầng thời làm ra mặt làm ra mặt duy
tân, nói năng nghị luận, nhất thiết trái hẳn với tôn chỉ nhà Nho,
không sợ chủ trương xướng suất những tư tưởng học thuyết cực đoan của
Âu tây, mà có lẽ tự mình cũng chưa hiểu hết tinh lý”. Trong phần
bình luận này, Phạm Quỳnh đã chia nhà Nho thành hai lớp. Trong đó,
lớp thứ nhất là phái nhà Nho duy tân, lớp thứ hai là phái nhà Nho a
dua, một phần tương ứng với cách phân loại của Nguyễn Đôn Phục ở
trên. Không chỉ dừng ở đó, phần sau của bài viết, Phạm Quỳnh đã
giành dung lượng lớn để bàn về hai khái niệmđạo Nho tiểu thừa/hạ
thừa và đạo Nho đại thừa/thượng thừa mà ông đưa ra. Và
đi kèm với đó là hai phái nhà Nho tiểu thừa và nhà Nho
đại thừa. Nhà Nho tiểu thừa/ hạ thừa tức là các thầy đồ quê,
còn nhà Nho đại thừa/thượng thừa tức là “nhà Nho khoát
đạt, nhà Nho quán thông, nhà nhà Nho bác nhã, nhà Nho cao thượng, nhà
Nho đã qua bậc “tiểu thừa” đạt tới bậc “đại thừa”. Phạm Quỳnh
còn phân tích khá kỹ về hai loại nhà Nho này. Trong xã hội cũ,nhà
Nho tiểu thừa có vai trò duy trì xã hội, bảo tồn danh giáo,
phong hóa. Còn nhà Nho đại thừa có vai trò xướng suất, hưng
khởi cái “vận mệnh tinh thần” của quốc dân. Tuy nhiên, một trong
những nguyên nhân dấn đến sự yếu kém của học giới Việt Nam đương
thời, chính là “trong khoảng nửa thế kỷ nay, nhà nho thượng thừa
đã hầu như vắng tăm tích trong non sông nước Việt này”. Vấn đề
này, chúng tôi sẽ trở lại ở phần sau.
Qua một số miêu tả và
nhận xét của Nam Phong tạp chí, chúng ta có thể nắm bắt được
những nét khái quát, đặc tả về hiện trạng của nhà Nho Việt Nam đầu
thế kỷ XX trong sự khủng hoảng của học giới và xã hội. Khi đó, sự
tồn vong của nhà Nho và cựu học là một vấn đề thời sự nóng, được
giới trí thức cả Tân lẫn Cựu quan tâm bàn thảo.Nam Phong tạp
chí bấy giờ là một diễn đàn lớn, giới trí thức có thể bày
tỏ quan điểm và giải pháp của mình trước vấn đề trên. Khi đọc những
bài viết liên quan trên tạp chí này, chúng ta có thể thấy trí thức
Nam Phong đã rất băn khoăn khi đặt ra câu hỏi: Con đường nào là lối
thoát cho các nhà Nho khỏi nguy cơ diệt vong? Làm sao để có thể vãn
hồi cựu học, chấn hưng học giới? Và từ đó, họ đã có nhiều nỗ lực
quan tâm tìm kiếm phương án để giải quyết những vấn đề này, trên cơ
sở phản tư, bình giá vai trò, ảnh hưởng của nhà Nho và Nho học xưa
nay trong xã hội Việt Nam và phân tích bối cảnh, xu thế của thời
đại.
2. Đề xướng cách tân Nho
học: Sứ mệnh của nhà Nho trong thời đại mới
Trước khi đi vào vấn đề
chính của phần này, chúng ta hãy cùng tìm hiểu đôi nét về bối cảnh
của học giới Việt Nam trong cuộc khủng hoảng đầu thế kỷ XX qua lời
mô tả trong một số bài viết trên Nam Phong tạp chí. Trong bài
viết Phái nhà Nho khoảng 30 năm nay đối với sự học cũ, đăng trên
Nam Phong số 195, tháng 5 năm 1934, Nguyễn Đôn Phục đã có lời tổng kết
quá trình giao thoa Tân – Cựu tại Việt Nam trong khoảng gần 30 năm đầu
thế kỷ [12] như sau: “...Phàm sự đã canh tân, cái phong trào tân
đã bành trướng, người tân thói tân, gạt đi cũng chẳng hết, ngăn đi
cũng chẳng xiết. Trong khi khuynh hướng về đường tân đó, tiếp thụ
được cái tinh thần thì phần ít, cúi nhặt được cái vỏ cặn thì phần
nhiều, những trò nực cười của xã hội, mới hằng ngày diễn ra, khiến
cho chữ tân cũng ít có giá trị gì nữa. Trước kia vẫn tưởng phái
thủ cựu là hủ bại, ngờ đâu ngày nay phái duy tân hủ bại hoặc lại
có phần hơn. Đó là cái thông tệ của thời đại cải cách mới cũ giao
nhau”. Trong bối cảnh đó, Phạm Quỳnh trong bài viết Học phong
và sĩ khí, đã thẳng thắn chỉ ra mối tệ của nền học vấn đương
thời: “Từ khi bị cuốn vào trong phong trào mới, thời những cái
tệ cũ đã quét sạch làu làu, nhưng những cái hay xưa cũng biến mất
đi cả. Nước ta trong khoảng ba bốn mươi năm nay đã bày ra một cái tân
cục diện. Nghĩ rằng học chế đã cải lương theo phép văn minh thời học
phong tất phải hưng thịnh và sĩ khí tất phải phấn phát hơn xưa mới
phải. Ai ngờ cái kết quả lại trái lại, là bởi cớ làm sao?.... Cái
tinh thần cũ của nước nhà đã bỏ mất, mà cái tinh túy mới của thế
giới cũng chưa thâu thái được, sự học chỉ quanh quẩn trong vòng sinh
nhai, không vượt được khỏi cái trình độ duy lợi thiển cận”[13] Tiếp
đó, Phạm Quỳnh còn mượn việc “lên núi đăng lâm” để so sánh sự học
của tiền nhân và hậu nhân nhằm phê phán mạnh mẽ học giới đương thời
đã quá chú trọng việc “xả cựu tòng tân”, bỏ quên cái tinh túy
truyền thống của dân tộc, để rồi sau mấy chục năm, những kết quả
nhận được không hay ho chi mấy: “Tiền nhân ngày xưa đã gia công
gắng sức tới được một ngọn kia, tuy chưa phải là cao phong tuấn lĩnh
gì, nhưng đứng đấy cũng đủ thu quát được một mảnh giang sơn của cố
quốc. Nay ta chê núi nhà là thấp, ta muốn trèo núi khác cao hơn, mà
trong khoảng mấy chục năm nay, vẫn còn lẹt đẹt dưới chân núi. Không
những lẹt đẹt dưới chân mà tựa hồ như trong lòng đã nguội lạnh cả
rồi, không còn có cái chí đăng cao viễn diểu như cổ nhân nữa, gặp
được đám cỏ núi, bông hoa rừng, đã lấy làm thơm tho, mãn nguyện
rồi.”[14] Và cuối cùng Phạm Quỳnh đã phê phán gay
gắt tình hình học giới đương thời bằng những lời sau: “Nhận cho
kỹ được một đám cựu học chán đời, một đám tân học lấc cấc, một
đám không cựu không tân, không nho không tây, dở dang lơ lửng, bấy nhiêu
đám rời rạc nhau, cách biệt nhau, không có chủ nghĩa, không có thống
hệ, không có kỷ cương gì cả. Cõi học thật không có cái vẻ hoạt
động sầm uất một chút nào. Sánh với các nước văn minh kém đã đành,
sánh với nước mình ngày xưa cũng không bằng nữa”.[15]
Còn Nguyễn Đôn Phục thì nói: “Ấy về phần quốc hồn quốc túy của quốc dân đã như sắp sửa dứt rồi đấy, mà con đường văn minh lạc lợi thì còn mộng ảo ở tận đâu đâu”.[16] Và ông chỉ ra nguyên nhân dẫn tới sự khủng hoảng trên là “vì trước kia cho lối cũ là hủ bại mà hết sức công kích đi để trau dồi lối mới cho quốc dân. Kịp quốc dân khi khi đã hấp thụ được lối mới thì lại mới quá, so với lối cũ thì hủ bại lại có phần hơn”.[17] Có thể thấy, trí thức Nam Phong cùng có chung một nhận định về nguyên nhân dẫn đến sự suy đồi, khủng hoảng của học giới Việt Nam đương thời, là bởi sự “xả cựu tòng tân” một cách thái quá. Trong khi cái cũ đã bị thẳng tay vứt bỏ, thì cái mới vẫn chưa được gây thành, tạo nên tình trạng của một học giới nửa tây nửa ta, “dở dang lơ lửng”, chưa được định hình. Kết quả nhận được này, trái với mục đích canh tân ban đầu, thậm chí, nó còn sút kém hơn so với học vấn truyền thống trước đây. Và trong bối cảnh đó, hiện trạng của nhà Nho Việt Nam bấy giờ có thể nói rất bế tắc, nguy ngập như phần trên ta đã thấy. Cựu học đã chấm dứt cùng chế độ giáo dục khoa cử truyền thống kéo dài gần một nghìn năm. Nhà Nho không còn con đường tiến thân, mất đi địa vị chính thống trong xã hội, đối mặt với nguy cơ tiêu diệt. Các trí thức Nam Phong đã phải ngậm ngùi khi đặt ra câu hỏi rằng: “Tình thế đã đến thế, còn có thể mong vãn hồi được nữa không?”,hay“Nhà Nho có quả là bị cái số đào thải tất nhiên không? Có thật là đã đến ngày sắp tiêu diệt không?” Vì vậy, để vãn hồi tình thế, tìm kiếm một lối thoát cho nhà Nho, trí thức Nam Phong đã chủ trương phải tiến hành một cuộc cách tân Nho học, xây dựng một nền học thuật mới bắt kịp thời đại theo gương Nhật Bản và Trung Quốc. Và trong cuộc cách tân này, nhà Nho – lực lượng chủ đạo, có một sứ mệnh vô cùng quan trọng. Điều này có hai nguyên nhân: Thứ nhất, nhà Nho vốn là một giai tầng trí thức có địa vị và ảnh hưởng sâu sắc trong xã hội Nho giáo truyền thống của Việt Nam từ trước đến nay. Nhà Nho là hạng “thượng lưu trí thức”, là bậc “thức giả xã hội” trong nước, có một chức vụ cao quý là “hướng đạo cho quốc dân”, làm “tiêu biểu cho cả nước”, cả về đường xã hội, đường chính trị, đường trí thức tinh thần, như lời Phạm Quỳnh nói. Ông còn ví “nhà Nho là một hạng thầy tu” của Khổng giáo. Song “hạng thầy tu” này khác với thầy tu của các đạo khác vì “vừa kiêm cả phần đời và phần đạo, đem đạo vị mà đằm thắm cho cuộc đời; còn thầy tu của các đạo khác, thời bỏ đời mà theo đạo, và thường cũng chỉ thiên về cái phần hình thức của đạo, là phần lễ bái mà thôi”. Nhà Nho đối với giới bình dân thì “khác nào như một lần một lót với nhau, tiên phong hậu thuẫn cho nhau, trên dưới tiếp ứng, không hề có cách trở nhau bao giờ”. Theo Phạm Quỳnh, nhà Nho đã có công lớn đối với việc duy trì, xây dựng quốc gia:“Bấy lâu vẫn làm khuôn mẫu cho quốc dân, bấy lâu vẫn duy trì cho xã hội, khiến cho nước Nam kinh qua bao nhiêu sự ngoại xâm cùng nội loạn, từng trải biết mấy lần nước đổ với nhà tan, mà vẫn sinh tồn được mãi mãi... Đã hay rằng cái công đề tạo duy trì cho quốc gia là công chung của tiên dân ta, nhưng nhà Nho là cái phần có ý thức trong quốc dân, công ấy cũng được một phần to vậy”. [18]; Thứ hai, điều này có quan hệ mật thiết đến sự tồn vong của chính nhà Nho. Nho học muốn thoát khỏi sự diệt vong, không còn cách nào khác là bản thân nó phải được cách tân hợp với thời đại. Việc cách tân Nho học đúng cách và hợp thời sẽ mở ra lối thoát cho các nhà Nho Việt Nam khỏi những bế tắc, không chỉ trong cuộc khủng hoảng này, mà sâu xa hơn là thoát ra khỏi những lưu tệ mang tính cố hữu của nhà Nho truyền thống, lột xác để vươn tới tương lai mới. Nhà Nho nếu muốn không bị đào thải, thì trong cuộc cách tân Nho học ấy, “chỉ có cái hình thức của nhà Nho là cần phải thay đổi,mà cái tinh thần nhà Nho cần phải bảo tồn lấy, vì tinh thần ấy còn thiết yếu cho sự sinh tồn của dân tộc ta” – Phạm Quỳnh nhấn mạnh. Công cuộc cách tân này được coi là “một sự nghiệp lớn lao”,song chỉ còn “chờ đợi những người sốt sắng”, đó chính là các nhà Nho. Vì vậy, trí thức Nam Phong ra sức hô hào, thức tỉnh các nhà Nho phải gạt bỏ ưu sầu, phiền muộn, nhận chân giá trị của mình, chấn hưng Nho học, bước lên vũ đài để giành lấy một chỗ đứng trong xã hội cho mình. Như Nguyễn Bá Trác đã tỏ lời tha thiết kêu gọi nhà Nho rằng: “Kể từ khi ông lão thành tiến sĩ, cô thiếu nữ tú tài, đã cải đai lau phấn đi rồi, ở trên học vụ diễn đài, nhất loạt thay vai đổi cảnh. Bọn nhà Nho ta nếu chưa có thể bước lên cho mau, chen vào cho khỏe, súy lấy một chiếu ngồi ở trong xã hội, thì dễ thường từ nay trở đi không có lối mà thò mặt lên vũ đài nữa”.[19] Họ coi đây là trách nhiệm của những bậc sỹ phu, quân tử có lòng với đời: “Phàm người quân tử liếc mắt ra cuộc đời, thấy cái hiện tượng như vậy, phải nên kíp tìm phương pháp vãn hồi”.[20] Để động viên các nhà Nho, trí thức Nam Phong tỏ ra không hề không bi quan trước thời cuộc. Nguyễn Bá Trác nói: “Có phải là ách vận đâu? Có phải là bi quan đâu? Những người bảo là ách vận, là bi quan, tôi đây quyết không thụ nhận”. Sự bi quan ách vận đó, chẳng qua “là tại các nhà Nho ta trống bỏi vật mình đó thôi”. Và ông vạch rõ nỗi băn khoăn của các nhà Nho ta trước sự tiêu mòn của Nho học là bởi “vì triều đình không mở khoa thi nữa, để cho được thỏa cái lòng trước điện một bài văn, dưới loa một tiếng dụ đấy thôi, chứ có phải vì thánh đạo mà băn khoăn đâu!”. Trong khi đó, ông chỉ ra, ở Nhật Bản và Trung Quốc, các nhà Hán học truyền thống đã khéo biết “bằng tạ cái học vấn cố hữu, thâm nhập cái văn minh ngoại lai”, để khuếch trương giáo dục, cải lương chính trị, sáng lập chế độ, chỉnh lý quân lữ, chấn hưng nghệ nghiệp, vì thế mà chẳng có nhà Nho nào than thở, ngao ngán về cái ách vận bi quan bao giờ. Vì có công phu điều hòa Tân Cựu, nên Nhật Bản và Trung Quốc dù rằng âu yếm duyên mớinhưng khôngđến nỗi ngậm ngùi tình xưa”. Ông coi thời điểm này, khi vận chở cái văn minh của Thái Tây vào, để bù giúp cho cái trí thức, cái tư tưởng có sẵn của mình”, chính là thời cơ để các nhà Nho Á Đông chuyển mình. Và vì thế, ông đã giành hy vọng lớn cho tiền đồ của Hán học. Còn Phạm Quỳnh thì lưu ý các nhà Nho rằng: “Xem đó thời biết rằng thời thế bây giờ tuy không lợi cho kẻ học hành có chí, nhưng nếu quả có chí vững vàng thời cũng có thể dần dần kiểu chính lại được. Cốt là kẻ sĩ trong nước phải tự tỉnh tự giác, nhận chân cái trách nhiệm của mình là phải gây ra trong học giới một cái học phong mới, một cái sĩ khí mới”. Qua đó, Phạm Quỳnh muốn nhấn mạnh, việc gây dựng học phong mới, sĩ khí mới trong thời buổi mới, chính là sứ mệnh lớn lao của nhà Nho. Ông lạc quan khi tin rằng nhờ vào sức người, nhờ vào chí hướng mà con người có thể xoay chuyển được tình thế: “Cái hoàn cảnh ấy không phải là vĩnh viễn bất dịch; cái hoàn cảnh ấy hằng ngày biến đổi luôn, mà sức người ta có thể chuyển di được. Chỉ sợ người không có chí, nếu quả có chí vững vàng, thời sự khó đến đâu mà không thắng được”.[21]
Còn Nguyễn Đôn Phục thì nói: “Ấy về phần quốc hồn quốc túy của quốc dân đã như sắp sửa dứt rồi đấy, mà con đường văn minh lạc lợi thì còn mộng ảo ở tận đâu đâu”.[16] Và ông chỉ ra nguyên nhân dẫn tới sự khủng hoảng trên là “vì trước kia cho lối cũ là hủ bại mà hết sức công kích đi để trau dồi lối mới cho quốc dân. Kịp quốc dân khi khi đã hấp thụ được lối mới thì lại mới quá, so với lối cũ thì hủ bại lại có phần hơn”.[17] Có thể thấy, trí thức Nam Phong cùng có chung một nhận định về nguyên nhân dẫn đến sự suy đồi, khủng hoảng của học giới Việt Nam đương thời, là bởi sự “xả cựu tòng tân” một cách thái quá. Trong khi cái cũ đã bị thẳng tay vứt bỏ, thì cái mới vẫn chưa được gây thành, tạo nên tình trạng của một học giới nửa tây nửa ta, “dở dang lơ lửng”, chưa được định hình. Kết quả nhận được này, trái với mục đích canh tân ban đầu, thậm chí, nó còn sút kém hơn so với học vấn truyền thống trước đây. Và trong bối cảnh đó, hiện trạng của nhà Nho Việt Nam bấy giờ có thể nói rất bế tắc, nguy ngập như phần trên ta đã thấy. Cựu học đã chấm dứt cùng chế độ giáo dục khoa cử truyền thống kéo dài gần một nghìn năm. Nhà Nho không còn con đường tiến thân, mất đi địa vị chính thống trong xã hội, đối mặt với nguy cơ tiêu diệt. Các trí thức Nam Phong đã phải ngậm ngùi khi đặt ra câu hỏi rằng: “Tình thế đã đến thế, còn có thể mong vãn hồi được nữa không?”,hay“Nhà Nho có quả là bị cái số đào thải tất nhiên không? Có thật là đã đến ngày sắp tiêu diệt không?” Vì vậy, để vãn hồi tình thế, tìm kiếm một lối thoát cho nhà Nho, trí thức Nam Phong đã chủ trương phải tiến hành một cuộc cách tân Nho học, xây dựng một nền học thuật mới bắt kịp thời đại theo gương Nhật Bản và Trung Quốc. Và trong cuộc cách tân này, nhà Nho – lực lượng chủ đạo, có một sứ mệnh vô cùng quan trọng. Điều này có hai nguyên nhân: Thứ nhất, nhà Nho vốn là một giai tầng trí thức có địa vị và ảnh hưởng sâu sắc trong xã hội Nho giáo truyền thống của Việt Nam từ trước đến nay. Nhà Nho là hạng “thượng lưu trí thức”, là bậc “thức giả xã hội” trong nước, có một chức vụ cao quý là “hướng đạo cho quốc dân”, làm “tiêu biểu cho cả nước”, cả về đường xã hội, đường chính trị, đường trí thức tinh thần, như lời Phạm Quỳnh nói. Ông còn ví “nhà Nho là một hạng thầy tu” của Khổng giáo. Song “hạng thầy tu” này khác với thầy tu của các đạo khác vì “vừa kiêm cả phần đời và phần đạo, đem đạo vị mà đằm thắm cho cuộc đời; còn thầy tu của các đạo khác, thời bỏ đời mà theo đạo, và thường cũng chỉ thiên về cái phần hình thức của đạo, là phần lễ bái mà thôi”. Nhà Nho đối với giới bình dân thì “khác nào như một lần một lót với nhau, tiên phong hậu thuẫn cho nhau, trên dưới tiếp ứng, không hề có cách trở nhau bao giờ”. Theo Phạm Quỳnh, nhà Nho đã có công lớn đối với việc duy trì, xây dựng quốc gia:“Bấy lâu vẫn làm khuôn mẫu cho quốc dân, bấy lâu vẫn duy trì cho xã hội, khiến cho nước Nam kinh qua bao nhiêu sự ngoại xâm cùng nội loạn, từng trải biết mấy lần nước đổ với nhà tan, mà vẫn sinh tồn được mãi mãi... Đã hay rằng cái công đề tạo duy trì cho quốc gia là công chung của tiên dân ta, nhưng nhà Nho là cái phần có ý thức trong quốc dân, công ấy cũng được một phần to vậy”. [18]; Thứ hai, điều này có quan hệ mật thiết đến sự tồn vong của chính nhà Nho. Nho học muốn thoát khỏi sự diệt vong, không còn cách nào khác là bản thân nó phải được cách tân hợp với thời đại. Việc cách tân Nho học đúng cách và hợp thời sẽ mở ra lối thoát cho các nhà Nho Việt Nam khỏi những bế tắc, không chỉ trong cuộc khủng hoảng này, mà sâu xa hơn là thoát ra khỏi những lưu tệ mang tính cố hữu của nhà Nho truyền thống, lột xác để vươn tới tương lai mới. Nhà Nho nếu muốn không bị đào thải, thì trong cuộc cách tân Nho học ấy, “chỉ có cái hình thức của nhà Nho là cần phải thay đổi,mà cái tinh thần nhà Nho cần phải bảo tồn lấy, vì tinh thần ấy còn thiết yếu cho sự sinh tồn của dân tộc ta” – Phạm Quỳnh nhấn mạnh. Công cuộc cách tân này được coi là “một sự nghiệp lớn lao”,song chỉ còn “chờ đợi những người sốt sắng”, đó chính là các nhà Nho. Vì vậy, trí thức Nam Phong ra sức hô hào, thức tỉnh các nhà Nho phải gạt bỏ ưu sầu, phiền muộn, nhận chân giá trị của mình, chấn hưng Nho học, bước lên vũ đài để giành lấy một chỗ đứng trong xã hội cho mình. Như Nguyễn Bá Trác đã tỏ lời tha thiết kêu gọi nhà Nho rằng: “Kể từ khi ông lão thành tiến sĩ, cô thiếu nữ tú tài, đã cải đai lau phấn đi rồi, ở trên học vụ diễn đài, nhất loạt thay vai đổi cảnh. Bọn nhà Nho ta nếu chưa có thể bước lên cho mau, chen vào cho khỏe, súy lấy một chiếu ngồi ở trong xã hội, thì dễ thường từ nay trở đi không có lối mà thò mặt lên vũ đài nữa”.[19] Họ coi đây là trách nhiệm của những bậc sỹ phu, quân tử có lòng với đời: “Phàm người quân tử liếc mắt ra cuộc đời, thấy cái hiện tượng như vậy, phải nên kíp tìm phương pháp vãn hồi”.[20] Để động viên các nhà Nho, trí thức Nam Phong tỏ ra không hề không bi quan trước thời cuộc. Nguyễn Bá Trác nói: “Có phải là ách vận đâu? Có phải là bi quan đâu? Những người bảo là ách vận, là bi quan, tôi đây quyết không thụ nhận”. Sự bi quan ách vận đó, chẳng qua “là tại các nhà Nho ta trống bỏi vật mình đó thôi”. Và ông vạch rõ nỗi băn khoăn của các nhà Nho ta trước sự tiêu mòn của Nho học là bởi “vì triều đình không mở khoa thi nữa, để cho được thỏa cái lòng trước điện một bài văn, dưới loa một tiếng dụ đấy thôi, chứ có phải vì thánh đạo mà băn khoăn đâu!”. Trong khi đó, ông chỉ ra, ở Nhật Bản và Trung Quốc, các nhà Hán học truyền thống đã khéo biết “bằng tạ cái học vấn cố hữu, thâm nhập cái văn minh ngoại lai”, để khuếch trương giáo dục, cải lương chính trị, sáng lập chế độ, chỉnh lý quân lữ, chấn hưng nghệ nghiệp, vì thế mà chẳng có nhà Nho nào than thở, ngao ngán về cái ách vận bi quan bao giờ. Vì có công phu điều hòa Tân Cựu, nên Nhật Bản và Trung Quốc dù rằng âu yếm duyên mớinhưng khôngđến nỗi ngậm ngùi tình xưa”. Ông coi thời điểm này, khi vận chở cái văn minh của Thái Tây vào, để bù giúp cho cái trí thức, cái tư tưởng có sẵn của mình”, chính là thời cơ để các nhà Nho Á Đông chuyển mình. Và vì thế, ông đã giành hy vọng lớn cho tiền đồ của Hán học. Còn Phạm Quỳnh thì lưu ý các nhà Nho rằng: “Xem đó thời biết rằng thời thế bây giờ tuy không lợi cho kẻ học hành có chí, nhưng nếu quả có chí vững vàng thời cũng có thể dần dần kiểu chính lại được. Cốt là kẻ sĩ trong nước phải tự tỉnh tự giác, nhận chân cái trách nhiệm của mình là phải gây ra trong học giới một cái học phong mới, một cái sĩ khí mới”. Qua đó, Phạm Quỳnh muốn nhấn mạnh, việc gây dựng học phong mới, sĩ khí mới trong thời buổi mới, chính là sứ mệnh lớn lao của nhà Nho. Ông lạc quan khi tin rằng nhờ vào sức người, nhờ vào chí hướng mà con người có thể xoay chuyển được tình thế: “Cái hoàn cảnh ấy không phải là vĩnh viễn bất dịch; cái hoàn cảnh ấy hằng ngày biến đổi luôn, mà sức người ta có thể chuyển di được. Chỉ sợ người không có chí, nếu quả có chí vững vàng, thời sự khó đến đâu mà không thắng được”.[21]
Nền học thuật mới theo
chủ trương của Nam Phong tạp chí là phải được xây dựng trên
sự điều hòa, dung hợp giữa Đông và Tây, giữa “Đạo học” và “Khoa
học”, để “gây lấy một nền học mới để thay vào cái Nho học cũ,
cùng đề xướng lên một cái tư trào mới hợp với thời thế và trình
độ của dân ta. Cái tính cách của sự học vấn mới cùng cái tư trào
mới ấy là tổ thuật cái tư tưởng học vấn của Thái Tây, nhất là của
nước Đại Pháp, mà không quên cái quốc túy trong nước”,[22] nhằmxây
dựng một nền học thuật “đặc biệt thuần túy” của Việt Nam.
Mục đích của công việc này được ví là “tiếp ngọn nọ vào gốc
kia mà gây lấy một giống cây riêng cho cái vườn Nam Việt”.[23] Nguyễn
Bá Trác cũng nói: “...Duy trì cái quốc túy ấy, để tiếp thu lấy
cái văn minh của ngoại lai, khiến cho học giới nước ta có cảnh tượng
nhật tân nhật tiến, đó cũng là một cái mục đích chính đáng của dân
tộc ta ngày nay nên xu hướng vậy”. Nguyễn Bá Trác còn dẫn
dụ công cuộc Duy Tân ở Trung Quốc và Nhật Bản để minh chứng cho quan
điểm của mình rằng: “Cứ cái hiện tượng học giới của hai nước
láng diềng như Chi - na, Nhật – bản mà xem ra, thì cựu học với
tân học đã có cảnh tượng dung hòa hỗn hợp rồi; cho nên phàm người
tinh thông hán học, tức là cái người đủ tư cách để tiếp thụ tân
học...” [24] Cái “gốc”, cái “tinh túy”, hay cái “quốc hồn
quốc túy”, mà Nam Phong tạp chíhay nhắc tới chính là nền Nho
học truyền thống, là cội nguồn tư tưởng của Việt Nam suốt gần hai
nghìn năm. Và đến nay, cội nguồn ấy đang sắp bị hủy diệt. Trí thức
Nam Phong ý thức được rằng, muốn cách tân Nho học, dung hội đông tây
để“gây lấy một cái đạo Nho mới thích hợp với thời thế bây giờ”, thì
trước hết cần phải “nối lại sợi giây cựu học sắp đứt”, “quay
lại tìm kiếm cái nguồn cội” [25], ra
sức bảo tồn, phát huy những “chỗ dùng được” và gạn bỏ những
nhược điểm, những chỗ không dùng được của Nho học. Có thể coi, vãn
hồi hay bảo tồn là mục tiêu trước nhất trong cuộc cách tân Nho học.
Nguyễn Bá Trác kêu gọi những nhân vật còn sót lại trong làng Nho là
phải “trù hoạch lấy phương kế gì, tổ chức lấy công nghiệp gì,
để cho có thể truyền thần loát ảnh lấy cái chân tướng Hán học, mà
dành lại cho người đời sau”. Việc “truyền thần loát ảnh lấy
cái chân tướng Hán học” mà Nguyễn Bá Trác đề xướng, chính là
nhiệm vụ bảo tồn lấy tinh thần của Hán học. Vì nếu người nước ta
không có ai biết được Hán học nữa thì thực là một sự “đại bất
hạnh”, “đại khuyết điểm” vậy. Mục đích của nhiệm vụ này là “để
hết cái chức trách nối kẻ trước giắt người sau, khiến cho con nhà
Hán học, đối với cổ nhân mà chuộc được tội, đối với lai thế mà
dựng nên công”. Ông mong muốn có ai đó có thể đứng lên xướng
suất, đảm đương công việc, “dóng dả một cái chủ nghĩa bảo
tồn”. Nhiệm vụ đó, theo ông, không ai gánh vác nổi ngoài những
nhân vật mà ông gọi là nhà Nho hiển đạt – tức Hiển nho, vì họ sẵn
có cái thế lực, cái phẩm vị trong làng Hán học. Nguyễn Bá
Trác giải thích nhà Nho hiển đạt “là một phái nhờ Hán học mà
đỗ lên, đầu rồng thân hổ, bia bảng vẻ vang; đến bây giờ hiện có
những người rỡ mình ở trên chốn miếu đường, hoặc có người cầm
quyền ở ngoài nơi quận trấn, những người đội ơn Hán học mà được
phần hiển đạt ấy, có thiếu gì người”.
Đối lập với Hiển nho là Hàn Nho, mà ông giải thích là lớp nhà Nho “vô quyền vô lực”, “đối với xã hội chẳng được hưởng quyền lợi tóc tơ chút nào; nhà tranh vách đất, rầy gió mai mưa, quang cảnh buồn tênh như vậy; cái kiếp hàn nho chỉ có một vẻ ăn trí nằm nhân, cười sơn cợt thủy, ấy là xong thân thế, chứ còn toan nỗi nào?Đến như cái công nghiệp trước thư lập ngôn, túng nhiên sách sẵn ở trong bụng dễ mà có thể lôi ra phô với đời được ru?”. Họ là lớp người “gặp thời buổi bất kiến dụng, yên về cái cảnh ngộ vô quyền vô lực, không có thể tổ chức được sự nghiệp gì để mà trả được cái nợ bảo tồn Hán học cho quốc dân”. Vì vậy, Nguyễn Bá Trác đặt nhiều kỳ vọng vào lớpnhà Nho hiển đạt nói trên: “Các ông cũng thường nhận mình là bậc tiên sinh trưởng giả trong phái Hán học, vẫn có lòng thân thiết đến các hạng đệ tử trong môn phái nhà, song còn cái tiền đồ Hán học ngày nay thế nào, cái gánh vác bảo tồn Hán học, các ông còn có thể xan xẻ cho ai được không? Chắc các ông cũng đã nghĩ thấu đến nơi cả rồi” và “nối lấy cái giây Hán học sắp đứt chửa đứt này, nhóm lại cái khói tàn gio Hán, dong lên cái hoa mới đèn Nho, để làm gương cho thiên hạ hậu thế soi chung ấy, thực chỉ mong về các ngài hiển đạt ở trong làng Hán học có thế lực có phẩm vị đó thôi”. Và sự lợi ích mà phái Hiển nho nhận được từ công cuộc bảo tồn này là ở chỗ: “Một đàng đối với đồng phái có cái công phù trợ lớn lao, một đàng thì đối với nghề cựu truyền có cái nghĩa báo đền thâm thiết; chẳng quí lắm ru?”. Để thực hiện được công cuộc trên, Nguyễn Bá Trác đề ra hai biện pháp sau:
Đối lập với Hiển nho là Hàn Nho, mà ông giải thích là lớp nhà Nho “vô quyền vô lực”, “đối với xã hội chẳng được hưởng quyền lợi tóc tơ chút nào; nhà tranh vách đất, rầy gió mai mưa, quang cảnh buồn tênh như vậy; cái kiếp hàn nho chỉ có một vẻ ăn trí nằm nhân, cười sơn cợt thủy, ấy là xong thân thế, chứ còn toan nỗi nào?Đến như cái công nghiệp trước thư lập ngôn, túng nhiên sách sẵn ở trong bụng dễ mà có thể lôi ra phô với đời được ru?”. Họ là lớp người “gặp thời buổi bất kiến dụng, yên về cái cảnh ngộ vô quyền vô lực, không có thể tổ chức được sự nghiệp gì để mà trả được cái nợ bảo tồn Hán học cho quốc dân”. Vì vậy, Nguyễn Bá Trác đặt nhiều kỳ vọng vào lớpnhà Nho hiển đạt nói trên: “Các ông cũng thường nhận mình là bậc tiên sinh trưởng giả trong phái Hán học, vẫn có lòng thân thiết đến các hạng đệ tử trong môn phái nhà, song còn cái tiền đồ Hán học ngày nay thế nào, cái gánh vác bảo tồn Hán học, các ông còn có thể xan xẻ cho ai được không? Chắc các ông cũng đã nghĩ thấu đến nơi cả rồi” và “nối lấy cái giây Hán học sắp đứt chửa đứt này, nhóm lại cái khói tàn gio Hán, dong lên cái hoa mới đèn Nho, để làm gương cho thiên hạ hậu thế soi chung ấy, thực chỉ mong về các ngài hiển đạt ở trong làng Hán học có thế lực có phẩm vị đó thôi”. Và sự lợi ích mà phái Hiển nho nhận được từ công cuộc bảo tồn này là ở chỗ: “Một đàng đối với đồng phái có cái công phù trợ lớn lao, một đàng thì đối với nghề cựu truyền có cái nghĩa báo đền thâm thiết; chẳng quí lắm ru?”. Để thực hiện được công cuộc trên, Nguyễn Bá Trác đề ra hai biện pháp sau:
1. Trước
thư lập ngôn, phiên dịch sách vở chữ Nho ra chữ quốc ngữ, để giúp
người đời sau có tài liệu khảo cứu, theo gương Âu Tây phiên dịch kinh
Phật và sách Nho; tuyển chọn trong Hán văn những câu lợi dụng cho
chữ quốc ngữ rồi biên soạn thành từ điển để giúp ích cho chữ
quốc ngữ; biên soạn văn chương, những điều liên quan tới luân lý,
phong tục, lịch sử nước nhà và truyện ký của các nhân vật bằng
chữ quốc ngữ, Sở dĩ, Nguyễn Bá Trác đề cao chữ quốc ngữ, vì
ông tiên lượng rằng chữ quốc ngữ là cái “lợi khí” của tương lai học
giới nước ta, Hán học và Âu học sẽ dung hợp được là nhờ vào chữ
quốc ngữ.
2. Tổ
chức Hán học – duy trì hội để thu thập những nhân tài còn sót
lại trong giới Hán học, kết hợp đoàn thể tổ chức cơ sở, khiến cho
có thể trước thư lập ngôn mà truyền lại cho đời sau. Hội Hán học duy
trì này cần nhờ tới sự giúp đỡ của Chính phủ bảo hộ.
Đồng thời, để làm được
nhiệm vụ bảo tồn Hán học, cách tân Nho học, Nguyễn Bá Trác còn đề
nghị phải gạt bỏ hai mối tệ vốn tồn tại từ lâu trong phần lớn giới
nhà Nho nước ta.
Thứ nhất là tệ sùng chuộng hư văn, đây là nguyên nhân khiến cho “học thuật nước ta chẳng xương minh lên được, mà quốc gia đến nỗi suy nhược dần dần”.
Thứ hai là tệ tự tôn tự đại, phái Hán học “đối với cái học của mình thì “thường cho là thần thánh, mà đối với học thuật lý thuyết của người, hoặc bài bác là thiên về vật chất, mà không có tinh thần, hoặc chê bai là quá văn hoa mà khuyết mất đạo đức”. Còn bản thân thì “đọc sách cổ nhân chỉ biết làm nô lệ cổ nhân mà thôi; nghe lời trưởng giả chỉ biết làm đệ tử trưởng giả mà thôi”. Trước là bảo tồn, sau thì phải trước thư lập ngôn, phát minh lấy nghĩa lý Hán học để dẫn khởi cho hậu sinh”, đồng thời phải biết canh tân, “thay đổi cái bút hư văn, trừ bỏ cái hồn câu nệ, bắt chước lấy những cách khảo cứu, những cách phê bình ở trong học thuật cách mới ngày nay”, “biết chuyển biến đi để tùng sự về đường triết học, khoa học, pháp chính, nghệ thuật mọi đường” để xây dựng nên một sự nghiệp vẻ vang cho Hán học nước ta. Và ông khẳng định “thời kỳ Hán học súc tiếp với Âu học tức là cái cơ hội hay cho Hán học nhân thế mà dựng được một cái tân kỷ nguyên, mở được một cái tân thế giới”. Qua đó, có thể thấy lòng nhiệt thành và khát vọng cháy bỏng của tác giả đối với tiền đồ của Hán học nước ta trong bối cảnh đó.
Thứ nhất là tệ sùng chuộng hư văn, đây là nguyên nhân khiến cho “học thuật nước ta chẳng xương minh lên được, mà quốc gia đến nỗi suy nhược dần dần”.
Thứ hai là tệ tự tôn tự đại, phái Hán học “đối với cái học của mình thì “thường cho là thần thánh, mà đối với học thuật lý thuyết của người, hoặc bài bác là thiên về vật chất, mà không có tinh thần, hoặc chê bai là quá văn hoa mà khuyết mất đạo đức”. Còn bản thân thì “đọc sách cổ nhân chỉ biết làm nô lệ cổ nhân mà thôi; nghe lời trưởng giả chỉ biết làm đệ tử trưởng giả mà thôi”. Trước là bảo tồn, sau thì phải trước thư lập ngôn, phát minh lấy nghĩa lý Hán học để dẫn khởi cho hậu sinh”, đồng thời phải biết canh tân, “thay đổi cái bút hư văn, trừ bỏ cái hồn câu nệ, bắt chước lấy những cách khảo cứu, những cách phê bình ở trong học thuật cách mới ngày nay”, “biết chuyển biến đi để tùng sự về đường triết học, khoa học, pháp chính, nghệ thuật mọi đường” để xây dựng nên một sự nghiệp vẻ vang cho Hán học nước ta. Và ông khẳng định “thời kỳ Hán học súc tiếp với Âu học tức là cái cơ hội hay cho Hán học nhân thế mà dựng được một cái tân kỷ nguyên, mở được một cái tân thế giới”. Qua đó, có thể thấy lòng nhiệt thành và khát vọng cháy bỏng của tác giả đối với tiền đồ của Hán học nước ta trong bối cảnh đó.
Còn Phạm Quỳnh trong bài Nhà
Nho, đã chỉ ra sự cần thiết phải có một cuộc cách tân, chấn
chỉnh Nho học: “Còn như đạo Nho, thì một là đạo Nho là một đạo
sai lầm, có hại cho nhân quần xã hội, như vậy thì phải kíp cải cách
canh tân đi; hai là đạo Nho là một đạo chân chính, chỉ vì thiên hạ
hiểu lầm nên dùng sai đó mà thôi, như vậy lại càng phải cải chính
mà phát huy ra vậy”. Và như vậy, ông khẳng định“đằng nào cũng
cần phải có cái công chấn chỉnh của nhà Nho, nhà Nho lại càng phải
hoạt động lắm, há cứ ngồi khoanh tay mà chịu hay sao?” Ông nhấn
mạnh vai trò và địa vị của nhà Nho đối với xã hội Việt nam, như
trên đã nói. Song ngày nay, khi mà nhà Nho – kẻ đưa đường cho quốc
dân đã“tự bỏ cái địa vị đó, bỏ cái chức trách đó, thời đối
với quốc dân, đối với xã hội thành ra thế nào? Một nước đương có
hạng thượng lưu hướng đạo, mà nhất đán hạng thượng lưu trụy lạc đi
hẳn như vậy, thì nước ấy thành ra thế nào?”. Vì thế, “nước
ấy cũng ví như một cái thân thể không có đầu, một cái khu xác không
có hồn” và đó là nguyên nhân gây ra cái tình trạng khủng
hoảng về tinh thần như bây giờ”. Theo phạm Quỳnh, sở dĩ Nho học
cần phải cách tân, chấn chỉnh, bởi hai nguyên nhân. Thứ nhất, truyền
thống Nho học của ta bộc lộ nhiều nhược điểm, có hại cho sự phát
triển của học thuật, của xã hội: “Chẳng may trong mấy mươi đời,
bao nhiêu những người tài tuấn trong nước đều bạc đầu về cái học
tầm chương trích cú, cái học kinh nghĩa văn sách, đem hết cả tài trí
mà nghiền ngấu những cái bã rác của cổ nhân, đến không còn sức đâu
mà phát minh được những lẽ mới sự lạ nữa, khiến cho dân trí như bị ngưng
trệ lại, không tiến hóa lên được. Nước ta sở dĩ thua kém về đường
văn minh tiến bộ cũng bởi cái cách học sai lầm như thế”.[26] Và
ông chỉ ra, nước ta bấy lâu nay bị cái tinh thần hạ thừa/tiểu
thừa của Nho học bành trướng, lấn át, khiến cho “làm hẹp
mất nghĩa đạo đi, biến một cái đạo rất hay thành một mớ phiền văn
trần hủ, không khỏi ngăn trở cho sự tiến hóa chung”. Tinh thần của Nho
học hạ thừa/tiểu thừa đó, chính là tâm lý hương nguyện biển
hiệp, không có nghị lực, không có khí khái, làm hẹp đạo thánh hiền,“uốn
nghĩa lý của thánh hiền cho vừa bằng cái tầm nhân cách nhỏ nhen của
mình”. Điều đáng sợ là khi quốc vận suy vi thì cái tâm lý hương
nguyện đó “bành trướng mãi ra mà hầu như tràn ngập cả”, và
không chỉ “những thầy đồ quê mắc phải cái tâm lý ác liệt đó,
mà đến ông nghè ông cống cũng không khỏi; không những ông nghè ông
cống, mà đến tể tướng thượng thư cũng không khỏi”.
Và một khi “cả bọn thượng lưu trong nước đều đeo một cái tâm lý hương nguyện đó cả” thì hậu quả sẽ là “dân tan, nước đổ”. Chính cái tâm lý hương nguyện đó, theo Phạm Quỳnh, nó đã lấn át Nho học đại thừa/thường thừa, đã làm hại các nhà Nho, để nhà Nho chịu đeo tiếng oan mà “làm mất nước”. Vì vậy, nhà Nho cần phải hành động để tẩy rửa tiếng oan đó. Thứ hai, Phạm Quỳnh đã chỉ ra những điều hữu ích của Nho học đại thừa/thượng thừa, mà theo ông nó vẫn còn có ích cho sự phát triển của xã hội trong thời đại mới. Nho giáo đại thừa mà ông đưa ra tức là cái đạo của bậc chân nho:“Không nói về phần triết lý siêu hình, những cái thuyết âm dương thái cực có nhiều điều phù hợp với những sự phát minh tối tân của khoa học đời nay, chỉ nói về phần ứng dụng thực tiễn, về cái đạo kinh luân tế thế của nhà Nho, cũng có nhiều phương pháp kinh nghiệm, có thể bổ cho thời cơ, cứu cho thời bệnh được”. Cụ thể là gì, đó là thuyết về Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, là“giềng mối của đạo đức luân lý muôn đời”; đó là thuyết tu, tề, trị, bình, “là tiêu biểu cho một cái lý tưởng làm người rất thâm trầm và rất thiết thực”. Ông đánh giá thuyết này “vừa kiêm được cả cái chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa thế giới, không cái nào mâu thuẫn với cái nào, hết thảy đều như hiệp tác với nhau theo một cái trật tự rất là hợp với lẽ thiên nhiên vậy”. Sau đó ông đã phân tích về luận điểm này trong bài viết của mình. Ông lưu ý các nhà Nho rằng hãy “đem những phương pháp sáng sủa hợp lẽ mà nghiên cứu các nghĩa lý của cổ nhân. Sẽ thấy rằng những nghĩa lý ấy chưa phải là đã quá cũ đâu, còn có cái tiềm lực rất mạnh, có thể cảnh tỉnh được quốc dân, hoán cải được phong tục, mà bổ cứu được cái tình trạng khủng hoảng hỗn độn ngày nay”. Phạm Quỳnh đánh giá cao Nho học đại thừa rộng lớn sâu xa, luôn phù hợp với mọi thời đại, mọi quốc gia dân tộc:“Đạo ấy là đạo thiên cổ, loài người ta còn sinh trưởng trên mặt đất này thì đời nào nước nào cũng là thích hợp”. Vì vậy, công cuộc cách tân Nho học, khôi phục địa vị của Nho sĩ và phát huy những giá trị của họ, theo Phạm Quỳnh chính là cần phải “bãi bỏ cái Nho học tiểu thừa, mà đề xướng cái Nho học đại thừa; là phải đả phá cái tâm lý hương nguyện mà đề tỉnh cái tâm lý chân Nho; là phải đem đạo Nho ra mà hòa đồng với các phong trào tư tưởng lớn trong thế giới, chứ không thể giữ khu khu trong mấy bộ sách nát của cổ nhân; là phải làm cho cái tinh lý thắng được cái tử văn, chứ không để cho cái tử văn tiêu mất cả tinh lý; là phải đem ông Khổng ông Mạnh ra mà tiếp chuyện với các hiền triết Đông Tây, chứ không nên để trong khám thờ âm u tịch mịch”. Ông quả quyết vai trò, ý nghĩa của cuộc cách mệnh này có quan hệ đến sự sinh tồn của Nho giáo và công nghiệp của các nhà Nho: “Nho giáo có do cách mệnh một lần thì Nho giáo mới mong sinh tồn được. Nhà Nho có làm nổi cuộc cách mệnh đó thì thì nhà Nho mới có công với quốc dân, xứng đáng với cái lịch sử vẻ vang từ trước, xứng đáng với cái tiền đồ rực rỡ sau này”. Sứ mệnh của nhà Nho lúc này cần phải suy xét tinh lý ẩn hàm trong những vi ngôn đại nghĩa của thánh nhân thời cổ, rồi tìm cách để ứng dụng nó ra đời sống hiện tại, nhằm tạo dựng một “đạo Nho thích hợp với thời thế”. Như trên đã nói, Phạm Quỳnh phân chia Nho giáo thành hai loại: Nho giáo tiểu thừa/hạ thừa và Nho giáo đại thừa/thượng thừa. Và như vậy, theo ông phân tích, nhà Nho cũng có hai loại là nhà Nho tiểu thừa và nhà Nho đại thừa. Nhà Nho tiểu thừa chính là các thầy đồ, “dạy các trường quốc dân, không phải là người của nhà nước, không thuộc vào ngạch nào cả, không có lương bổng, không bị kiểm đốc” và nhà Nho đại thừa là các nhà nho khoát đạt, nhà Nho quán thông, nhà Nho bác nhã, nhà Nho cao thượng, “là những bậc bác học năng văn, triết nhân quân tử, biết vượt ra ngoài những câu tử văn trong sách cổ mà đạt cho tới cái chí đạo của Thánh hiền”, cũng tức là “các nhà Nho đã qua bậc Tiểu thừa tới bậc Đại thừa”. Cả nhà Nho Tiểu thừa và Đại thừa đều có vai trò, trách nhiệm riêng. Nhà Nho Tiểu thừa, tức các thầy đồ, có công lao “duy trì cho xã hội, tiêu biểu cho danh giáo, hộ vệ cho phong hóa”; bảo chướng để “gìn giữ cho được yên ổn, phòng ngự cho khỏi họa loạn”. Thầy đồ được Phạm Quỳnh ví là những “mục sư truyền đạo” của Khổng giáo. Còn nhà Nho Đại thừa thì có công xướng suất, hưng khởi, hướng đạo, dẫn dắt quốc dân, phát huy tinh thần Thượng thừa trong cái chí đạo của Nho giáo. Nhà Nho Hạ thừa có trách nhiệm di truyền, nhà Nho Thượng thừa có trách nhiệm tiến hóa Thánh đạo.Tuy nhiên, trong cuộc cánh mệnh Nho học mà Phạm Quỳnh đề xướng, các nhà Nho Tiểu thừa cần phải gạt bỏ tâm lý thầy đồ, tức là tâm lý lễ nhượng cẩn thủ, trọng về hình thức phép tắc bề ngoài, và đó chính là tâm lý hương nguyện, mang tính chất“nhân tuần cẩu thả, hư sức ngụy biện”, có nhiều tác hại lớn.Phạm Quỳnh cho rằng, sự nghiệp của các thầy đồ đến đây chưa hẳn đã cùng tận, nếu họ biết trừ bỏ tâm lý hương nguyện ấy đi, thì vẫn có thể đương được cái chức trách vừa làm giáo sư, vừa làm linh mục cho quốc dân. Còn nhà Nho Thượng thừa thì không nên “làm sai thiên chức của mình, là làm kẻ hướng đạo cho quốc dân, mà phụng sự tuyên truyền một cái đạo Nho rộng rãi, hợp với cái tôn chỉ thượng thừa của Khổng Mạnh”. Ông nhắn gửi các nhà Nho rằng: “Đương lúc thanh hoàng quá độ này, văn hóa cũ đã tàn, văn hóa mới chưa thịnh, chính là buổi điều hòa dung hợp, nhà Nho lại càng phải nên gắng gỏi lắm, chứ không nên chỉ giữ cái thái độ tiêu cực, đối với vận mệnh nước nhà lãnh đạm như khách bàng quan”. Có thể thấy, sứ mệnh của nhà Nho là phải tham gia vào cuộc cách tân, chấn chỉnh Nho học, khôi phục lại học phong và sĩ khí, xây dựng nền nền học thuật mới có sự kết hợp hài hòa giữa Đạo học (tức học thuật truyền thống phương Đông) và Khoa học (tức khoa học hiện đại Phương Tây) theo quan niệm của Lương Khải Siêu. Và cuối cùng, trong bài viết Học phong và sĩ khí, Phạm Quỳnh có viết: “[Kẻ sĩ] có được cái chí thâm thiết muốn bảo chủng ái quốc, tồn học”, “có được cái khí mạnh mẽ như lời tiền hiền đã nói: “phú quí không dâm được, bần tiện không di được, uy vũ không khuất được” và lại “thêm được cái kiến văn tri thức một người sống ở cái thế kỷ phiền phức thứ hai mươi này”, có được ba điều đó thì mới “xứng đáng là một kẻ sĩ hoàn toàn đời bây giờ”. Ta có thể coi đây là một mô hình nhà Nho lý tưởng của thời đại mới mà Phạm Quỳnh đưa ra dựa trên sự cân nhắc từ nhiều phương diện và gửi gắm không ít kỳ vọng.
Và một khi “cả bọn thượng lưu trong nước đều đeo một cái tâm lý hương nguyện đó cả” thì hậu quả sẽ là “dân tan, nước đổ”. Chính cái tâm lý hương nguyện đó, theo Phạm Quỳnh, nó đã lấn át Nho học đại thừa/thường thừa, đã làm hại các nhà Nho, để nhà Nho chịu đeo tiếng oan mà “làm mất nước”. Vì vậy, nhà Nho cần phải hành động để tẩy rửa tiếng oan đó. Thứ hai, Phạm Quỳnh đã chỉ ra những điều hữu ích của Nho học đại thừa/thượng thừa, mà theo ông nó vẫn còn có ích cho sự phát triển của xã hội trong thời đại mới. Nho giáo đại thừa mà ông đưa ra tức là cái đạo của bậc chân nho:“Không nói về phần triết lý siêu hình, những cái thuyết âm dương thái cực có nhiều điều phù hợp với những sự phát minh tối tân của khoa học đời nay, chỉ nói về phần ứng dụng thực tiễn, về cái đạo kinh luân tế thế của nhà Nho, cũng có nhiều phương pháp kinh nghiệm, có thể bổ cho thời cơ, cứu cho thời bệnh được”. Cụ thể là gì, đó là thuyết về Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, là“giềng mối của đạo đức luân lý muôn đời”; đó là thuyết tu, tề, trị, bình, “là tiêu biểu cho một cái lý tưởng làm người rất thâm trầm và rất thiết thực”. Ông đánh giá thuyết này “vừa kiêm được cả cái chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa thế giới, không cái nào mâu thuẫn với cái nào, hết thảy đều như hiệp tác với nhau theo một cái trật tự rất là hợp với lẽ thiên nhiên vậy”. Sau đó ông đã phân tích về luận điểm này trong bài viết của mình. Ông lưu ý các nhà Nho rằng hãy “đem những phương pháp sáng sủa hợp lẽ mà nghiên cứu các nghĩa lý của cổ nhân. Sẽ thấy rằng những nghĩa lý ấy chưa phải là đã quá cũ đâu, còn có cái tiềm lực rất mạnh, có thể cảnh tỉnh được quốc dân, hoán cải được phong tục, mà bổ cứu được cái tình trạng khủng hoảng hỗn độn ngày nay”. Phạm Quỳnh đánh giá cao Nho học đại thừa rộng lớn sâu xa, luôn phù hợp với mọi thời đại, mọi quốc gia dân tộc:“Đạo ấy là đạo thiên cổ, loài người ta còn sinh trưởng trên mặt đất này thì đời nào nước nào cũng là thích hợp”. Vì vậy, công cuộc cách tân Nho học, khôi phục địa vị của Nho sĩ và phát huy những giá trị của họ, theo Phạm Quỳnh chính là cần phải “bãi bỏ cái Nho học tiểu thừa, mà đề xướng cái Nho học đại thừa; là phải đả phá cái tâm lý hương nguyện mà đề tỉnh cái tâm lý chân Nho; là phải đem đạo Nho ra mà hòa đồng với các phong trào tư tưởng lớn trong thế giới, chứ không thể giữ khu khu trong mấy bộ sách nát của cổ nhân; là phải làm cho cái tinh lý thắng được cái tử văn, chứ không để cho cái tử văn tiêu mất cả tinh lý; là phải đem ông Khổng ông Mạnh ra mà tiếp chuyện với các hiền triết Đông Tây, chứ không nên để trong khám thờ âm u tịch mịch”. Ông quả quyết vai trò, ý nghĩa của cuộc cách mệnh này có quan hệ đến sự sinh tồn của Nho giáo và công nghiệp của các nhà Nho: “Nho giáo có do cách mệnh một lần thì Nho giáo mới mong sinh tồn được. Nhà Nho có làm nổi cuộc cách mệnh đó thì thì nhà Nho mới có công với quốc dân, xứng đáng với cái lịch sử vẻ vang từ trước, xứng đáng với cái tiền đồ rực rỡ sau này”. Sứ mệnh của nhà Nho lúc này cần phải suy xét tinh lý ẩn hàm trong những vi ngôn đại nghĩa của thánh nhân thời cổ, rồi tìm cách để ứng dụng nó ra đời sống hiện tại, nhằm tạo dựng một “đạo Nho thích hợp với thời thế”. Như trên đã nói, Phạm Quỳnh phân chia Nho giáo thành hai loại: Nho giáo tiểu thừa/hạ thừa và Nho giáo đại thừa/thượng thừa. Và như vậy, theo ông phân tích, nhà Nho cũng có hai loại là nhà Nho tiểu thừa và nhà Nho đại thừa. Nhà Nho tiểu thừa chính là các thầy đồ, “dạy các trường quốc dân, không phải là người của nhà nước, không thuộc vào ngạch nào cả, không có lương bổng, không bị kiểm đốc” và nhà Nho đại thừa là các nhà nho khoát đạt, nhà Nho quán thông, nhà Nho bác nhã, nhà Nho cao thượng, “là những bậc bác học năng văn, triết nhân quân tử, biết vượt ra ngoài những câu tử văn trong sách cổ mà đạt cho tới cái chí đạo của Thánh hiền”, cũng tức là “các nhà Nho đã qua bậc Tiểu thừa tới bậc Đại thừa”. Cả nhà Nho Tiểu thừa và Đại thừa đều có vai trò, trách nhiệm riêng. Nhà Nho Tiểu thừa, tức các thầy đồ, có công lao “duy trì cho xã hội, tiêu biểu cho danh giáo, hộ vệ cho phong hóa”; bảo chướng để “gìn giữ cho được yên ổn, phòng ngự cho khỏi họa loạn”. Thầy đồ được Phạm Quỳnh ví là những “mục sư truyền đạo” của Khổng giáo. Còn nhà Nho Đại thừa thì có công xướng suất, hưng khởi, hướng đạo, dẫn dắt quốc dân, phát huy tinh thần Thượng thừa trong cái chí đạo của Nho giáo. Nhà Nho Hạ thừa có trách nhiệm di truyền, nhà Nho Thượng thừa có trách nhiệm tiến hóa Thánh đạo.Tuy nhiên, trong cuộc cánh mệnh Nho học mà Phạm Quỳnh đề xướng, các nhà Nho Tiểu thừa cần phải gạt bỏ tâm lý thầy đồ, tức là tâm lý lễ nhượng cẩn thủ, trọng về hình thức phép tắc bề ngoài, và đó chính là tâm lý hương nguyện, mang tính chất“nhân tuần cẩu thả, hư sức ngụy biện”, có nhiều tác hại lớn.Phạm Quỳnh cho rằng, sự nghiệp của các thầy đồ đến đây chưa hẳn đã cùng tận, nếu họ biết trừ bỏ tâm lý hương nguyện ấy đi, thì vẫn có thể đương được cái chức trách vừa làm giáo sư, vừa làm linh mục cho quốc dân. Còn nhà Nho Thượng thừa thì không nên “làm sai thiên chức của mình, là làm kẻ hướng đạo cho quốc dân, mà phụng sự tuyên truyền một cái đạo Nho rộng rãi, hợp với cái tôn chỉ thượng thừa của Khổng Mạnh”. Ông nhắn gửi các nhà Nho rằng: “Đương lúc thanh hoàng quá độ này, văn hóa cũ đã tàn, văn hóa mới chưa thịnh, chính là buổi điều hòa dung hợp, nhà Nho lại càng phải nên gắng gỏi lắm, chứ không nên chỉ giữ cái thái độ tiêu cực, đối với vận mệnh nước nhà lãnh đạm như khách bàng quan”. Có thể thấy, sứ mệnh của nhà Nho là phải tham gia vào cuộc cách tân, chấn chỉnh Nho học, khôi phục lại học phong và sĩ khí, xây dựng nền nền học thuật mới có sự kết hợp hài hòa giữa Đạo học (tức học thuật truyền thống phương Đông) và Khoa học (tức khoa học hiện đại Phương Tây) theo quan niệm của Lương Khải Siêu. Và cuối cùng, trong bài viết Học phong và sĩ khí, Phạm Quỳnh có viết: “[Kẻ sĩ] có được cái chí thâm thiết muốn bảo chủng ái quốc, tồn học”, “có được cái khí mạnh mẽ như lời tiền hiền đã nói: “phú quí không dâm được, bần tiện không di được, uy vũ không khuất được” và lại “thêm được cái kiến văn tri thức một người sống ở cái thế kỷ phiền phức thứ hai mươi này”, có được ba điều đó thì mới “xứng đáng là một kẻ sĩ hoàn toàn đời bây giờ”. Ta có thể coi đây là một mô hình nhà Nho lý tưởng của thời đại mới mà Phạm Quỳnh đưa ra dựa trên sự cân nhắc từ nhiều phương diện và gửi gắm không ít kỳ vọng.
Bằng con mắt khách quan,
có thể thấy, trong bối cảnh khủng hoảng của học giới Việt Nam đầu
thế kỷ XX, việcNam Phong tạp chí chủ trương xây dựng một nền học
thuật điều hòa Đông Tây, lấy Nho học truyền thống làm bản vị kết
hợp với văn minh Tây phương là một chủ trương thích trung và hợp thời.
Dựa trên việc suy xét hiện trạng và đánh giá vai trò của tầng lớp
nhà Nho, trí thức Nam Phong đã rất nỗ lực để nhằm tìm ra giải pháp
khắc phục tình thế cho các nhà Nho (có cả một vài người trong số
họ). Và họ đã nhận ra và hết sức động viên, kêu gọi các nhà Nho
hãy chủ động thông qua con đường cách tân Nho học theo gương Nhật Bản,
Trung Quốc, để vãn hồi Thánh đạo, xây dựng một nền học thuật mới,
đưa bản thân thoát khỏi cuộc bế tắc, bắt kịp xu thế thời đại. Trước
một vấn đề thời sự mang tính tồn vong của số phận Nho giáo và nhà
Nho, tôn chỉ và lập trường của trí thức Nam Phong có nhiều điểm tiến
bộ, tích cực, thể hiện một tầm nhìn xa rộng. Dù lịch sử đã diễn
ra không như những gì mong đợi, song cho đến nay, chúng ta vẫn thấy
được bầu nhiệt huyết của các trí thức Nam Phong giành cho học thuật
nước nhà, và có lẽ ít nhiều những gì họ đã làm vẫn còn mang
những giá trị nhất định.
[3] Trúc
Hà, Nhà Nho có lẽ chịu sầu?, Nam Phong tạp chí, số 130,
tháng 6 năm 1928, tr. 561.
[4] Nguyên tác
Hán văn, bản quốc ngữ do Tú tài Nguyễn Đôn Phục dịch và đăng
trên Nam Phong tạp chí số 51, tháng 9/1921, tr. 189.
[10] Nguyễn Đôn
Phục, Phái nhà Nho khoảng ba mươi năm nay đối với sự học cũ, Nam
Phong tạp chí, số 195, tháng 5/1934, tr. 285.
[12] Tức là
tính từ năm 1906 (Thành Thái 18) khi chương trình Giáo dục Khoa
cử cải lương được nhà nước Bảo hộ tiến hành đến năm 1934, thời điểm
tác giả viết bài.
[24] Nguyễn Bá
Trác, Mấy lời trung cáo với các bạn nhà Nho, Nguyễn Đôn
Phục dịch, Nam Phong tạp chí số 51, tháng 9 năm 1921, tr.
191.
Lê Phương Duy
Nguồn: vanhoanghean.com.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét