Trong một nền văn hóa mà chỉ
một nghệ thuật văn chương giữ địa vị độc tôn, bản thân nghệ thuật ấy không phát
triển được phong phú và muôn màu muôn sắc do thiếu cọ sát, tương tác, thi sức với
các nghệ thuật khác.
Chủ đề của tham luận này hẹp
hơn rất nhiều so với cái tên của nó. Quan hệ qua lại giữa văn học với các loại
hình nghệ thuật khác ở nước ta là một đề tài nghiên cứu khoa học lớn và liên
ngành, đòi hỏi tập trung nhiều lực lượng tinh nhuệ, nhiều học giả hiểu biết sâu
rộng văn hóa - nghệ thuật nước nhà và thế giới.
Trong bài viết này chúng tôi
chỉ đề cập một cách qua loa đến tương quan so sánh giữa văn chương và hội họa
Việt Nam dưới hai góc độ: vị trí của chúng trong đời sống xã hội và những cống
hiến của chúng cho kho tàng văn hóa nước nhà. Vì vậy xin xem những gì sẽ nói
sau đây chỉ là đề cương chi tiết cho một báo cáo khoa học.
Ngoảnh nhìn lại nền văn nghệ
cổ truyền của nước ta, con người Việt Nam ngày nay không thể không ngạc nhiên về
vị trí rất đỗi chênh lệch giữa một bên là văn chương và một bên là các ngành
nghệ thuật khác. Từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, xã hội Việt Nam xưa kia chỉ
coi trọng văn chương và xem nhẹ mọi loại hình nghệ thuật khác.
Có kỹ năng sáng tác thơ văn
hầu như là điều kiện nhất thiết phải có ở những người thuộc giới "sĩ
phu" - tầng lớp được trọng vọng nhất trong xã hội. Từ "văn nhân"
vừa có nghĩa là một trí thức nhân văn, vừa có nghĩa là người cầm bút. Những
sáng tác thơ văn hay của họ được công luận tán tụng và phẩm bình rộng rãi.
Cùng với chúng tên tuổi các
tác gia được lưu truyền cho hậu thế để học tập, noi gương. Còn những nghệ nhân
hoạt động trong các khu vực nghệ thuật khác thì dù họ có tài đến đâu (thí dụ
như kiến trúc sư Vũ Như Tô trong thế kỷ 18) vẫn cứ bị xem là thợ. Họ không được
đề tên dưới những tác phẩm của mình và vì thế không được người đời sau biết đến.
Nếu chúng ta còn nhớ cái tên
Vũ Như Tô và nhà văn hiện đại Nguyễn Huy Tưởng đã có thể viết một bi kịch xuất
sắc về ông thì đơn thuần chỉ vì ông đã bị giết cùng với vua Lê Tương Dực trong
một cuộc bạo loạn của binh sĩ và dân chúng thành Thăng Long phẫn nộ về những
phí tổn quá lớn cho việc xây dựng công trình Cửu trùng đài.
Song những ai trong thế kỷ
18 đã chạm khắc nên những pho tượng Phật và La Hán ở chùa Tây Phương giờ đây rất
nổi tiếng và được du khách nước ngoài ngợi khen, có lẽ mãi mãi chúng ta sẽ
không bao giờ biết.
Giữa những loại hình nghệ
thuật cổ truyền ở Việt Nam, hội họa chiếm vị trí khiêm tốn hơn cả, có thể nói,
hầu như vắng mặt. Những gì chúng ta còn hiểu được cho đến nay là một số chân
dung lý tưởng hóa thuộc thể loại tranh thờ, một số hình họa trang trí cho những
sắc phong và một số cảnh sinh hoạt nông thôn - tất cả đều có giá trị nghệ thuật
không cao và đều thuộc những thế kỷ gần đây.
Hội họa cổ Việt Nam (ngoại
trừ tranh Đông Hồ và tranh Hàng Trống mà không thể liệt vào hội họa theo nghĩa
chính xác của từ ấy) vắng mặt trong trang trí nội thất của người Việt, kể cả những
gia đình khá giả từ đời này đến đời kia chơi đồ cổ, trong đó có tranh cổ.
Ngay trong cung điện của các
vua nhà Nguyễn ở Huế, chúng ta cũng chỉ thấy những tranh vẽ trên gương với chất
lượng rất trung bình. Vua chúa Việt Nam không khuyến khích và bảo trợ cho hội họa
(trường hợp Trần Nhân Tông là một ngoại lệ rất hiếm hoi).
Vào thời buổi thịnh trị nhất
của nhà nước phong kiến quân chủ Việt Nam, Lê Thánh Tông lập hội Tao đàn nhị thập
bát tú, cổ vũ sáng tác thơ văn trong giới quan lại cung đình, chứ không lập
"Đồ họa Hàn lâm viện" để khuyến khích và bồi dưỡng những tài năng
trong hội họa.
Hệ quả tất yếu là các văn
nhân đất Việt thường ưa thích và biết xướng họa thi ca nhưng chẳng mấy người nắm
vững nghệ thuật hội họa (và cả thư pháp). Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn
Du, Nguyễn Công Trứ thuở còn hàn vi hay sau khi đã rũ áo từ quan thường gửi gắm
tâm sự của mình vào thơ hoặc tham gia ca hát với các kỹ nữ chứ không cầm cũng
chiếc bút lông ấy, dùng cũng thứ mực Tàu ấy vẽ lên cũng những tờ giấy ấy những
tranh thủy mặc hay những bức thư pháp. Nước Việt Nam ta không có những Tào Thực,
Vương Duy, Tô Đông Pha, Ba Tiêu (Ba Sô) - những nhà thơ lớn đồng thời là những
danh họa và thư pháp gia.
Trong một nền văn hóa mà chỉ
một nghệ thuật văn chương giữ địa vị độc tôn, bản thân nghệ thuật ấy không phát
triển được phong phú và muôn màu muôn sắc do thiếu cọ sát, tương tác, thi sức với
các nghệ thuật khác.
Trong bối cảnh như thế,
không thể hình thành một nền phê bình văn nghệ, chứ chưa nói đến lý luận và triết
học nghệ thuật. Điều này sẽ gây ra nhiều trở ngại rất khó khắc phục cho những
ai ấp ủ kỳ vọng viết lịch sử mỹ học Việt Nam hay lịch sử văn hóa Việt Nam nói
chung.
Tình hình thay đổi hẳn nếu
chúng ta ngoái nhìn sang các nước "đồng văn" với chúng ta: Trung Quốc,
Nhật Bản, Triều Tiên. Ở đấy, trước tiên là ở Trung Quốc - trung tâm của thế giới
Hán hóa (cinisé), nước láng giềng liền núi liền sông đã ảnh hưởng tạo tác đến
thế, đến toàn bộ nền văn hóa vật chất và tinh thần của người Việt chúng ta - hội
họa cũng như thư pháp được coi trọng và khuyến khích phát triển không kém văn học.
Như nhiều người biết, ở Trung Quốc, bên cạnh những nhà thơ đại tài được hậu thế
tôn là "thi thánh", có những "họa thánh" và "thư
thánh".
Thư pháp và hội họa là hai
chị em ruột sinh hạ hầu như cùng một lúc, trưởng thành trong sự giúp đỡ lẫn
nhau, tương tác và liên kết với nhau trong sự quan tâm, bảo trợ của nhà nước và
xã hội. Nhiều hoàng đế Trung Hoa là những họa sĩ và những thư pháp gia, hoặc là
những nhà sưu tập nghệ thuật trứ danh.
Họa viện được thành lập bên
cạnh hoàng gia và hoạt động có quy củ từ thế kỷ 8. Không chỉ thi tứ, mà cả thư
họa đã sớm trở thành những thú vui tao nhã của giới sĩ phu Trung Hoa, cả những
người làm quan cũng như những người tránh xa quan trường.
Chính do sự khác biệt giữa
nghệ thuật cung đình - quan phương với nghệ thuật của các sĩ phu tự do mà trong
lịch sử nghệ thuật Trung Hoa đã hình thành hai dòng hội họa trường tồn:
"Viện thể họa" và "Văn nhân họa", đối lập với nhau nhưng
cũng ảnh hưởng, thẩm thấu lẫn nhau, cùng với sự tiếp thu ảnh hưởng của nghệ thuật
phương Tây trong nhiều thế kỷ bảo đảm sự phát triển năng động, giàu thành tựu
đa dạng của hội họa và mỹ thuật Trung Hoa nói chung.
Với những khác biệt tất yếu
nhưng khôngcơ bản, bức tranh phát triển hội họa và mỹ thuật ở Nhật Bản cũng hiện
ra tương tự. Nơi đây, cũng như ở Trung Quốc có, thơ ca, hội họa, thư pháp vừa
phát triển đồng hành, vừa liên kết với nhau chặt chẽ, đôi khi tạo thành những
thể thống nhất không thể tách rời như ở thể loại saiga.
Còn mức độ bắt rễ của chúng
vào đời sống hàng ngày, vai trò tác dụng của chúng trong việc nuôi dưỡng khiếu
thẩm mỹ của con người Nhật thì được thể hiện nổi bật thí dụ bằng sự hiện diện
cái tokonoma trong nội thất của mọi gia đình Nhật Bản.
Sang thời đại mới, trong cuộc
gặp gỡ vĩ đại giữa văn hóa phương Đông với phương Tây, hội họa và mỹ thuật cổ
truyền Trung Quốc và Nhật Bản đã ảnh hưởng tác thành thế nào đến nhiều ngành
nghệ thuật Âu - Mỹ thế kỷ 19 -20, đã làm giàu đến đâu kho tàng chung của nghệ
thuật thế giới - về đề tài này đã có nhiều công trình nghiên cứu đáng tin cậy
được viết ở nhiều nước và bằng nhiều thứ tiếng.
Từ Trung Quốc, Nhật Bản và cả
Triều Tiên chuyển sang nghiên cứu mỹ thuật Việt Nam cổ truyền, các học giả
phương Tây đầu thế kỷ 20 dễ có cảm tưởng là ở người Việt không có
"gen" hội họa.
Hạnh phúc thay những nghi ngờ
ấy đã khá mau chóng được xua tan bởi những tác phẩm hội họa được triển lãm ở Hà
Nội, Paris, Tokyo, Hồng Kông... của một loạt họa sĩ trẻ, báo hiệu sự ra đời tuy
muộn màng nhưng gây ấn tượng của một nghệ thuật hội họa Việt Nam đích thực.
Tất cả những họa sĩ ấy đều
là sinh viên Trường Mỹ thuật Đông Dương - một trường cao đẳng được thành lập
năm 1925 và nằm trong hệ thống Đại học Đông Dương được chính quyền Pháp bắt đầu
xây dựng từ đầu thế kỷ 20.
Nói đến Trường Mỹ thuật Đông
Dương và vai trò của nó trong sự hình thành và phát triển của hội họa Việt Nam
tức là nói đến công lao rất to lớn, đáng được ghi nhớ mãi mãi, của một họa sỹ
người Pháp Victor Tardieu (1870 - 1937) cùng các cộng sự của ông - những họa sĩ
Pháp khác và những nhà nghiên cứu nghệ thuật làm việc tại Trường Viễn Đông Bác
Cổ (Inguimberty, De Fénis, Roger, Goloubev, Besacier...).
Chính họ với nhiệt tình và
lương tâm nghề nghiệp cao đã tuyển chọn vào trường những thanh niên thực sự có
năng khiếu để đào tạo thành những nghệ sĩ tạo hình chân chính, truyền đạt cho họ
những kiến thức vững chắc về những nền nghệ thuật lớn của thế giới, với lịch sử
lâu đời, quanh co khúc khuỷu, đầy những biến đổi và dồi dào thành tựu của
chúng.
Và điều quan trọng hơn cả,
chính những người ngoại quốc ấy đã khích lệ, hướng dẫn, giúp đỡ những họa sĩ trẻ
Việt Nam tìm ra những con đường nhiều hứa hẹn để trong một thời gian lịch sử ngắn
sáng tạo nên một nền hội họa vừa hiện đại vừa mang rõ dấu ấn dân tộc.
Trong lịch sử nghệ thuật Việt
Nam, giai đoạn 1930 - 1945 là buổi đơm hoa kết trái đầu tiên trong tiến trình
văn hóa Việt Nam hội nhập văn hóa thế giới. Nó được đánh dấu bằng nhiều biến
chuyển lớn, trong đó có hai biến chuyển kỳ diệu: sự phát triển gia tốc của văn
xuôi nghệ thuật với một số đỉnh cao cho đến giờ vẫn chưa được vượt qua và sự ra
đời và sớm đạt độ chín muồi của hội họa (tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh, tranh
sơn mài của Nguyễn Gia Trí và Hoàng Tích Chù, tranh sơn dầu của Tô Ngọc Vân và
Trần Văn Cẩn, nếu chỉ điểm những thành công nổi bật nhất).
Phong trào Thơ Mới ở ta
trong những năm 30 được gọi là "cuộc cách mạng trong thơ ca" và hiện
nay đã được nghiên cứu đến mức vắt kiệt, theo chúng tôi lại không có được ý
nghĩa to lớn và trường cửu như thế.
Cái đó thể hiện ở ngay ngôn
ngữ và hình thức thi ca, mà rất nhiều độc giả người Việt hôm nay, đặc biệt các
nhà thơ, cảm thấy rõ ràng đó là ngôn ngữ và hình thức của một thời đại đã qua
và không bao giờ trở lại (chưa nói đến thế giới cảm xúc và tâm tưởng mà dòng
thơ lãng mạn ấy biểu tả).
Trong khi đó thì những truyện
ngắn xuất sắc của Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao..., ký của Vũ Trọng Phụng
và Nguyễn Tuân, hai tiểu thuyết Số đỏ và Sống mòn (cần thêm vào cả những kịch
phẩm văn xuôi của Đoàn Phú Tứ và Nguyễn Huy Tưởng), người đọc hôm nay vẫn thấy
là mới, là hiện đại, tức là chúng đạt được chất "cổ điển mới".
Nguyên nhân của sự phát triển
lệch pha này so với những người viết xuôi hay kịch nói, mà thiết nghĩ, ở sức mạnh
của truyền thông, ở sức ỳ của tư duy thơ ca được nuôi dưỡng bằng sức ỳ của thị
hiếu công chúng mà bản thân những người quyết tâm làm một cuộc cách mạng trong
thơ thời ấy cũng chưa ý thức được đầy đủ. Đối với sáng tạo nghệ thuật, truyền
thống luôn luôn vừa là bệ đỡ vừa là rào cản.
Theo cảm nhận của chúng tôi,
đối với thơ Việt Nam thời mới thì nó là rào cản nhiều hơn bệ đỡ, và nếu không
xuất hiện những thiên tài xuất chúng thì cần nhiều nỗ lực kiên trì và có ý thức
của nhiều thế hệ nhà thơ nữa để cho nền thơ nước nhà có thể đạt được chất
"cổ điển mới". Chính sự không có truyền thống hóa ra lại là một nhân
tố quan trọng hỗ trợ sự trưởng thành nhanh chóng của văn xuôi nghệ thuật và hội
họa Việt Nam trong các giai đoạn đương nói đến.
Song như ta sẽ thấy, cũng sự
thiếu vắng truyền thống lâu đời, vững chắc, với nhiều đỉnh cao không thể che lấp,
sau này trong những bối cảnh lịch sử đã đổi khác sẽ gây cho văn chương và hội họa
nước nhà không ít khó khăn.
Nhìn nhận và so sánh hồi cố
văn chương và mỹ thuật Việt Nam giai đoạn 1945-1975, trước tiên cần luôn luôn
nhớ rằng nền văn chương và mỹ thuật ấy tồn tại và phát triển trong điều kiện
cách mạng và chiến tranh. Như mọi người đều biết, cách mạng Việt Nam vừa là
cách mạng giải phóng dân tộc vừa là cách mạng xã hội, và nó được tiến hành
trong điều kiện 30 năm chiến tranh rất gian nan.
Như lịch sử cho thấy, mọi
cách mạng xã hội và mọi cuộc chiến tranh đều không thuận lợi cho sự phát triển
liên tục, không đứt đoạn, không có những đảo lộn giá trị văn hóa. "Ở đâu đại
bác rền vang, nơi ấy các nữ thần nghệ thuật câm lặng" - châm ngôn ấy của
Goethe, phát ra trong những năm cuộc Đại cách mạng Pháp làm chấn động cả châu
Âu - với những đính chính nhất định, xem ra có thể áp dụng cho mọi quốc gia và
mọi thời đại.
Trong lịch sử văn học và nghệ
thuật Pháp, giai đoạn 1789 -1815 là giai đoạn để lại những trang trắng, không
phải vì trong thời kỳ ấy người Pháp không sáng tác thơ, văn xuôi, kịch, hội họa,
điêu khắc và những sáng tác ấy không được cổ vũ, biểu dương, ghi công, mà vì tất
cả chúng (trừ những ngoại lệ hy hữu) đều không qua được thử thách của thời
gian. Văn chương, nghệ thuật Pháp chỉ bắt đầu hồi sinh từ thời Trung hưng (1915-1830).
Tình trạng văn nghệ Việt Nam
trong ba thập kỷ đương nói đến không giống như thế. Sẽ còn lại dài lâu với thời
gian không ít những bài thơ và đặc biệt những bài hát kháng chiến hay, những
truyện ngắn và những bài ký thành công, nhưng đáng tiếc rất thưa thớt những kịch
phẩm và hoàn toàn thiếu vắng những tiểu thuyết đã chứng tỏ có sức sống lâu bền.
PGS Phạm Vĩnh Cư
Nguồn Đất Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét